TỪ ĐIỂN PHỤNG VỤ : G
Gậy Giám Mục
(= Crosse)
Ðây là cây gậy chỉ quyền chăn dắt của giám mục và viện phụ. Cây gậy này uốn cong lại phía đầu. Thời đầu, gậy của những người chăn chiên uốn cong lại phía đầu gậy, xẻ rãnh nhỏ để có thể hất tung đất đá tới những con cừu xa đàn. Gậy trở thành biểu tượng sự tỉnh thức của mục tử lo lắng canh giữ đàn chiên và dẫn chúng tới đồng cỏ màu mỡ. Từ đó người ta dễ dàng chuyển ý nghĩa chiếc gậy sang lãnh vực con người và lãnh vực thiêng liêng, nhất là như đã được sử dụng trong Thánh Kinh (xc. Tv 22,4; Ga 10; Lc 15,3-7) và được triển khai trong lối vẽ ảnh thánh.
(= Crosse)
Ðây là cây gậy chỉ quyền chăn dắt của giám mục và viện phụ. Cây gậy này uốn cong lại phía đầu. Thời đầu, gậy của những người chăn chiên uốn cong lại phía đầu gậy, xẻ rãnh nhỏ để có thể hất tung đất đá tới những con cừu xa đàn. Gậy trở thành biểu tượng sự tỉnh thức của mục tử lo lắng canh giữ đàn chiên và dẫn chúng tới đồng cỏ màu mỡ. Từ đó người ta dễ dàng chuyển ý nghĩa chiếc gậy sang lãnh vực con người và lãnh vực thiêng liêng, nhất là như đã được sử dụng trong Thánh Kinh (xc. Tv 22,4; Ga 10; Lc 15,3-7) và được triển khai trong lối vẽ ảnh thánh.
Ghê-Gô-Ri-Ô (Nhạc)
(= Grégorien)
Bình ca Ghê-gô-ri-ô, là lối ca hát riêng của Hội Thánh Rôma (PV 116) đã được gán cho thánh Giáo Hoàng Ghê-gô-ri-ô Cả (năm 590-604). Trong thực tế, thánh Ghê-gô-ri-ô là người đã ấn định bản kinh cầu nguyện theo nghi lễ Rôma trong cuốn "Sách các bí tích Ghê-gô-ri-ô" của người, cũng như quyển quy cách những bài ca được hát trong thánh lễ. Mặt khác, chắc chắn phụng vụ Ghê-gô-ri-ô đã thừa kế từ phụng vụ Rôma những lối ngâm vịnh của vị chủ tế (lời nguyện, kinh Tiền Tụng) và cấu trúc giai điệu cơ bản. Tuy mới xuất hiện từ thế kỷ VIII, hình thức cổ điển của bình ca Ghê-gô-ri-ô giúp cho nền tảng của phụng vụ Rôma thêm phong phú nhờ những nét hoa mỹ của phụng vụ Pháp cổ xưa. Như vậy, lối hát Ghê-gô-ri-ô là kết quả của các truyền thống Rôma và Pháp. Nhờ công cuộc thống nhất của đại đế Charlemagne, lối hát này lan truyền và ít lâu sau được ghi thành nốt nhạc theo hình thức cổ xưa. Các dấu nhạc này rất giá trị vì chúng giúp ta hiểu tiết tấu và giải thích nhạc Ghê-gô-ri-ô (thế kỷ IX-X).
(= Grégorien)
Bình ca Ghê-gô-ri-ô, là lối ca hát riêng của Hội Thánh Rôma (PV 116) đã được gán cho thánh Giáo Hoàng Ghê-gô-ri-ô Cả (năm 590-604). Trong thực tế, thánh Ghê-gô-ri-ô là người đã ấn định bản kinh cầu nguyện theo nghi lễ Rôma trong cuốn "Sách các bí tích Ghê-gô-ri-ô" của người, cũng như quyển quy cách những bài ca được hát trong thánh lễ. Mặt khác, chắc chắn phụng vụ Ghê-gô-ri-ô đã thừa kế từ phụng vụ Rôma những lối ngâm vịnh của vị chủ tế (lời nguyện, kinh Tiền Tụng) và cấu trúc giai điệu cơ bản. Tuy mới xuất hiện từ thế kỷ VIII, hình thức cổ điển của bình ca Ghê-gô-ri-ô giúp cho nền tảng của phụng vụ Rôma thêm phong phú nhờ những nét hoa mỹ của phụng vụ Pháp cổ xưa. Như vậy, lối hát Ghê-gô-ri-ô là kết quả của các truyền thống Rôma và Pháp. Nhờ công cuộc thống nhất của đại đế Charlemagne, lối hát này lan truyền và ít lâu sau được ghi thành nốt nhạc theo hình thức cổ xưa. Các dấu nhạc này rất giá trị vì chúng giúp ta hiểu tiết tấu và giải thích nhạc Ghê-gô-ri-ô (thế kỷ IX-X).
Những bài hát trong thánh lễ và ngay cả trong kinh Thần Vụ đều được truyền lại rất trung thực cho các thế kỷ sau, trong bất cứ loại ký âm nào. Ðối với bộ lễ thì có phần tự do hơn.
Những thể loại bình ca được phát triển đồng thời là: Ca tiếp liên, câu chuyển nghĩa, câu tung hô, các loại Thánh Thi, có liên hệ ít nhiều với âm nhạc dân gian.
Vào cuối thời Trung Cổ, người ta đã đánh mất ý nghĩa của từ La tinh trong câu nhạc, ý nghĩa của tiết tấu và thể nhạc. Do bị pha tạp bởi nhạc đa âm và đối âm, giai điệu của nhạc Ghê-gô-ri-ô cổ điển, vốn nổi bật nhờ tính uyển chuyển và thanh thoát bình ca, loại ca nhạc trang nghiêm và gò bó được soạn một bè để hát tập thể: cuốn Les Messes của Henry Dumont (1610-1684) là một thí dụ điển hình. Ðiều đang tiếc là người ta đã cắt xén những bài hát cổ điển để thích nghi chúng vào những qui điển mới.
Ðan viện Solesmes đã là nơi phát xuất việc phục hồi nhạc Ghê-gô-ri-ô vào hậu bán thế kỷ XIX, nhờ ảnh hưởng của cha Dom Guéranger. Sự tái khám phá này bắt nguồn từ việc nghiên cứu tỉ mỉ các thủ bản của nhạc Ghê-gô-ri-ô. Việc nghiên cứu đó được thành hình cụ thể trong việc xuất bản tập Paléographie musicale. Tiếng La tinh và dấu nhấn, nốt nhạc, giai điệu và tiết tấu, thể thức: tất cả là chìa khóa chính yếu cho việc giải thích trung thực bình ca Ghê-gô-ri-ô.
Những sách hát chính của bình ca Ghê-gô-ri-ô là sách Ðiệp Ca và Ca tiến cấp.
Ghế
(= Stalle)
Chỉ toàn bộ những ghế bằng gỗ trong cung nguyện nhà thờ, dành chỗ cố định thuận tiện cho các giáo sĩ và tu sĩ cử hành phụng vụ. Thường chỗ ghế ngồi có thể nâng cao lên được. Trong vị trí cao đó, chỗ ngồi trở thành như là một điểm tựa, gọi là lòng xót thương (misericordia), vì, khi ngồi, người ta vẫn ở tư thế như là đứng thẳng. Các hàng ghế xếp đối diện nhau hai bên cung nguyện (xc. Cung nguyện).
(= Stalle)
Chỉ toàn bộ những ghế bằng gỗ trong cung nguyện nhà thờ, dành chỗ cố định thuận tiện cho các giáo sĩ và tu sĩ cử hành phụng vụ. Thường chỗ ghế ngồi có thể nâng cao lên được. Trong vị trí cao đó, chỗ ngồi trở thành như là một điểm tựa, gọi là lòng xót thương (misericordia), vì, khi ngồi, người ta vẫn ở tư thế như là đứng thẳng. Các hàng ghế xếp đối diện nhau hai bên cung nguyện (xc. Cung nguyện).
Ghế Giám Mục
(= Faldistoire)
Trong ngôn ngữ phụng vụ, ghế của giám mục không phải là ngai tòa, nhưng là ghế di động để có thể di chuyển tùy theo nhu cầu lễ nghi. Thường ghế này được đặt trước bàn thờ.
(= Faldistoire)
Trong ngôn ngữ phụng vụ, ghế của giám mục không phải là ngai tòa, nhưng là ghế di động để có thể di chuyển tùy theo nhu cầu lễ nghi. Thường ghế này được đặt trước bàn thờ.
Gia-Vê
(= Yahvé)
Ðây là Thánh Danh của Thiên Chúa được mạc khải cho ông Môisê ở bụi gai bốc cháy (Xh 3,14-16; 6,2-3). Danh hiệu này thường gặp thấy trong các bản văn phụng vụ Cựu Ước. Ðó là danh hiệu gồm bốn mẫu tự thánh người Do Thái kiêng không đọc lên, nhưng thay thế bằng từ Adonai, có nghĩa là Ðức Chúa của tôi.
Gia vê là một danh hiệu cổ xưa để chỉ thần tính trong thế giới của người Sê-mít. Danh hiệu này hàm chứa tất cả lịch sử về mối tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Người, nên có một lối phát âm không chắc chắn. Nói chung, danh hiệu ấy có nghĩa là Ðấng hiện hữu, Ðấng tác thành, hay đúng hơn, Ðấng thường tồn. Thực vậy, không nên hiểu ý nghĩa danh hiệu này theo phương diện triết học mà nên hiểu theo phương diện hiện sinh phù hợp với não trạng người Hipri.
(= Yahvé)
Ðây là Thánh Danh của Thiên Chúa được mạc khải cho ông Môisê ở bụi gai bốc cháy (Xh 3,14-16; 6,2-3). Danh hiệu này thường gặp thấy trong các bản văn phụng vụ Cựu Ước. Ðó là danh hiệu gồm bốn mẫu tự thánh người Do Thái kiêng không đọc lên, nhưng thay thế bằng từ Adonai, có nghĩa là Ðức Chúa của tôi.
Gia vê là một danh hiệu cổ xưa để chỉ thần tính trong thế giới của người Sê-mít. Danh hiệu này hàm chứa tất cả lịch sử về mối tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Người, nên có một lối phát âm không chắc chắn. Nói chung, danh hiệu ấy có nghĩa là Ðấng hiện hữu, Ðấng tác thành, hay đúng hơn, Ðấng thường tồn. Thực vậy, không nên hiểu ý nghĩa danh hiệu này theo phương diện triết học mà nên hiểu theo phương diện hiện sinh phù hợp với não trạng người Hipri.
Tầm mức ý nghĩa của danh hiệu ấy được xác định trong Xh 3,14, khi Thiên Chúa tự mạc khải Người là Ðấng hiện hữu. Công thức ấy phải được diễn dịch là: Ta là Ðấng Thường Tồn. Dường như Thiên Chúa muốn nói rằng Người tự mạc khải trong hành vi cứu độ Người sẽ thực hiện cho Dân Người qua trung gian ông Môsê: "Ðiều Ta sẽ làm cho các ngươi sẽ nói cho các ngươi biết Ta là ai, sẽ cho biết Ta muốn là Ðấng nào đối với các ngươi, đồng thời cũng mạc khải cho các ngươi biết các ngươi là ai đối với Ta". Như vậy danh hiệu Gia vê gắn liền với sáng kiến Giao Ước của Thiên Chúa và quá trình thể hiện ơn Cứu Ðộ: chính khi Thiên Chúa bày tỏ vẻ đẹp và vinh quang của Người là khi Người thực sự công bố Danh Thánh của Người.
Mạc khải do Ðức Kitô mang lại đạt tới tuyệt đỉnh của Tình Yêu là Hy Tế Núi Sọ, cho thấy Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8) ngay trong thẳm sâu của những mối tương quan ngôi vị giữa Ba Ngôi, nguồn mạch vinh quang, và trong ơn cứu độ được ban cho chúng ta. Nếu hòa nhập vào trong Phụng Vụ thì Phụng Vụ sẽ đem lại cho chúng ta những bảo đảm cho việc cử hành hoàn hảo Giao Ước trong Giêrusalem thiên quốc, là thành đô được vị ngôn sứ Êdêkien xưng tụng là nơi "Ðức Gia vê hiện diện" (48,35; xc. Kh 21 và 22).
Giá Ðọc Sách
(= Légile)
Ðó là một dụng cụ có chiều cao, trên đó đặt các sách dùng trong lễ nghi phụng vụ. Giá sách được đặt cố định (xc. giá sách hát), khác với giảng đài có tính lưu động.
(= Légile)
Ðó là một dụng cụ có chiều cao, trên đó đặt các sách dùng trong lễ nghi phụng vụ. Giá sách được đặt cố định (xc. giá sách hát), khác với giảng đài có tính lưu động.
Giá Sách
(= Pupitre)
Tiếng La tinh Pulpitum có nghĩa là "cái bục". Trong các đồ dùng phụng vụ, giá sách là một bàn nhỏ có mặt nghiêng, có chân đế hoặc không, dùng để đặt sách Phụng Vụ trong các buổi cử hành. Các giá sách có chân đế thường được gọi là bục sách hoặc giảng đài. Còn từ giá sách được dành để chỉ giá kê sách lễ bằng gỗ hay bằng kim khí, đặt trên bàn thờ. Người ta cũng dùng chiếc gối để kê sách.
(= Pupitre)
Tiếng La tinh Pulpitum có nghĩa là "cái bục". Trong các đồ dùng phụng vụ, giá sách là một bàn nhỏ có mặt nghiêng, có chân đế hoặc không, dùng để đặt sách Phụng Vụ trong các buổi cử hành. Các giá sách có chân đế thường được gọi là bục sách hoặc giảng đài. Còn từ giá sách được dành để chỉ giá kê sách lễ bằng gỗ hay bằng kim khí, đặt trên bàn thờ. Người ta cũng dùng chiếc gối để kê sách.
Giá Sách Hát
(= Lutrin)
Ðó là một dụng cụ, trên đó người ta đặt một cuốn sách. Trong khi giá sách dùng để đọc sách phụng vụ, giá sách hát thường được dùng cho các sách hát (xc. Giá đọc sách).
(= Lutrin)
Ðó là một dụng cụ, trên đó người ta đặt một cuốn sách. Trong khi giá sách dùng để đọc sách phụng vụ, giá sách hát thường được dùng cho các sách hát (xc. Giá đọc sách).
Giải Tán
(= Renvoi)
Nghi thức giải tán là phần kết của một buổi cử hành phụng vụ thánh lễ. Nghi thức giải tán gồm lời chào của linh mục và phép lành như là công thức chào từ biệt gửi đến cộng đoàn (xc. Thánh Lễ). Trong trường hợp đó công thức diễn tả một hành động tạ ơn. Trong một số trường hợp, trước khi ban phép lành, còn có lời cầu nguyện trên dân chúng hay ba công thức long trọng (xc. Phép lành). Khi có một cử hành phụng vụ nào khác tiếp liền sau thánh lễ, như trưng bày Thánh Thể, hay rước kiệu, người ta bỏ công thức giải tán. Trong các Giờ Kinh Phụng Vụ, việc giải tán được thực hiện trong lời cầu nguyện kết thúc, vào giờ Kinh Sáng và Kinh Chiều, kèm theo phép lành của linh mục.
(= Renvoi)
Nghi thức giải tán là phần kết của một buổi cử hành phụng vụ thánh lễ. Nghi thức giải tán gồm lời chào của linh mục và phép lành như là công thức chào từ biệt gửi đến cộng đoàn (xc. Thánh Lễ). Trong trường hợp đó công thức diễn tả một hành động tạ ơn. Trong một số trường hợp, trước khi ban phép lành, còn có lời cầu nguyện trên dân chúng hay ba công thức long trọng (xc. Phép lành). Khi có một cử hành phụng vụ nào khác tiếp liền sau thánh lễ, như trưng bày Thánh Thể, hay rước kiệu, người ta bỏ công thức giải tán. Trong các Giờ Kinh Phụng Vụ, việc giải tán được thực hiện trong lời cầu nguyện kết thúc, vào giờ Kinh Sáng và Kinh Chiều, kèm theo phép lành của linh mục.
Giám Mục
(= Evêque)
Từ Hy Lạp episcopos có nghĩa là vị giám sư, trông coi những người mình có trách nhiệm. Trong thời Hội Thánh sơ khai, giám sự là những trưởng lão (presbuteroi), được các Tông Ðồ ủy thác việc trông coi các cộng đoàn Kitô hữu. Lúc ban đầu hình như trách nhiệm này được thực hiện cách tập thể do các trưởng lão: Thánh Phaolô đã nhắc nhở các vị trưởng lão ở Êphêsô: "Anh em hãy cẩn thận giữ mình và giữ toàn thể đoàn chiên do Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng máu của chính Con Mình" (Cv 20,20). Ít lần sau, một vị giám sự duy nhất được trao trách nhiệm trông coi toàn thể giáo đoàn (1Tm 3,1-7; Tt 1,7-9), được các trưởng lão phụ giúp (Tt 1,5; 1Tm 5,17) và được các phó tế phụ tá (1Tm 3,8-13). Như vậy, giám mục trở thành dấu chỉ và bảo chứng sự hiệp nhất của một giáo đoàn, đồng thời là người kế nghiệp vị Tông Ðồ đã đặt tay tấn phong (Tm 1,6).
(= Evêque)
Từ Hy Lạp episcopos có nghĩa là vị giám sư, trông coi những người mình có trách nhiệm. Trong thời Hội Thánh sơ khai, giám sự là những trưởng lão (presbuteroi), được các Tông Ðồ ủy thác việc trông coi các cộng đoàn Kitô hữu. Lúc ban đầu hình như trách nhiệm này được thực hiện cách tập thể do các trưởng lão: Thánh Phaolô đã nhắc nhở các vị trưởng lão ở Êphêsô: "Anh em hãy cẩn thận giữ mình và giữ toàn thể đoàn chiên do Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng máu của chính Con Mình" (Cv 20,20). Ít lần sau, một vị giám sự duy nhất được trao trách nhiệm trông coi toàn thể giáo đoàn (1Tm 3,1-7; Tt 1,7-9), được các trưởng lão phụ giúp (Tt 1,5; 1Tm 5,17) và được các phó tế phụ tá (1Tm 3,8-13). Như vậy, giám mục trở thành dấu chỉ và bảo chứng sự hiệp nhất của một giáo đoàn, đồng thời là người kế nghiệp vị Tông Ðồ đã đặt tay tấn phong (Tm 1,6).
Thế kỷ II, thánh I-nha-xi-ô thành Antiôkia đã nhiều lần nhấn mạnh đến vai trò trung tâm của giám mục, như là phản ảnh trong sáng của Chúa Cha, của Ðức Kitô và của các tông đồ. Với sự trợ giúp của hàng linh mục và phó tế, tác vụ giám mục được diễn tả trọn vẹn nhất trong việc cử hành Thánh Thể: "Bởi vậy, anh em hãy lo sao để chỉ tham dự vào một Hy Tế Tạ Ơn duy nhất, vì chỉ có một Thân Mình của Chúa chúng ta là Ðức Giêsu Kitô và chỉ một chén thánh duy nhất liên kết chúng ta trong Bửu Huyết của Người, chỉ có một bàn thờ duy nhất, cũng như một giám mục duy nhất cùng với hàng linh mục và phó tế, là những người bạn đồng sự với tôi" (Thư gửi giáo đoàn Philadelphia 4).
Như vậy, truyền thống đã sớm nhận ra sự hiện diện đặc biệt của Ðức Giêsu Kitô nơi Hội Thánh trong con người của vị giám mục. Liên đới với tất cả những người kế vị các Tông Ðồ và đặc biệt với người kế vị thánh Phêrô ở Rôma, giám mục có trọn vẹn quyền thánh chức. Cũng như Ngôi Lời nhập thể đã được Chúa Cha sai đến "không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ" (Mt 20,28), giám mục cũng lãnh nhận sứ vụ tiếp nối ơn cứu độ nhằm phục vụ một giáo đoàn mà mình có trách nhiệm. Với tư cách là thầy dạy, là mục tử và thượng tế, vị giám mục là dấu chỉ hữu hiệu, là bí tích sống động, là chuẩn mực sự hiệp nhất của giáo đoàn với Ðức Giêsu Kitô. Việc phục vụ của giám mục được nổi bật trong việc cử hành long trọng bí tích Thánh Thể, vì quyền giáo huấn và quản trị của người kế vị các Tông Ðồ nhằm qui tụ Dân Chúa trong bí tích Hiệp Nhất. Thánh lễ do giám mục chủ tọa, có các linh mục đồng tế và các phó tế phụ giúp, với sự hiện diện đông đảo của giáo dân là đỉnh cao của phụng vụ Hội Thánh, vì thánh lễ qui tụ mọi thành phần khác nhau trong sự hiệp nhất của Chúa Ba Ngôi nhờ hy tế của Ðức Kitô và nhờ hồng ân của Chúa Thánh Thần. Không phải chỉ một mình giám mục có trách nhiệm qui tụ toàn thể cộng đoàn giáo phận, nên cần phải có sự cộng tác của các linh mục đã được tham dự vào chức tư tế của giám mục, và sự phụ giúp của các phó tế là những người làm nổi bật khía cạnh phục vụ của sứ vụ giám mục (xc. Phó tế, phục vụ). Sẽ không xác thực, nếu có một cái nhìn đi lên đối với bí tích Truyền Chức, và thêm một cái gì đó vào chức linh mục để thành giám mục. Cần phải có cái nhìn đi xuống hơn: chỉ giám mục mới có trọn quyền thánh chức; linh mục được tham dự vào đó xét theo hàng tư tế và phó tế cũng thế, xét theo hàng phục vụ.
Ðể tấn phong giám mục, đòi buộc phải có ít nhất ba giám mục hiện diện. Sự việc ấy có nghĩa là kết nạp vị được tuyển chọn vào giám mục đoàn, kế tục tông đồ đoàn. Nghi thức cốt yếu là việc đặt tay do vị giám mục chủ phong và do tất cả những giám mục hiện diện rồi đến lời cầu nguyện thánh hiến với công thức chính do tất cả các giám mục đọc như sau: "Và giờ đây, lạy Chúa, xin ban quyền lực Chúa là Thánh Thần Tối Cao xuống linh mục này, người được tuyển chọn của Ngài. Chúa đã ban Thánh Thần cho Ðức Giêsu Kitô, Con rất yêu dấu của Chúa và chính Con Chúa đã ban Thánh Thần cho các tông đồ là những người đã xây dựng Hội Thánh khắp nơi, như Thánh Ðiện để tôn vinh Ngài và không ngừng suy tôn Danh Ngài". Cũng cần lưu ý đến cách thức mà phụng vụ của tác vụ giám mục nhắm tới: qui tụ Hội Thánh để trở thành Ðền Thờ vinh quang, luôn vang dội lời chúc tụng Thiên Chúa (Kh 21). Các nghi thức bổ túc là xức dầu thánh trên đầu, trao sách Tin Mừng, trao nhẫn và trao gậy mục tử (xc. Gậy giám mục), nói lên rõ ràng vai trò của vị giám mục là vị thủ lãnh, vị hương dẫn, là hôn phu và là thầy dạy của Hội Thánh, là hình ảnh của D(ức Kitô (xc. Giáo sĩ).
Giáng Sinh
(= Noel)
Một biến thể của từ ngữ La tinh natalis có nghĩa là ngày sinh. Sinh nhật đúng nghĩa nhất là sinh nhật của Chúa Giêsu, cử hành vào ngày 25 tháng 12. Trước hết, đó không phải là việc sinh ra đời như Ngôi Lời nơi cung lòng Chúa Cha, nhưng là ngày sinh của Người về phương diện nhân loại từ cung lòng Ðức Maria, trong chuồng bò ở Bêlem. Ðại lễ Giáng Sinh là trung tâm của chu kỳ Giáng Sinh, được chuẩn bị với Mùa Vọng, rồi đến mùa Giáng Sinh, đại lễ Hiển Linh, lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa, kết thúc chu kỳ mùa Giáng Sinh. Cũng như các Tin Mừng thời thơ ấu đã được soạn thảo sau lời công bố cốt lõi về Phục Sinh - trừ Tin Mừng Máccô và Gioan không nói đến thời thơ ấu của Ðức Giêsu - thì việc cử hành chu kỳ Giáng Sinh cũng đến sau việc cử hành mầu nhiệm Vượt Qua. Ðược ấn định vào khoảng thế kỷ IV và hình như có sau cả lễ Hiển Linh, một lễ phát xuất từ Phương Ðông, Lễ Giáng Sinh được định chế tại Rôma trước năm 336 và được ấn định vào ngày 25 tháng 12, với mục đích Kitô hóa những lễ bái ngoại giáo về ngày sinh nhật của thần Chiến Thắng (Natalis Invicti), tức là thần Mặt Trời, vào tiết đông chí là tiết mặt trời lớn mạnh và sáng chói nhất. Theo lối diễn tả của sách ngôn sứ Malaki, Ðức Kitô là "Mặt Trời Công Chính" (3,20). Từ lễ Giáng Sinh, Chúa Giêsu lớn lên, đang khi thánh Gioan Tẩy Giả nhỏ đi từ ngày 24 tháng 6 là ngày hạ chí. Như thế lời của vị Tiền Hô đã được khoa thiên văn và phụng vụ minh họa:"Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi" (Ga 3,30).
(= Noel)
Một biến thể của từ ngữ La tinh natalis có nghĩa là ngày sinh. Sinh nhật đúng nghĩa nhất là sinh nhật của Chúa Giêsu, cử hành vào ngày 25 tháng 12. Trước hết, đó không phải là việc sinh ra đời như Ngôi Lời nơi cung lòng Chúa Cha, nhưng là ngày sinh của Người về phương diện nhân loại từ cung lòng Ðức Maria, trong chuồng bò ở Bêlem. Ðại lễ Giáng Sinh là trung tâm của chu kỳ Giáng Sinh, được chuẩn bị với Mùa Vọng, rồi đến mùa Giáng Sinh, đại lễ Hiển Linh, lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa, kết thúc chu kỳ mùa Giáng Sinh. Cũng như các Tin Mừng thời thơ ấu đã được soạn thảo sau lời công bố cốt lõi về Phục Sinh - trừ Tin Mừng Máccô và Gioan không nói đến thời thơ ấu của Ðức Giêsu - thì việc cử hành chu kỳ Giáng Sinh cũng đến sau việc cử hành mầu nhiệm Vượt Qua. Ðược ấn định vào khoảng thế kỷ IV và hình như có sau cả lễ Hiển Linh, một lễ phát xuất từ Phương Ðông, Lễ Giáng Sinh được định chế tại Rôma trước năm 336 và được ấn định vào ngày 25 tháng 12, với mục đích Kitô hóa những lễ bái ngoại giáo về ngày sinh nhật của thần Chiến Thắng (Natalis Invicti), tức là thần Mặt Trời, vào tiết đông chí là tiết mặt trời lớn mạnh và sáng chói nhất. Theo lối diễn tả của sách ngôn sứ Malaki, Ðức Kitô là "Mặt Trời Công Chính" (3,20). Từ lễ Giáng Sinh, Chúa Giêsu lớn lên, đang khi thánh Gioan Tẩy Giả nhỏ đi từ ngày 24 tháng 6 là ngày hạ chí. Như thế lời của vị Tiền Hô đã được khoa thiên văn và phụng vụ minh họa:"Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi" (Ga 3,30).
Giảng Ðài
(= Ambon)
Tiếng Hy Lạp anabainein có nghĩa là bước lên. Giảng đài là chỗ cao để những người lên đọc sách hay điều khiển hát trong phụng vụ, đặc biệt là trong thánh lễ. Ðó cũng là nơi để giảng Lời Chúa hoặc ngỏ lời với cộng đoàn.
(= Ambon)
Tiếng Hy Lạp anabainein có nghĩa là bước lên. Giảng đài là chỗ cao để những người lên đọc sách hay điều khiển hát trong phụng vụ, đặc biệt là trong thánh lễ. Ðó cũng là nơi để giảng Lời Chúa hoặc ngỏ lời với cộng đoàn.
Thời Thượng Cổ, giảng đài là nơi công bố Lời Chúa dành cho những thầy đọc sách và ca xướng viên. Giám Mục và linh mục cũng tự do ngỏ lời với dân chúng nơi giảng đài cao đó, hoặc từ những bậc bàn thờ, hoặc từ ngai cao của mình. Tất cả các di tích này vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Ngoài ra, hình thức giảng đài còn được đề cập đến sau cuộc lưu đày ở Babylon trở về, vào ngày phát sinh Do thái giáo và nền phụng vụ Ðền Thờ: "Ông Ê-dơ-ra, viên ký lục, đứng trên cái bục bằng gỗ người ta đã dựng nhân dịp này. Ông Ê-dơ-ra chúc tụng Giavê Thiên Chúa tối cao, và toàn dân giang tay lên đáp lại: Amen, Amen, Amen. Ðoạn khấu đầu thờ lạy, mặt sát đất" (Nkm 8,4-6).
Ðể loan báo Tin Mừng, Ðức Giêsu cũng quan tâm sao cho tất cả mọi người nhìn thấy và nghe Người dễ dàng hơn, khi Người giảng tám mối phúc trên núi, hay khi giảng bên bờ hồ. Ðức Giêsu cũng giảng Phúc Âm ngay trên một mô đất hay trên một chiếc thuyền. Cũng thế, vào thời sơ khai Kitô giáo, vị giám mục cũng ngồi trên tòa của người để giảng (xc. Tòa). Trong Do thái giáo, các tiến sĩ luật hay những bậc thầy trong dân Israel cũng ngồi mà giảng dạy. Phải chăng đó là lý do mà trong một thời gian dài người ta gọi chiếc ghế là vị trí được nâng cao, giữa nhà thờ, nơi các vị chủ chăn thường đứng mà giảng dạy? Ðây là một sự lẫn lộn giữa giảng đài và chỗ ngồi của vị chủ tế.
Giao Ước
(= Alliance)
Giao ước là chính trọng tâm của ý định tình yêu Thiên Chúa ấp ủ từ ngàn đời (xc. Di chúc). Mặc dù không cần có chúng ta, Thiên Chúa vẫn tự mình ràng buộc cách tự do với một dân tộc trong mối tình thân mật chỉ thấy có nơi dây liên kết vợ chồng. Ðược coi là một công trình của Thiên Chúa và Dân Người, phụng vụ trở nên một hành vi trọn vẹn, - nghĩa là hoàn tất - nơi đóng ấn của giao ước, một giao ước Thiên Chúa không ngừng đề xướng cho con người. Vì thế, ta có thể định nghĩa phụng vụ như là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và Dân Người để cử hành Giao Ước.
(= Alliance)
Giao ước là chính trọng tâm của ý định tình yêu Thiên Chúa ấp ủ từ ngàn đời (xc. Di chúc). Mặc dù không cần có chúng ta, Thiên Chúa vẫn tự mình ràng buộc cách tự do với một dân tộc trong mối tình thân mật chỉ thấy có nơi dây liên kết vợ chồng. Ðược coi là một công trình của Thiên Chúa và Dân Người, phụng vụ trở nên một hành vi trọn vẹn, - nghĩa là hoàn tất - nơi đóng ấn của giao ước, một giao ước Thiên Chúa không ngừng đề xướng cho con người. Vì thế, ta có thể định nghĩa phụng vụ như là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và Dân Người để cử hành Giao Ước.
Theo dòng lịch sử cứu độ, các nền phụng vụ được phân biệt qua cách cử hành giao ước. Kinh Tạ Ơn IV đã nói: "Nhiều lần Cha đã giao ước với loài người". Một cách chắc chắn, có thể nói các nền phụng vụ ngoại giáo đã dựa trên nền tảng của giao ước đã được Thiên Chúa đóng ấn với ông Nô-ê (St 9,8-17). Còn giao ước Thiên Chúa lập với ông Ápraham, trở nên thành toàn trong hiến tế Isaac (St 22) chính là giao ước phát sinh phúc lành cho toàn dân. Israel được sinh ra như một Dân của Ðức Giavê, lúc diễn ra cử hành phụng vụ trọng thể Giáo Ước Xinai; đó chính là ngày của cộng đoàn (Ðnl 9,10; 10,4; 18,16). Tại đây ông Môsê đã lấy máu hy tế, đổ một nửa lên bàn thờ tượng trưng sự hiện diện của Thiên Chúa, còn phần kia rẩy trên Dân và nói: "Này là máu của giáo ước đã ký kết với các ngươi, thể theo mọi lời ấy" (Xh 24,8).
Cho dầu sự bất trung rành rành của Dân, một Dân trong quá khứ từng được coi là đồng minh của Ðức Giavê - qua sự kiện con bê vàng (Xh 32) - cũng không ngăn cản giao ước Xinai, được đổi mới, trở nên hiện thực trong các buổi cử hành phụng vụ hằng ngày, hằng tuần và hằng năm của dân Israel. Nhưng việc tưởng niệm phụng vụ của giao ước càng ngày càng hướng về tương lai hơn, trong sự chờ đón một giao ước mới các tiên tri đã đan hứa (Gr 31,31-34) và chờ đón "Thần sứ giao ước phải đến nơi Ðền Thờ của Người, làm người khởi xướng cho một lễ vật tinh sạch được dâng tiến trước nhan Giavê từ bình minh tới lúc chiều tà" (Ml 3,1.3.4; x 1,11). Chính Ðức Giêsu trong tư cách vừa là Thiên Chúa vừa là con người, là Giáo Ước đó. Người sẽ khai mào nền phụng tự của Dân Thiên Chúa mới, tức Hội Thánh, bằng Một lễ dâng duy nhất (Dt 10,14). trong bữa tối cuối cùng này, trên đồi Canvê, Người Tôi Tớ đích thực của Ðức Giavê (xc. Is 52,13-53,1-12), Ðấng là Chiên Thiên Chúa sẽ xóa tội nhân loại (xc. Ga 1,29), trối lại cho các Tông Ðồ bí tích hiến tế của Người, sự tưởng niệm Giao Ước mới. Một cách hiển nhiên, những lời truyền phép đã biến rượu thành Máu Người, được đối chiếu với Giao Ước Xinai: "Này là Máu Ta, máu giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra để nhiều người được tha tội" (Mt 26,28; xc. 24,8).
Phát xuất từ đồi Canvê, một nền phụng tự, với trung tâm là lễ Tạ Ơn, đã thấm nhập vào từng chi thể của Giao Ước mới và vĩnh cửu, cho tới khi nên thành toàn ở Giêrusalem trên trời. Lúc đó, công thức giao ước sẽ được thực hiện cách trọn vẹn: "Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi và các ngươi sẽ là Dân của Ta" (Kh 21,3; xc. Xh 6,7; Lv 26,12; Ðnl 26,17-18; Gr 7,23; 11,4; 30,22; 31,1-33; 32,38; Ed 11,20; 14,11; 37,27; 2Cr 6,16).
Giáo Dân
(= Laic)
Tiếng Hy Lạp laikos có nghĩa là thuộc về dân, thành phần của dân, do từ Laos nghĩa là dân. Giáo dân là thành phần của Dân Chúa (từ này chỉ có trong tự điển Kitô giáo). Nhờ bí tích Thánh Tẩy và phép Thêm Sức, giáo dân có thể và phải tham dự vào phụng vụ là công trình Thiên Chúa (xc. Phụng Vụ).
(= Laic)
Tiếng Hy Lạp laikos có nghĩa là thuộc về dân, thành phần của dân, do từ Laos nghĩa là dân. Giáo dân là thành phần của Dân Chúa (từ này chỉ có trong tự điển Kitô giáo). Nhờ bí tích Thánh Tẩy và phép Thêm Sức, giáo dân có thể và phải tham dự vào phụng vụ là công trình Thiên Chúa (xc. Phụng Vụ).
Giáo Ðầu
(= Invitatoire)
Phát xuất từ tĩnh từ invitatorius của tiếng La tinh, có nghĩa là người mời. Thánh Vịnh giáo đầu là thánh vịnh khởi đầu của Giờ Kinh Phụng Vụ đầu tiên trong ngày, nhằm mời gọi ca tụng Chúa. Giáo đầu có tính truyền thống là Tv 94, nhưng cũng có thể chọn Tv 66, 99 và 23. Nếu Giờ Kinh Phụng Vụ đầu tiên trong ngày là giờ Kinh Sáng, thì phải đọc giáo đầu.
(= Invitatoire)
Phát xuất từ tĩnh từ invitatorius của tiếng La tinh, có nghĩa là người mời. Thánh Vịnh giáo đầu là thánh vịnh khởi đầu của Giờ Kinh Phụng Vụ đầu tiên trong ngày, nhằm mời gọi ca tụng Chúa. Giáo đầu có tính truyền thống là Tv 94, nhưng cũng có thể chọn Tv 66, 99 và 23. Nếu Giờ Kinh Phụng Vụ đầu tiên trong ngày là giờ Kinh Sáng, thì phải đọc giáo đầu.
Giáo Sĩ
(= Clerc)
Tiếng La tinh clerus, bắt nguồn từ tiếng Hy lạp klèos có nghĩa là phần nhận được do rút số. Trong Giao Ước cũ, chi tộc Lê vi thuộc 12 chi tộc Israel, cũng là một phần của Ðức Giavê. thiên Chúa phán cùng ông Môsê: "Này, chính Ta, Ta lấy các Lêvít giữa hàng con cái Israel, thay cho các con đầu lòng, để các Lêvít thuộc về Ta, vì là của Ta hết thảy các con trai đầu lòng" (Ds 3,6-9). Ho chịu trách nhiệm về việc phụng vụ. Là một phần của Ðức Giavê, các Lêvít không có phần khi chia Ðất Hứa, phần của họ cao hơn, vì phần của họ chính là Ðức Giavê: "Chỉ trừ có chi tộc Lêvít là không được ban phần cơ nghiệp: Ðức Giavê Thiên Chúa Israel là cơ nghiệp của họ" (Gs 13,14). Trong Giao Ước mới, thành phần giáo sĩ là những người đã lãnh nhận bí tích Truyền Chức (giám mục, linh mục và phó tế) với một tước hiệu đặc biệt, làm thành một phần của Thiên Chúa: họ được dành riêng để lo công việc Thiên Chúa đã kêu gọi họ (Cv 13,3). Công việc cao cả nhất của họ là việc phụng vụ. Ðối lại, chính Thiên Chúa đã là phần thưởng của họ, qua cảm nghiệm về những tài sản của Vương quốc họ có sứ mạng phải loan truyền, và qua tình thân hữu với Ðức Giêsu (xc. Mt 19,27-29; Ga 15,13-16). Như các Tông Ðồ, họ là những người từ bỏ tất cả để theo Ðức Kitô, họ cũng hát khúc ca của các Lêvít: "Lạy Chúa, Chúa là phần con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con, số mạng con chính Ngài nắm giữ; phần tuyệt hảo may mắn đã về con, vâng gia nghiệp ấy làm con thỏa mãn" (Tv 15,5-6) (xc. Truyền chức, Phẩm trật).
(= Clerc)
Tiếng La tinh clerus, bắt nguồn từ tiếng Hy lạp klèos có nghĩa là phần nhận được do rút số. Trong Giao Ước cũ, chi tộc Lê vi thuộc 12 chi tộc Israel, cũng là một phần của Ðức Giavê. thiên Chúa phán cùng ông Môsê: "Này, chính Ta, Ta lấy các Lêvít giữa hàng con cái Israel, thay cho các con đầu lòng, để các Lêvít thuộc về Ta, vì là của Ta hết thảy các con trai đầu lòng" (Ds 3,6-9). Ho chịu trách nhiệm về việc phụng vụ. Là một phần của Ðức Giavê, các Lêvít không có phần khi chia Ðất Hứa, phần của họ cao hơn, vì phần của họ chính là Ðức Giavê: "Chỉ trừ có chi tộc Lêvít là không được ban phần cơ nghiệp: Ðức Giavê Thiên Chúa Israel là cơ nghiệp của họ" (Gs 13,14). Trong Giao Ước mới, thành phần giáo sĩ là những người đã lãnh nhận bí tích Truyền Chức (giám mục, linh mục và phó tế) với một tước hiệu đặc biệt, làm thành một phần của Thiên Chúa: họ được dành riêng để lo công việc Thiên Chúa đã kêu gọi họ (Cv 13,3). Công việc cao cả nhất của họ là việc phụng vụ. Ðối lại, chính Thiên Chúa đã là phần thưởng của họ, qua cảm nghiệm về những tài sản của Vương quốc họ có sứ mạng phải loan truyền, và qua tình thân hữu với Ðức Giêsu (xc. Mt 19,27-29; Ga 15,13-16). Như các Tông Ðồ, họ là những người từ bỏ tất cả để theo Ðức Kitô, họ cũng hát khúc ca của các Lêvít: "Lạy Chúa, Chúa là phần con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con, số mạng con chính Ngài nắm giữ; phần tuyệt hảo may mắn đã về con, vâng gia nghiệp ấy làm con thỏa mãn" (Tv 15,5-6) (xc. Truyền chức, Phẩm trật).
Giấc Ngủ
(= Dormition)
Tiếng La tinh dormitio do động từ dormire (ngủ). Giấc ngủ thiu thiu của Ðức Maria Trinh Nữ là khúc dạo đầu việc Ðức Mẹ Lên Trời. Ðối với lễ nghi Ðông Phương, Giấc Ngủ là tên gọi của lễ Ðức Mẹ Lên Trời.
(= Dormition)
Tiếng La tinh dormitio do động từ dormire (ngủ). Giấc ngủ thiu thiu của Ðức Maria Trinh Nữ là khúc dạo đầu việc Ðức Mẹ Lên Trời. Ðối với lễ nghi Ðông Phương, Giấc Ngủ là tên gọi của lễ Ðức Mẹ Lên Trời.
Giếng Thánh Tẩy
(= Fonts)
Trong tiếng La tinh, fons có nghĩa là nguồn, mạch nước, nước. Giếng Thánh Tẩy là cái hồ nơi đó nước Thánh Tẩy được làm phép và trên đó cử hành Thánh Tẩy bằng cách đổ nước ba lần (trong mùa Phục Sinh đây là nơi cất giữ nước đã làm phép trong lễ Vọng Phục Sinh). Nếu giếng Thánh Tẩy không đặt trong gian Thánh Tẩy biệt lập với nhà thờ, thì đặt cạnh lối vào nhà thờ để người tân tòng được hướng dẫn vào Nhà Chúa (xc. Bể Nước).
(= Fonts)
Trong tiếng La tinh, fons có nghĩa là nguồn, mạch nước, nước. Giếng Thánh Tẩy là cái hồ nơi đó nước Thánh Tẩy được làm phép và trên đó cử hành Thánh Tẩy bằng cách đổ nước ba lần (trong mùa Phục Sinh đây là nơi cất giữ nước đã làm phép trong lễ Vọng Phục Sinh). Nếu giếng Thánh Tẩy không đặt trong gian Thánh Tẩy biệt lập với nhà thờ, thì đặt cạnh lối vào nhà thờ để người tân tòng được hướng dẫn vào Nhà Chúa (xc. Bể Nước).
Giờ Ba
(= Tierce)
Kinh Giờ Ba là một kinh giờ nhỏ được cử hành vào giữa buổi sáng. Ðối với người Rôma, dù trong bất cứ mùa nào, giờ thứ nhất cũng là khởi đầu của một ngày, và giờ thứ sáu là giờ trưa. Theo truyền thống, Giờ Ba là giờ Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần. Thật vậy, vào ngày đó, thánh Phêrô đã nói với những người đang sững sờ về sự hứng khởi lạ lùng của các môn đệ: "Không, những người này không say rượu như anh em nghĩ, vì bây giờ mới là giờ thứ ba" (Cv 2,15).
Bài thánh thi Giờ Ba bắt đầu bằng câu: Giờ đây, Lạy Thánh Thần... (Nunc Sancte, nobis, Spiritus).
(= Tierce)
Kinh Giờ Ba là một kinh giờ nhỏ được cử hành vào giữa buổi sáng. Ðối với người Rôma, dù trong bất cứ mùa nào, giờ thứ nhất cũng là khởi đầu của một ngày, và giờ thứ sáu là giờ trưa. Theo truyền thống, Giờ Ba là giờ Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần. Thật vậy, vào ngày đó, thánh Phêrô đã nói với những người đang sững sờ về sự hứng khởi lạ lùng của các môn đệ: "Không, những người này không say rượu như anh em nghĩ, vì bây giờ mới là giờ thứ ba" (Cv 2,15).
Bài thánh thi Giờ Ba bắt đầu bằng câu: Giờ đây, Lạy Thánh Thần... (Nunc Sancte, nobis, Spiritus).
Giờ Chín
(= None)
Tiếng La tinh Nona nghĩa là giờ thứ chín. Kinh phụng vụ Giờ Chín là một giờ nhỏ, cử hành vào giờ thứ chín trong ngày. Người Rôma chia ngày cũng như đêm thành 12 giờ bằng nhau, theo đó có thể xác định giờ thứ chín là khoảng 15 giờ, tức 3 giờ chiều. Theo truyền thống, giờ thứ chín là giờ tưởng niệm Chúa Giêsu chết trên Thập Giá (xc. Lc 2,44; Giờ Kinh PhụngVụ).
(= None)
Tiếng La tinh Nona nghĩa là giờ thứ chín. Kinh phụng vụ Giờ Chín là một giờ nhỏ, cử hành vào giờ thứ chín trong ngày. Người Rôma chia ngày cũng như đêm thành 12 giờ bằng nhau, theo đó có thể xác định giờ thứ chín là khoảng 15 giờ, tức 3 giờ chiều. Theo truyền thống, giờ thứ chín là giờ tưởng niệm Chúa Giêsu chết trên Thập Giá (xc. Lc 2,44; Giờ Kinh PhụngVụ).
Giờ Kinh Phụng Vụ
(= Heures)
Các Giờ Kinh Phụn Vụ hay thần vụ nhằm thánh hóa ngày và đêm. Chu kỳ phụng vụ hằng ngày là nhịp điệu căn bản của đời sống con người: nó tạo nên một cái khung tự nhiên của những cuộc gặp gỡ giữa chúng ta với Chúa. Trong vườn địa đàng, Ðức Giavê đã chẳng có thói quen đến tìm gặp các bạn loài người của Người trong cơn gió hiu hiu thổi chiều hôm đó sao (Kn 3,8)? Các thánh vịnh là những lời kinh buổi sáng (Tv 5,16.56), buổi trưa (Tv 54,18), buổi chiều (Tv 4,133.140) và giữa đêm (Tv 62,7; 118,6). "Mỗi ngày ba lần, ông Ða-ni-en vẫn quì gối cầu nguyện và ngợi khen trước Thiên Chúa của ông, y như ông đã từng làm từ trước đến nay" (Ðn 6,11; Tv 54,18). Sau khi Ðức Giêsu lên trời, các Tông Ðồ hằng ở trong Ðền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa (Lc 24,53; Cv 2,46) và người ta thấy ông Phêrô và Gioan lên Ðền Thờ vào giờ cầu nguyện thứ chín (Cv 3,1).
(= Heures)
Các Giờ Kinh Phụn Vụ hay thần vụ nhằm thánh hóa ngày và đêm. Chu kỳ phụng vụ hằng ngày là nhịp điệu căn bản của đời sống con người: nó tạo nên một cái khung tự nhiên của những cuộc gặp gỡ giữa chúng ta với Chúa. Trong vườn địa đàng, Ðức Giavê đã chẳng có thói quen đến tìm gặp các bạn loài người của Người trong cơn gió hiu hiu thổi chiều hôm đó sao (Kn 3,8)? Các thánh vịnh là những lời kinh buổi sáng (Tv 5,16.56), buổi trưa (Tv 54,18), buổi chiều (Tv 4,133.140) và giữa đêm (Tv 62,7; 118,6). "Mỗi ngày ba lần, ông Ða-ni-en vẫn quì gối cầu nguyện và ngợi khen trước Thiên Chúa của ông, y như ông đã từng làm từ trước đến nay" (Ðn 6,11; Tv 54,18). Sau khi Ðức Giêsu lên trời, các Tông Ðồ hằng ở trong Ðền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa (Lc 24,53; Cv 2,46) và người ta thấy ông Phêrô và Gioan lên Ðền Thờ vào giờ cầu nguyện thứ chín (Cv 3,1).
Hiến lễ Tạ Ơn (bí tích Thánh Thể) chắc chắn là trung tâm quan trọng của chu kỳ phụng vụ hằng ngày, chẳng những không làm cạn nguồn ngợi ca của Hội Thánh mà còn khơi dậy nguồn ngợi ca ấy. Dâng nhiều lễ trong cùng một ngày là chuyện không bình thường, trừ khi vì nhu cầu mục vụ (xc. Hai lễ). Trái lại, thánh hóa các thời khắc chính trong ngày lại là điều tự nhiên vì nó chuẩn bị hoặc nối dài việc cử hành Hiến Lễ Tạ Ơn. Hy tế ngợi khen (Tv 49,14.23) trình bày cùng một cấu trúc như toàn bộ Phụng Vụ được nhận thấy rõ ràng trong Hiến Lễ Tạ Ơn: đó là vị trí trổi vượt dành cho Công Trình Thiên Chúa, liên kết với công trình của cộng đoàn do Thiên Chúa qui tụ. Các thánh vịnh tạo nên bản chất của Các Giờ Kinh Phụng Vụ. Liệu chúng ta có nhấn mạnh cho đủ rằng các thánh vịnh ấy chính là Lời Chúa và lời của nhân loại bất khả phân ly, một lời cầu nguyện chúng ta nhận được từ Thiên Chúa trước khi chúng cầu nguyện với Người? Lời cầu nguyện hôm nay, lời cầu nguyện của các giờ kinh, chính là tiếng nói của chính Hôn Thê ngỏ với Hôn Phu của mình, và hơn nữa, đó là lời cầu nguyện của Ðức Kitô cùng với Thân Mình Người ngỏ với Chúa Cha (PV 84). Chính Thánh Thần là Ðấng khiến chúng ta kêu lên: "Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến" (Kh 22,20) dạy chúng ta cùng Ðức Giêsu thân thưa với Chúa Cha (Rm 8,15). Việc cử hành các Giờ Kinh Phụng Vụ xoay quanh Hiến Lễ Tạ Ơn và các bí tích chính là lối dẫn nhập vào đời sống Ba Ngôi. Chẳng phải tất cả các thánh vịnh và thánh ca đều không kết thúc bằng kinh "Sáng danh Ðức Chúa Cha, và Ðức Chúa Con, và Ðức Chúa Thánh Thần" đó sao? (xc. Vinh danh). Trong mỗi giờ kinh phụng vụ, chúng ta sống lời đối thoại của Chúa Con với Chúa Cha, theo như Tin Mừng thuật lại (Lc 3,21; 5,16; 6,12...) Các giờ chính là giờ Kinh Sáng và giờ Kinh Chiều. Một giờ thần vụ cũng được tiên liệu cho buổi trưa, trừ khi ai muốn cử hành ba giờ kinh truyền thống là kinh Giờ Ba, Giờ Sáu và Giờ Chín. Giờ Ðộc Vụ hay Kinh Sách có thể đọc vào lúc thuận tiện nhất. Còn giờ Kinh Tối dùng để kết thúc một ngày phụng tự.
Trong thần vụ đan viện, giờ kinh đầu tiên được đặt vào cuối đêm (xc. Kinh Ðêm) tương ứng với giờ Ðộc Vụ của sách nguyện Rôma. Một số đan sĩ cử hành giờ Kinh Ðêm vào giữa đêm. Vì thế, thứ tự các Giờ Kinh Phụng Vụ như sau: Kinh Ðêm, Kinh Sáng, Kinh Giờ Ba, Giờ Sáu, Giờ Chín, Kinh Chiều và Kinh Tối.
Nguyên tắc để đặt đúng chỗ cho các giờ kinh thật quan trọng: ai cũng nhìn nhận rằng chẳng có nghĩa lý gì nếu đọc Kinh Tối vào buổi sáng. Khi cử hành thánh lễ trùng với một giờ kinh phụng vụ, thì nên lồng giờ kinh này vào thánh lễ. Khi ấy, hát thánh vịnh sau lời chào của chủ tế rồi mới cử hành thánh lễ (hay ngược lại) làm như thế để tránh sự lặp đi lặp lại thường xảy ra do việc cử hành liên tục một giờ thần vụ, và nhất là bảo đảm sự thống nhất của hai hành vi phụng vụ này.
Cấu trúc thông thường của giờ kinh thần vụ như sau: sau câu xướng dẫn nhập, đến thánh thi (thánh thi làm thành sắc thái của giờ kinh phụng vụ), rồi thánh vịnh được đóng khung bằng điệp ca (trước, sau), (thánh vịnh làm thành bản chất của thần vụ), đọc Lời Chúa (Lời Chúa dài trong giờ Kinh Sách, Lời Chúa ngắn trong các giờ kinh khác), sau cùng là lời nguyện kết thúc (lời nguyện thay đổi mỗi ngày theo sau lời cầu và kinh Lạy Cha vào giờ Kinh Sáng và Kinh Chiều). Lưu ý là trong thần vụ đan viện theo luật thánh Biển Ðức, thánh thi giờ Kinh Sáng, Kinh Chiều và Kinh Tối đặt sau thánh vịnh.
Giờ Sáu
(= Sexte)
Tiếng La tinh sexta (hora) nghĩa là giờ thứ sáu. Phụng Vụ Giờ Sáu là một giờ kinh nhỏ, cử hành vào khoảng giữa ngày. Ðối với người Rôma, ngày cũng như đêm được chia làm 12 giờ bằng nhau, bất kể là mùa nào. Theo truyền thống, giờ kinh này, ngoài việc ca ngợi ánh sáng rực rỡ của buổi trưa, còn là để tưởng niệm việc Ðức Giêsu chịu đóng đinh (xc. Ga 19,28) (xc. Giờ kinh Phụng Vụ).
(= Sexte)
Tiếng La tinh sexta (hora) nghĩa là giờ thứ sáu. Phụng Vụ Giờ Sáu là một giờ kinh nhỏ, cử hành vào khoảng giữa ngày. Ðối với người Rôma, ngày cũng như đêm được chia làm 12 giờ bằng nhau, bất kể là mùa nào. Theo truyền thống, giờ kinh này, ngoài việc ca ngợi ánh sáng rực rỡ của buổi trưa, còn là để tưởng niệm việc Ðức Giêsu chịu đóng đinh (xc. Ga 19,28) (xc. Giờ kinh Phụng Vụ).
Giờ Trung
(= Milieu du jour)
Giờ kinh phụng vụ giữa ngày, lúc Hội Thánh tìm gặp Chúa trong khoảng cách giờ Kinh Sáng và giờ Kinh Chiều. Sau phần giáo đầu và thánh thi, giờ kinh này gồm ba thánh vịnh hoặc ba đoạn thánh vịnh, một bài đọc ngắn và lời nguyện theo ngày. Có thể cử hành những Giờ Ba, Giờ Sáu và Giờ Chín, nhưng một trong những giờ này phải dùng thánh vịnh giờ Kinh Trưa. Còn đối với những giờ khác, sử dụng những thánh vịnh tiến cấp, những thánh vịnh được thánh Biển Ðức qui định trong luật của người.
(= Milieu du jour)
Giờ kinh phụng vụ giữa ngày, lúc Hội Thánh tìm gặp Chúa trong khoảng cách giờ Kinh Sáng và giờ Kinh Chiều. Sau phần giáo đầu và thánh thi, giờ kinh này gồm ba thánh vịnh hoặc ba đoạn thánh vịnh, một bài đọc ngắn và lời nguyện theo ngày. Có thể cử hành những Giờ Ba, Giờ Sáu và Giờ Chín, nhưng một trong những giờ này phải dùng thánh vịnh giờ Kinh Trưa. Còn đối với những giờ khác, sử dụng những thánh vịnh tiến cấp, những thánh vịnh được thánh Biển Ðức qui định trong luật của người.
Giúp Lễ (Tác Viên)
(= Acolyte)
Từ Hy Lạp akolouthein nghĩa là theo sau. Nhiệm vụ của thầy Giúp Lễ là tháp tùng vị linh mục và phó tế để giúp các vị ấy. Vai trò giúp lễ được thiết lập để phục vụ bàn thánh. Thầy giúp lễ là tác viên ngoại lệ trong việc cho rước lễ khi thiếu linh mục và phó tế, hoặc khi các vị đó bận việc. Chỉ đức giám mục - hoặc bề trên cao cấp của tu sĩ - mới có quyền trao tác vụ này. Những người đang chuẩn bị lãnh bí tích Truyền Chức phải lãnh tác vụ giúp lễ và đọc sách, nhưng có thể lãnh các tác vụ này mà không tiến tới chức phó tế hay linh mục. Cách gọi chức nhỏ nay được bãi bỏ. Ðể hiểu được trọn vẹn tính chất cao quí của chức giúp lễ, cần nhớ rằng: lý tưởng Phúc Âm có thể được tóm lược bằng việc chấp thuận theo Chúa Kitô. Bằng việc bước theo và trợ giúp các vị đại diện Chúa Kitô, các thầy giúp lễ nhắc lại thái độ của các tông đồ trong Phúc Âm.
(= Acolyte)
Từ Hy Lạp akolouthein nghĩa là theo sau. Nhiệm vụ của thầy Giúp Lễ là tháp tùng vị linh mục và phó tế để giúp các vị ấy. Vai trò giúp lễ được thiết lập để phục vụ bàn thánh. Thầy giúp lễ là tác viên ngoại lệ trong việc cho rước lễ khi thiếu linh mục và phó tế, hoặc khi các vị đó bận việc. Chỉ đức giám mục - hoặc bề trên cao cấp của tu sĩ - mới có quyền trao tác vụ này. Những người đang chuẩn bị lãnh bí tích Truyền Chức phải lãnh tác vụ giúp lễ và đọc sách, nhưng có thể lãnh các tác vụ này mà không tiến tới chức phó tế hay linh mục. Cách gọi chức nhỏ nay được bãi bỏ. Ðể hiểu được trọn vẹn tính chất cao quí của chức giúp lễ, cần nhớ rằng: lý tưởng Phúc Âm có thể được tóm lược bằng việc chấp thuận theo Chúa Kitô. Bằng việc bước theo và trợ giúp các vị đại diện Chúa Kitô, các thầy giúp lễ nhắc lại thái độ của các tông đồ trong Phúc Âm.
http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/phungvu/phungg.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét