Trang

Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2013

Giáo Lý Phúc Âm Chúa Nhật XXX Quanh Năm C,

CHÚA NHẬT 27/10/2013
Chúa Nhật XXX Mùa Thương Niên năm C
(phần II)



Giáo Lý Phúc Âm Chúa Nhật XXX Quanh Năm C, ngày 27.10.2013
CHÚA NHẬT XXX QUANH NĂM, NĂM C
Sách Huấn Ca 35: 12-14.16-18; Thư Thứ Hai của Thánh Phaolô gửi Timôtê  4:6-8, 16-18
 và Phúc Âm Thánh Luca 18, 9-14
I.                   Giáo Huấn P.Â.:   

Không ai có thể tự mình thành công chính, nhưng phải biết cầu nguyện “xin thương xót con là kẻ tội lỗi” và sẽ được ơn công chính hoá do lòng nhân hậu Chúa.

Không ai có thể tự hào là mình công chính hơn người khác hay ít tội lỗi hơn người khác, cho dù đã làm được nhiều việc công đức hơn so với người khác.

Cầu nguyện là trở về với chính mình, nhìn nhận mình là kẻ có tội và khiêm tốn xin Chúa ban ơn tha tội để được nên công chính.

II.        Vấn nạn P.Â.    
Người thu thuế, tiếng Latinh gọi là publicanus, phát xuất từ tiếng Hy Lạp telones do từ teloscó nghĩa là thuế. Người thu thuế được nhắc đến khá nhiều trong Phúc Âm như chuyện Chúa chọn gọi Lêvi, tức Matthêô sau nầy, đang hành nghề thu thuế như được kể trong Phúc Âm Luca 5.27-29. Chúa đến nhà Giakêu, trùm thuế vụ dùng cơm tối và hoán cải ông (Luca 19:1-10) Và  câu chuyện người Biệt Phái và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện trong Phúc Âm Chúa Nhật XXX Quanh năm hôm nay.

Người thu thuế là người Do Thái, nhưng phục vụ cho chính quyền La Mã trong công việc thu thuế trên đồng hương của mình. Nghề nghiệp cũng khó làm cho họ sống lương thiện, họ thường có tính gian tham, bóc lột và làm giàu cho bản thân. Họ bị dân chúng ghét bỏ và xếp vào hàng tội lỗi như được thấy trong Phúc Âm Matthêô 9:10-11

Kết quả của lời cầu nguyện: Công chính hoá

Phúc Âm nói hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện nhưng thái độ cầu nguyện, lời cầu nguyện và kết quả của cầu nguyện hoàn toàn khác nhau:

Người biệt phái đứng riêng một mình và cám ơn Chúa vì mình tốt hơn người khác, nhất là tốt hơn anh thu thuế: Không tham lam, không sống bất chính, không lăng nhăng ngoại tình… Ngoài ra còn làm nhiều việc lành phước đức như: ăn chay hai lần trong tuần, đóng góp cho nhà thờ 10% trên mức thu nhập.

Lời cầu nguyện của người Biệt Phái thực ra không là lời cầu nguyện, mà chỉ là bản liệt kê thành tích và yêu cầu Chúa phải thưởng công cho Ông vì những việc lành phước đức Ông làm. Chúng ta có thể nói: Người Biệt Phái thật lắm lời! nhưng quá ít tình yêu: Không yêu Chúa, vì Ông làm những công đức để được khen thưởng chứ đâu vì tình yêu Chúa. Ông cũng không yêu người người khác vì Ông nặng lời kết án người thu thuế. Kết quả: Ông đã không được công chính hoá, vì Ông nghĩ mình đã là thánh và không hề xin Chúa thánh hoá hay ban ơn tha tội.

Người thu thuế thật quá nghèo trong công đức và trong lời cầu nguyện. Anh chỉ biết cầu xin “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi!” Thật ra, anh đã cầu nguyện với niềm tin yêu: Anh tin rằng Chúa biết anh là ai, anh đã làm gì … anh không cần phải khoe thành tích hay kể tội mình ra. Anh tin rằng: Chúa yêu thương, bênh vực người yếu hèn và tha tội ban ơn hoán cải cho anh. Anh đã toại nguyện “vì anh đã được nên công chính rồi!”

Thái độ cầu nguyện, lời cầu nguyện và kết quả cầu nguyện của người thu thuế thành mẫu gương chúng ta khi cầu nguyện. Có thể chúng ta thắc mắc tại sao lấy cách thức, lấy lời cầu nguyện của một người thu thuế là người tội lỗi thành gương mẫu cho chúng ta? Tội lỗi hay tội nhân không là mẫu mực để chúng ta noi theo, nhưng cách thức và lời cầu của một tội nhân đáng chúng ta bắt chước, vì chúng ta cũng là tội nhân và chúng ta phải nên công chính sau khi đã cầu nguyện.

So sánh giữa xưa và nay (Lm. Hồng Phúc trong“Suy Niệm Lời Chúa Năm C” trang 129)
Hôm nay, cộng đoàn tín hữu cũng đến nhà thờ cầu nguyện. Qua dụ ngôn đơn sơ dễ hiểu, Chúa dạy chúng ta phải cầu nguyện thế nào?

Đây, Ông Pharisêu, ăn mặc diêm dúa, trên đầu vắt một sợi dây có ghi lời Kinh Thánh. Ông đến đền thờ như đến trong nhà mình, với vẻ tự cao, tự đại. Ông đến với Chúa như đến với người bằng vai, như một nhà ngoại giao đến nói chuyện với một nhà ngoại giao khác. Phúc Âm nói rằng: Ông đứng thẳng và bắt đầu cuộc đàm phán. Ông tự đắc vì Chúa không có gì để bắt lỗi ông đựợc.

Về thân thế, ông không có gì để chê trách: mỗi tuần ăn chay hai lần. bàn tay ông là bàn tay thương người, rộng rãi, nhất là rộng rãi cả với Chúa, Ông dâng cúng một phần mười hoa lợi cho đền thờ. Ông lên đền thờ hiệp với cộng đoàn để cầu nguyện. Nhưng Ông đâu cần đến cộng đoàn, khinh miệt họ là khác. Ông liếc mắt nhìn quanh, thấy Ông nọ bà kia, cô kia cậu nọ. Ông so sánh và tự hào. Ông là Nhất! Number One. Và Ông cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, tôi cám ơn Chúa! Vì tôi không như các người khác!”

Pharisêu thời nay đi nhà thờ bằng xe bóng loáng, đi cầu nguyện thì ít mà đi khoe của thì nhiều: “lạy Chúa con không như Ông nọ bà kia… như anh kia chị nọ giựt nợ người ta, chưa chi đã tằng tịu với nhau… nhưng con không nghĩ đến nữa kẻo mắc tội chia trí lo ra, khi ít khi nhiều khi nào cũng có… Lạy Chúa, con là người đàng hoàng!”

Thì, dưới cuối đền thờ kia, cũng có một người Publicanô thu thuế đứng cúi đầu…. Cái nghề của anh ai cũng biết, một nghề không mấy tốt đẹp, bị đồng hương, đồng đạo khi bỉ cho là giáo gian, đi cộng tác làm lợi cho ngoại bang. Anh biết vậy, nhưng tin cậy vào lòng nhân lành của Chúa, anh đến cầu nguyện. Anh đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, chỉ đấm ngực. Những cử chỉ khiêm tốn hoà nhịp với lời cầu xin “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội!”

Người thu thuế nêu gương cho chúng ta trong khi cầu nguyện. Cầu nguyện không phải là đi khoe khoang hay đòi nợ. Cầu nguyện là khiêm tốn kêu cầu với Chúa. Kết quả, người thu thuế, kẻ khiêm nhu được nhậm lời, người kiêu ngạo về không. Và Chúa kết luận bằng một câu bất hủ: “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên!”

III.      Thực hành P.Â.:

Khiêm nhường để ý thức thân phận tội lỗi của chính mình, dù được thánh hiến để làm những việc thánh như linh mục.

Linh mục thường khiêm tốn nhìn nhận: Anh em linh mục chúng tôi cũng yếu hèn và mang thân phận tội lỗi như Ông bà anh chị em… Xin cầu nguyện cho tôi… Xin bỏ qua những sai sót, những lỗi lầm của tôi.

Thường sau khi đã thốt ra những lời khiêm tốn nầy xong, linh mục cảm thấy an tâm và coi như đã được thông cảm hay đã được công chính hoá. Sau đó nhiều khi Ông bà anh chị em thấy chúng tôi cũng chứng nào tật nấy: nóng tính, quá chú trọng đến tiền bạc và dành thời giờ, khả năng để lo cho bản thân mình và cho gia đình bà con thân thuộc mình.

Nếu so sánh với người Biệt Phái trong dụ ngôn hôm nay, chúng tôi xem chừng rất khác với Ông ta: chúng tôi khiêm tốn, nhìn nhận những yếu hèn trong cuộc sống và xin lỗi mọi người chứ không giống như người Biệt Phái kiêu căng khoe khoang và đòi khen thưởng. Tuy nhiên, chúng tôi lại thật sự không biết đấm ngực hay nhận ra thân phận tội lỗi mình. Chúng tôi không được công chính hoá, tức không sửa đổi bản thân nên tốt hơn. Những lời khiêm tốn xin lỗi chỉ là những công thức lấy lòng hay hình thức ngoại giao. Nên xem chừng chúng tôi dùng những lời khiêm tốn của Người thu thuế mà lại nặng thói khoe khoang của người Biệt Phái. Chúng tôi tự xét thấy mình sống hai mặt. Bên ngoài khiêm nhu hiền lành, và khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi mình. Nhưng thực ra chúng tôi chưa có ý thức về thân phận tội lỗi thực sự của mình. Vì người có ý thức về thân phận mỏng giòn tội lỗi thì không thể tự phụ kiêu căng được.

Xin gửi đến bạn đọc một hình ảnh sống động của khiêm nhường và cầu mong rằng, dù làm Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục  hay giáo dân,  khiêm nhưiờng vẫn là yếu tố cần thiết để nên công chính và để thành công cụ trong chương trình cứu rỗi của Thiên chúa.

Hình ảnh sống động của khiêm nhường

Một trong những hình tượng rất sinh động để diễn tả cuộc đời khiêm hạ là hình tượng về nước. Nước lúc nào cũng khiêm tốn. Nước luôn tìm chỗ rốt hèn. Nước luôn mềm mỏng dịu dàng không hề xô xát va chạm với ai. Nước không hề kháng cự hay đối đầu nhưng rốt cục nước vẫn chiến thắng nhờ sự mềm mỏng của mình. Búa tạ giáng vào tường, tường đổ; búa đập vào đá, đá tan; nhưng nếu có ai quai búa đập mạnh vào vũng nước, nước không cần kháng cự, nhưng búa sẽ phải cắm xuống đáy bùn! Đúng là “nhu thắng cương, nhược thắng cường”!

Nước luôn tìm chỗ rốt hết, tìm chỗ thấp mà chảy xuống, chẳng bao giờ muốn leo cao nên mới tạo ra thủy năng, một nguồn năng lượng phi thường! Khi bị hỏa thần tấn công, nước nhẹ nhàng bốc mình lên cao thành những lớp mây trời và khi hỏa thần hừng hực thiêu rụi những cánh rừng tươi tốt, nước có thể gieo mình xuống dập tắt hỏa thần.Tuy mềm mại nhưng nước có sức xói mòn tất cả; dù rắn như đá thì "nước chảy đá cũng phải mòn".Nhờ mềm mỏng, nước rửa sạch tất cả, cuốn trôi tất cả.Nhờ biết hóa mình thành muôn hạt li ti, nước có thể len lỏi vào mọi ngõ ngách của các địa tầng, thấm nhập khắp muôn nơi. Tuy hạ mình thấp hèn, nước đem lại sự sống cho mọi loài. Nơi đâu thiếu nước, ở đó chỉ còn là sa mạc, khô cằn. Nơi đâu nước ngấm đến, ở đó sự sống sẽ phong nhiêu.Lạy Chúa Giê-su, Đấng hiền lành khiêm nhượng, xin cho chúng con, những người môn đệ Chúa, biết chọn chỗ rốt hèn như nước, biết sống khiêm hạ như Chúa đã nêu gương.
Lm. Phêrô Trần thế Tuyên 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét