Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật XXVI Thường Niên B –
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVI Thường Niên Năm B này có thể
được gọi là “chia sẻ”.
Ds 11: 25-29
“Chia sẻ” những ân ban của Thần Khí hướng đến chia sẻ những
trách nhiệm, mà không bất kỳ áp lực phàm nhân nào có thể giới hạn tác động của
Thần Khí Thiên Chúa. Đây là ý nghĩa của chuyện tích trong sách Dân số về việc tấn
phong các Kỳ Mục Ít-ra-en để các ông trở thành những người cộng tác với ông
Mô-sê trong việc hướng dẫn dân Chúa chọn.
Gc 5: 1-6
Thánh Gia-cô-bê khuyên “chia sẻ” những của cải trong các cộng
đoàn Ki-tô hữu để hướng đến lý tưởng Tin Mừng về đức khó nghèo.
Mc 9: 38-43, 45, 47-48
Đức Giê-su giáo huấn các môn đệ biết “chia sẻ” những ân ban
Thần Khí, thậm chí cả bên ngoài cộng đoàn Ki-tô hữu.
BÀI ĐỌC I (Ds 11: 25-29)
Sách Dân Số là sách thứ tư của bộ Ngũ Thư, sách này được đặt
ở giữa sách Lê-vi và sách Đệ Nhị Luật. Nhan đề của sách: “Dân Số”, do từ cuộc
điều tra dân số mà ông Mô-sê tiến hành trước khi dân rời bỏ núi Xi-nai. Việc điều
tra dân số chiếm trọn những chương đầu tiên của sách.
Tiếp đó, sách thuật lại cuộc hành trình của dân Do thái qua
sa mạc. Vài tình tiết, đã được tường thuật rồi trong sách Xuất Hành, được lập lại
trong sách này, thường với những biến thể hay với những viễn cách khác. Như vậy
chúng ta có hai bản văn thuật lại việc ông Mô-sê chọn những cộng tác viên để
giúp đỡ ông trong công việc hướng dẫn dân chúng: một bản văn “phàm trần” (Xh
18: 13-26) và một bản văn “đặc sủng”; chính bản văn đặc sủng mà chúng ta đọc ở
chương 11 của sách Dân Số.
1. Bản văn phàm trần (Xh 18: 13-26):
Trong bản văn phàm trần (Xh 18: 13-26), chính bố vợ của ông
Mô-đến gặp con rể của mình là ông Mô-sê. Ông Gít-rô lo lắng khi nhận thấy ông
Mô-sê đảm nhận công việc hướng dẫn dân chúng quá nặng nhọc và kiệt sức, vì thế,
ông khuyên ông Mô-sê chọn “những ai là người có tài, biết kính sợ Thiên Chúa,
đáng tin cậy, không ham của bất chính, thì đặt họ làm những người chỉ huy… Họ sẽ
thường trực xử kiện cho dân” (Xh 18: 21-22). Ông Mô-sê vâng theo lời khuyên
khôn ngoan này.
2. Bản văn đặc sủng (Ds 11):
Bản văn đặc sủng của sách Dân Số do một nhà biên soạn khác.
Ông Mô-sê phàn nàn với Thiên Chúa về trọng trách quá khó nhọc mà ông phải đảm
nhận trong việc hướng dẫn dân cứng cổ cứng đầu này. Việc dẫn dắt dân này, một
dân không ngừng kêu ca ta thán, là một công việc quá nặng nề, một mình ông khó
gánh vác nổi. Đức Chúa khuyên ông Mô-sê chọn cho mình những cộng tác viên ở giữa
các Kỳ Mục của dân Ít-ra-en. Ông Mô-sê chọn, nhưng chính Thiên Chúa tấn phong.
3. Việc Tấn Phong
Cách thức Thiên Chúa tấn phong bảy mươi Kỳ Mục thật lạ lùng
nhưng thật ý nghĩa. Đức Chúa lấy một phần Thần Khí đang ngự trên ông Mô-sê mà đặt
trên bảy mươi vị Kỳ Mục. Cách thức này nhấn mạnh rằng các Kỳ Mục này lãnh nhận
cùng một sứ mạng như ông Mô-sê và chia sẻ những trọng trách với ông, trong khi
vẫn lệ thuộc vào ông và đường lối của ông.
“Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông, thì các ông bắt đầu
phát ngôn”, nghĩa là cuộc tấn phong của các ông được biểu hiện bằng những dấu
chỉ bên ngoài. Được Thần Khí chiếm đoạt, các Kỳ Mục này bắt đầu phát ngôn,
nghĩa là “xuất thần ngôn sứ” (1Sm 10: 10-13; 19: 20-24). Hiện tượng này “không
tái diễn nữa”. Ân ban Thần Khí được biểu hiện qua việc “xuất thần ngôn sứ” chỉ
diễn ra trong một giai đoạn ngắn, như được gặp thấy trong các ngôn sứ thời xưa,
và sẽ biến mất với sự xuất hiện của truyền thống ngôn sứ bút ký sau đó. Trong
đoạn văn này, chúng ta nên ghi nhận rằng hiện tượng xuất thần ngôn sứ này chỉ
là phụ, không bao giờ do những nghi thức phù chú hay theo những phương thức đồng
bóng của dân ngoại. Các ngôn sứ Ít-ra-en vẫn luôn luôn ý thức về nguồn gốc thần
hứng của mình.
4. Thần Khí hoàn toàn tự do trong ân ban của Ngài
Hai thành viên của
nhóm Kỳ Mục, được ghi trong danh sách các Kỳ Mục, nhưng đã không có mặt với bảy
mươi thành viên khác ở Lều Thánh, lý do không được nêu lên. Do hờn dỗi? Hay sợ
trách nhiệm? Dù sao đi nữa, Thần Khí không quên họ; mặc dầu không đến tham dự
cuộc hội họp ở Lều Thánh theo lời hiệu triệu của ông Mô-sê, hai ông cũng được
ân ban Thần Khí.
Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Mô-sê. Chàng
thanh niên này là ông Giô-suê, người hầu cận trung thành của ông Mô-sê. Cậu lo
lắng rằng hai người được ân ban Thần Khí này đã không tham dự buỗi nhóm họp
chính thức trong Lều Thánh, liệu họ sẽ hành xử ơn gọi ngôn sứ mà không vâng phục
ông Mô-sê chăng? Vì thế, Giô-suê nói với ông Mô-sê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn
ngăn cản họ!”. Ông Mô-sê phê phán tinh thần bất khoan dung và hẹp hòi của ông
Giô-suê khi trả lời: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên
toàn dân của Người để họ đều làm ngôn sứ!”. Qua câu trả lời này, chúng ta hiểu
ông Mô-sê, ông ước mong rằng dân cứng cổ cứng đầu này cần phải được Thần Khí thực
sự ở cùng. Nếu toàn dân được sự khôn ngoan của Thiên Chúa hướng dẫn, họ sẽ thay
lòng đổi dạ biết mấy.
Ước nguyện của ông Mô-sê sẽ được thực hiện vượt quá khung cảnh
này, trong truyền thống ngôn sứ sau này và sẽ được ứng nghiệm một cách viên mãn
vào ngày lễ Ngũ Tuần, khi Thần Khí ngự xuống đầy tràn trên các Tông Đồ (Cv 2:
16-21) và trong toàn thể Giáo Hội (Ep 4: 3-4; 1Cr 12: 4-11). Tác động Thần Khí
không bị giới hạn vào bất cứ đối tượng nào được xem là chính thức, vì Thần Khí
hoàn toàn tự do trong việc ban phát ân huệ của Ngài. Đây là bài học vĩ đại của
đoạn văn sách Dân Số này; bài học này được Tin Mừng hôm nay xác nhận.
BÀI ĐỌC II (Gc 5: 1-6)
Đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay trình bày một
trong những đề tài chủ đạo của thư: bênh vực những người nghèo và nhắc nhở lý
tưởng Tin Mừng về sự nghèo khó.
Thánh Gia-cô-bê vừa mới bài xích sự khôn ngoan của thế gian
(4: 13-17); giờ đây thánh nhân lên án những người giàu có tích trữ của cải bằng
cách áp bức bốc lột những người nghèo. Thánh nhân định vị những lời cảnh báo của
mình vào trong viễn cảnh của cuộc phán xét chung cuộc. Những lời kêu trách của
thánh nhân thật dữ dội: “Hỡi những người giàu có, các ông hãy khóc lóc than
van”. Những lời này nhắc nhớ những lên án nghiêm khắc của các ngôn sứ. Ý tưởng
thì cũng như nhau ở đây, viễn cảnh cũng là cánh chung. Những án phạt đang chờ đợi
những người giàu có là những bất hạnh họ phải chịu vào Ngày Phán Xét.
1. Sự phù du của tài sản
Được nhìn trong ánh sáng của vương quốc Thiên Chúa, việc chất
đống của cải và tích trử tiền bạc chẳng có nghĩa lý gì: “Tài sản của các ông đã
hư nát, quần áo của các ông đã bị mối ăn”. Hình ảnh Kinh Thánh này rất kinh điển.
Đức Giê-su cũng đã sử dụng những hình ảnh như vậy: “Anh em đừng tích trữ cho
mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy
đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm
hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi” (Mt 6: 19-20).
Thánh Gia-cô-bê còn gợi ý thêm nữa: “Vàng bạc của các ông bị
rỉ sét”. Thật ra, vàng không bị rỉ sét và tiền bạc thì khá bền vững, nhưng hình
ảnh thì rất mạnh: trước tòa án Thiên Chúa, việc tích trữ của cải cho riêng mình
mà không chia sẻ với những anh em khốn khổ của mình là một trọng tội. Vì thế,
thánh nhân khuyên: “Các ông đã lo tích trữ làm giàu trong những ngày sau hết”,
tức là trong thời kỳ này, thời kỳ khai mạc kỷ nguyên Thiên Sai và sẽ hoàn tất
vào ngày Quang Lâm của Chúa. Xưa kia, trong thời Cựu Ước, sự giàu có của cải được
xem là lời chúc phúc của Đức Chúa, phần thưởng cho những ai trung thành tuân giữ
Lề Luật. Một quan niệm như vậy không còn nữa. Vương quốc Thiên Chúa đã đến, những
của cải tinh thần được dâng hiến cho con người cách phong phú và đòi hỏi một
tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế. Từ đó, thái độ ích kỷ của những
người giàu có không chỉ là có tội, nhưng cũng là ngu xuẩn.
2. Người nghèo
Thánh Gia-cô-bê còn phê phán người giàu có nặng lời hơn nữa:
“Các ông đã giữ lại tiền lương của những người thợ đi cắt lúa trong ruộng của
các ông”. Ở đây, thánh Gia-cô-bê không còn nhắm đến những nhà tài chính hay những
thương nhân, nhưng những điền chủ. Luật đòi buộc rằng tiền lương của người thợ
phải được trả ngày nào theo ngày đó. Vì người nghèo sống theo tiền công nhật của
mình, như huấn lệnh của sách Đệ Nhị Luật: “Chính ngày hôm ấy, anh em phải trả
công cho họ, đừng để mặt trời lặn mà không trả công, vì họ nghèo khổ và nóng
lòng mong đợi được trả công; như vậy họ sẽ không kêu lên Đức Chúa tố cáo anh
em, và anh em sẽ không mang tội” (Đnl 24: 15).
Người giàu giữ lại tiền lương của người thợ, dù chỉ một thời
gian, là vị phạm sự công bình giao hoán. Hiền nhân Si-rác đã bày tỏ nỗi công phẫn
trước những kẻ giàu có bắt tay với những kẻ quyền thế mà tước đoạt những phương
tiện sống của những người nghèo: “Người túng nghèo còn chút bánh độ thân, ai lấy
đi là kẻ hút máu. Cướp phương tiện sống của kẻ khác là giết người; đoạt lương của
người làm thuê là gây đổ máu” (Hc 34: 21-22).
3. Thiên Chúa của những người nghèo
Thánh Gia-cô-bê đối lập thái độ của những kẻ giàu có “trên
cõi đất” này, những kẻ sống xa hoa vô độ trên xương máu của anh em đồng loại của
mình, với thái độ của Thiên Chúa, Chúa Tể càn khôn, Đấng bênh vực những người
nghèo. Giờ phán xét sẽ bất ngờ ập xuống trên họ, những kẻ “đã ăn uống linh
đình, đã buông theo khoái lạc, lòng họ đã được thỏa thuê vui thú trong ngày sát
sinh”. Quả thật, hình ảnh “Ngày của Chúa” đôi khi được diễn tả bằng hình ảnh
“ngày sát sinh”, vì vào ngày ấy, Đức Chúa sẽ minh oan cho những người công
chính và hủy diệt mọi kẻ gian ác.
Câu kết thúc của đoạn văn này quả thật khó hiểu: “Các ngươi
đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các ngươi”. Vậy,
ai là người công chính đã bị những người giàu có kết án và giết hại mà không hề
cưỡng kháng? Có người nghĩ rằng thánh Gia-cô-bê trở lại hình ảnh của người
nghèo bị người giàu áp bức, bóc lột, tước đoạt đất đai như phương tiện sống, đó
là tội sát nhân, theo cách diễn tả của hiền nhân Si-rác. Người khác nghĩ rằng
người công chính này được hiểu theo nghĩa tổng quát, đối lập với quân gian ác
như các sách minh triết thường gợi lên. Ý tưởng căn bản vẫn là: vào ngày phán
xét, người nghèo và người công chính sẽ được Thiên Chúa thi ân báo oán.
TIN MỪNG (Mc 9: 38-43, 45, 47-48)
Trong bản văn Tin Mừng này, thánh Mác-cô quy tụ những giáo
huấn khác nhau của Chúa Giê-su, mà mối liên hệ giữa chúng thì khá lỏng lẽo. Tuy
nhiên, thánh ký không đánh mất mục đích của mình: Đức Giê-su huấn luyện các môn
đệ của Ngài, tức Giáo Hội tương lai của Ngài. Nỗi bận lòng của Chúa Giê-su đối
với Giáo Hội là tuyến phát triển nối kết các yếu tố xem ra rời rạc.
1. Tinh thần khoan dung của người môn đệ Chúa Ki-tô
Giáo huấn đầu tiên trong các giáo huấn này được khơi lên từ
một sự kiện: một người trừ quỷ, không thuộc nhóm các ông, đã nhân danh Đức
Giê-su mà trừ quỷ. Thánh Gioan và các môn đệ khác đã cố ngăn cản, vì người đó
không thuộc nhóm chúng ta, không theo phe chúng ta. Thái độ bất khoan dung này
của thánh Gioan, một trong hai anh em trước đây đã được phong biệt danh là “Con
của Sấm Sét” (3: 17), sau này chính ông là người hỏi Chúa Giê-su có muốn các
ông sai lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Sa-ma-ri, vì họ không đón tiếp
Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài trên đường lên Giê-ru-sa-lem (Lc 9: 54). Phản
ứng của thánh Gioan đối với người trừ quỷ không thuộc nhóm chúng ta cũng giống
như thái độ của ông Giô-suê đối với hai kỳ mục không đến Lều Hội Ngộ được mô tả
trong Bài Đọc I.
Chúa Giê-su giữ thái độ thanh thản của một bậc thầy khôn
ngoan khi trả lời với thánh Gioan bằng một lương tâm ngay lành: “Đừng ngăn cản
người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại
có thể nói xấu về Thầy”. Nếu người này nhận ra quyền năng siêu nhiên của Đức
Giê-su, thì người ấy đã bước một bước khởi đầu chấp nhận sứ điệp của Ngài rồi.
Ngài truyền cho các môn đệ phải trải lòng ra tối đa với bất cứ ai không công
khai bày tỏ sự thù địch với các ông: “Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ
chúng ta”. Những lời dạy này được giải thích tốt nhất chắc chắn được gặp thấy
trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-rin-tô: “Chẳng có ai ở
trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: ‘Giê-su là đồ khốn kiếp!’; cũng không ai
có thể nói rằng: ‘Đức Giê-su là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí”
(1Cr 12: 3).
Chúa Giê-su còn đi xa hơn khi cho họ một ví dụ: “Ai cho anh
em uống một ly nước vì lẽ anh em là người của Đức Ki tô, thì Thầy bảo thật anh
em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Cử chỉ của người đó đã là một cử chỉ
tiếp đón, một thái độ bày tỏ sự thân thiện rồi.
2. Thần Khí hoàn toàn tự do trong hành động
Được liên kết với Bài Đọc I, bài học mà Chúa Giê-su đưa ra
thì thật rõ ràng: Giáo Hội không được tin rằng mình giữ độc quyền về những ân
ban của Thần Khí, vì Thần Khí hoàn toàn tự do trong lãnh vực hoạt động của
Ngài.
Quả thật, ơn gọi của các ngôn sứ Cựu Ước cho chúng ta thấy
điều đó. Trong Cựu Ước, ơn gọi ngôn sứ không là một định chế cha truyền con nối
như định chế tư tế, nhưng là đặc sủng. Vì thế, không phải tất cả các ngôn sứ đều
là tư tế. Trong số những vị ngôn sứ bút ký thời danh, chỉ có hai người: Giê-rê-mi-a
và Ê-dê-ki-en là tư tế trước khi lãnh nhận sứ vụ ngôn sứ, còn đa số còn lại đều
là những thường dân, với gia thế và nghề nghiệp khác nhau trước khi được gọi
làm ngôn sứ. Trong những hoàn cảnh Thiên Chúa thấy cần lên tiếng, Ngài chọn những
ngôn sứ của Ngài để nhân danh Ngài chuyển giao sứ điệp của Ngài đến những đối
tượng mà Ngài muốn. Câu trả lời của ngôn sứ A-mốt với ông A-mát-gia, tư tế đền
thánh Bết-Ên cũng đủ nói lên điều đó: “Tôi không phải ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc
nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính
Thiên Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn súc vật, và Đức Chúa đã truyền
cho tôi: Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en, dân Ta” (Am 7: 14-15).
Một trong những nét đặc trưng của các ngôn sứ Cựu Ước đó là,
họ ý thức rất rõ họ được Chúa sai đi để chỉ nói lời Thiên Chúa không được nói lời
của mình hay lời của bất kỳ ai khác. Tuy nhiên, trong bối cảnh mà các ngôn sứ
giả cũng tự cho mình là phát ngôn viên của Thiên Chúa, một trong những tiêu chuẩn
để phân biệt giữa ngôn sứ giả và ngôn sứ thật khiến chúng ta phải suy nghĩ:
ngôn sứ thật nhân danh Thiên Chúa lên án những bất công xã hội, bênh vực những
kẻ nghèo khổ, những người bị áp bức, dù phải chịu sĩ nhục, nhạo báng và bách hại
nữa. Trái lại, các ngôn sứ giả lại tâng bốc bợ đỡ những kẻ có quyền có thế, những
kẻ áp bức và bốc lột những người nghèo hèn cô thế. Cuộc tranh cãi giữa ông
Kha-nan-gia, vị ngôn sứ giả, và ông Giê-rê-mi-a, vị ngôn sứ thật, cho thấy điều
đó (Gr 28: 1-17). Chính nhờ truyền thống ngôn sứ này mà Do thái giáo không đóng
khung việc phụng thờ Thiên Chúa trong các lễ lạc hội hè, nhưng còn mở ra mối
dây liên đới với anh chị em của mình. Chúng ta có thể nói họ chuẩn bị giáo huấn:
“mến Chúa và yêu người”, của Đức Kitô.
Thêm nữa, ân ban ngôn sứ đôi khi không chỉ giới hạn trong
dân Chúa chọn, nhưng tràn ra bên ngoài nữa, như câu chuyện của ông Bi-lơ-am (Ds
22-24). Quả thật, ngày hôm nay, chúng ta cũng gặp thấy những người, đôi khi
không phải là người Ki-tô hữu, nhưng vì lương tâm ngay thẳng và nhạy bén trước
tình đồng loại, họ xả thân bênh vực những người nghèo, lên án những bất công
trong xã hội, dù phải chịu nhiều hy sinh mất mát kể cả mạng sống của mình. Làm
thế nào chúng ta không thể thấy rằng những thiện ý của họ phát xuất từ Thần Khí
được chứ? Nói cho cùng, Thần Khí hoàn toàn tự do trong hoạt động của Ngài, như
lời khẳng định của Đức Giê-su trong cuộc nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô: “Gió
muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và
thổi đi đâu” (Ga 3: 8).
3. Kính trọng những kẻ bé mọn. Nghiêm túc đối với chính mình
Trong tất cả mọi cộng đoàn, đều có những người vững mạnh và
những những người yếu nhược. “Những kẻ bé mọn đang tin đây” chắc chắn là những
người mà đức tin của họ cần được soi sáng và được nâng đỡ bởi mẫu gương của những
người vững mạnh trong đức tin. Đức Giê-su nhấn mạnh trách nhiệm của những người
mà qua cách hành xử của mình, khiến những kẻ bé mọn đang tin có nguy cơ lầm đường
lạc lối. Mỗi người phải xét mình một cách nghiêm túc. Bằng kiểu nói ngoa dụ gợi
nhớ các ngôn sứ, Đức Giê-su khuyên chặt tay, chặt chân, móc mắt, nếu chúng gây
cớ vấp ngã cho những người bé mọn đang tin này. Bởi vì có gì quý giá hơn sự sống
đời đời. Chúa Giê-su dùng những hình ảnh truyền thống: giòi bọ và lửa hỏa ngục
để mô tả cái chết tinh thần của những kẻ gây cớ vấp phạm cho anh em mình.
Việc bảo vệ những kẻ bé mọn cho đến đức tin mõng dòn, dể bị
thương tổn của họ rõ ràng thuộc về sứ điệp Tin Mừng. Đức Giê-su phối hợp sứ điệp
này với những yêu sách cứng rắn mà một môn đệ chân chính và đặc biệt những người
hướng dẫn cộng đoàn trong cuộc hành trình về Nước Trời đòi buộc phải ghi nhớ.
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét