Trang

Thứ Hai, 28 tháng 10, 2013

GẶP GỠ ƠN CỨU ĐỘ (Luca 19,1-10 – CN XXXI TN - C)


GẶP GỠ ƠN CỨU ĐỘ (Luca 19,1-10 – CN XXXI TN - C)
Môn đệ Đức Giêsu phải sống thế nào để bằng sự hiện diện và lối sống của mình, ngày “hôm nay” của Thiên Chúa xuất hiện cho anh chị em mình.

Lm FX Vũ Phan Long, ofm
1.- Ngữ cảnh            
Phần thứ tư (phần cuối của hành trình lên Giêrusalem) được tác giả Luca trình bày trong phân đoạn 18,15–19,28: phần này tương ứng với bài tường thuật về hành trình của cácTin Mừng Nhất Lãm. Nhưng trong khối chất liệu này, ngài thêm vào câu truyện cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với ông Dakêu, thủ lãnh người thu thế ở Giêrikhô. Ngài thấy khối người bị đẩy ra bên lề xã hội Paléttina này cũng là “cái đã mất” mà Đức Giêsu đến để cứu.

2.- Bố cục                  
Bản văn có thể chia thành năm đơn vị:
1) Ghi chú về chuyến đi của Đức Giêsu (19,1);
2) Giới thiệu Dakêu trong quan hệ với Đức Giêsu (19,2-4);
3) Đức Giêsu chủ động gặp Dakêu (19,5-7):
- Đề nghị của Đức Giêsu (cc. 5-6),
- Phản ứng của dân chúng (phản đối Đức Giêsu) ( c. 7);
4) Dakêu chủ động hoán cải (19,8-9):
- Đề nghị của Dakêu (c. 8),
- Phản ứng của Đức Giêsu (trả lời cho dân chúng) (c. 9);
5) Ghi chú về sứ mạng của Đức Giêsu (việc Ngài “đến”) (19,10).

3.- Vài điểm chú giải
- Giêrikhô (1): Giêrikhô là chặng cuối trước khi “lên” Giêrusalem. Thành này nằm kề ranh giới miền Pêrê, dọc theo một tuyến đường giao thông quan trọng, là một điểm chiến lược mà đế quốc Rôma quan tâm trong việc cai trị Giuđê. Tại đây người ta dễ gặp các nhân viên của đế quốc hoăc các sĩ quan, binh lính Rôma.

- Dakêu 
(2): Tiếng Híp-ri là zakkai, có nghĩa là “trong sạch và vô tội” (x. Er 2,9; Nkm 7,14).

người thu thuế (2): x. 3,12. Tên gọi này dịch từ tiếng Hy Lạp telônês (do từ telos có nghĩa là “thuế”); La-tinh: publicanus (*); pháp: collecteur d’impôts, Anh: tax collector. Nền hành chánh Rôma qui định nhiều loại thuế: thuế thổ trạch, thuế động sản, thuế gián thu, đặc biệt đánh trên việc nhập cảng muối. Những “người thu thuế” thường được giao cho nhiệm vụ thu khoản thuế cuối cùng này. Vì thế họ thường có mặt tại các trạm quan thuế (Caphácnaum: Mc 2,14; Giêrikhô: Lc 19,2). Vì do nghề nghiệp, họ phải tiếp xúc thường xuyên với mọi hạng người, kể cả người ngoại giáo, nên họ bị coi là những người ô uế. Quy định mức thuế là quyền của chính quyền, nhưng thường được người thu thuế áp dụng cách võ đoán, nên họ bị dân chúng khinh bỉ, và danh từ “người thu thuế” tương đương với “hạng tội lỗi” công khai (x. Mt 9,10-11; Mc 2,16; Lc 5,30; 7,34; 15,1; 19,2-7), hạng ngoại đạo (x. Mt 18,17; 21,31), và hạng trộm cướp (x. Lc 3,2t). Một người Do Thái đạo đức tuân giữ lề luật thì chẳng có gì phải giao dịch với người thu thuế. Dakêu “đứng đầu những người thu thuế” (architelônês), tức là ông phụ trách cả vùng. Như thế, Dakêu càng ở bên lề cộng đồng Do Thái hơn nữa.

tìm cách để xem cho biết...(3): Dakêu là người giàu có và có địa vị cao, nhưng trong lòng ông vẫn không cảm thấy thỏa mãn. Hai động từ “tìm” (HL: zêtein) và “xem” (HL: idein) cho dù không có tầm mức quan trọng như trong TM Gioan, vẫn cho thấy là Dakêu không chỉ tò mò muốn “xem cho biết” (như kiểu nói của chúng ta). Đây là một “cuộc điều tra mang tính Kitô học” của một người tội lỗi công khai đối lại với thái độ lãnh đạm và thù nghịch của giới lãnh đạo dân Chúa.

cây sung (4), tiếng Hy Lạp là sykomorea. Đây là loại cây có thân thấp, các cành ngang cứng chắc.

phải ở lại (5): Câu này dịch sát là “hôm nay điều cần thiết đối với tôi là ở lại nhà ông”. Động từ Hy Lạp dei diễn tả một điều nằm trong chương trình, ý muốn của Thiên Chúa, nằm trong sứ mạng của Đức Giêsu (x. 2,49; 4,43; 12,12; 13,33; 15,32; 22,37; 24,44).

mừng rỡ (6): do động từ Hy Lạp chaireinLc là Tin Mừng về niềm vui (Dacaria: 1,14; Đức Maria: 
1,28; bà con Gioan Tẩy Giả: 1,58; Đức Giêsu chào đời: 2,10; Đức Giêsu: 10,20; đám đông: 13,17...). Đây là niềm vui do Đấng Mêsia mang đến.

nhà người tội lỗi (7): Luật luân lý cấm vào nhà kẻ tội lỗi. 

phân nửa tài sản của tôi (8): Mức bồi thường này vượt qua mức Luật đòi hỏi (x. Xh 21,37;Ds 5,5-7; Lv 5,21-24: trả lại món tài sản đã lấy cộng với 1/5 giá trị món đó).

- Đức Giêsu nói về ông 
(9), có nghĩa là Đức Giêsu nói với những người khác. Tập tục Đông phương cho phép người ta tự do ra vào nhà một người và vây quanh bàn ăn của những khách được mời (x. 7,37).

Hôm nay (9, cả c. 5; HL: sêmeron, x. 2,11; 4,21; 13,32.33; 23,43): Đây là từ ngữ quan trọng của TM Lc, có nghĩa là: Sau một thời gian dài chờ đợi và hy vọng, lịch sử cứu độ đã tới đỉnh cao hoàn tất. Tất cả những gì các ngôn sứ nói đã thành sự trong các hành động và các lời nói của Đức Giêsu (x. 4,18.19; 5,26).

4.- Ý nghĩa của bản văn
* Ghi chú về chuyến đi của Đức Giêsu (1)
            
Đến Giêrikhô, chuyến đi của Đức Giêsu lên Giêrusalem đã đến chặng cuối cùng. Tại đây người ta bắt đầu chuyến đi lên: từ thung lũng sông Giođan, người ta băng qua sa mạc Giuđa để đến Giêrusalem. Toàn thể cuộc hành trình của Đức Giêsu sau này được Phêrô mô tả: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó” (Cv 10,38). Điều này đặc biệt đúng cho những điểm cuối cùng: mỗi chặng lại trở thành một chặng để trợ giúp và cứu chữa. Gặp anh mù ngồi bên vệ đường tin tưởng kêu cầu: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!”, Đức Giêsu đã cho anh xem thấy, ban khả năng ca tụng Thiên Chúa và đi theo Người (18,38). Gặp Dakêu ngồi trên một cây sung bên lề đường để nhìn xem Người, Đức Giêsu cho ông cơ hội tiếp đón Người về nhà và hoán cải, tức nhận được ơn cứu độ. Dù hoàn cảnh hai người rất khác nhau, cả hai đã được Thiên Chúa trợ giúp nhờ trung gian Đức Giêsu.
  
* Giới thiệu Dakêu trong quan hệ với Đức Giêsu (2-4)

Dakêu là một người giàu có. Nhưng trong tư cách là thủ lãnh của những người thu thuế, ông thuộc về hạng người bị xã hội Do Thái khinh bỉ. Do nghề nghiệp, vì họ phải thường xuyên liên hệ với mọi hạng người, kể cả ngoại giáo, họ bị nhiễm uế. Và bởi vì xã hội thường gán cho người thu thuế tính tham lam và những lối cư xử không công bình (x. 3,12t), Dakêu bị ghét bỏ và khinh bỉ. Một người Do Thái tuân giữ Lề Luật nghiêm túc thì không có gì phải liên hệ với người thu thuế cả. Do đó, Dakêu đứng ở bên lề cộng đồng. Ông là người giàu có và có địa vị cao, nhưng ông không được những người có thế giá trong xã hội trân trọng.

Ông hết sức ao ước được gặp Đức Giêsu. Ước muốn này có thể phần lớn được nhen lên do tính tò mò. Dù sao ước muốn này đã thúc đẩy ông tìm mọi cách để thấy được Đức Giêsu. Tuy nhiên, dân chúng đi theo Đức Giêsu thì quá đông mà vóc người ông thì thấp bé. Nhưng  Dakêu có óc sáng tạo: ông chạy đi trước và leo lên một cây sung. Chạy và trèo lên cây là những chuyện chỉ hợp với các trẻ em, chứ không phù hợp với tư cách một người giàu có; nhưng Dakêu chấp nhận trở thành lố bịch để được thấy Đức Giêsu, điều này cho thấy ông ao ước thấy Người đến đâu!

* Đức Giêsu chủ động gặp Dakêu (5-7)

Trong khi mọi người khác không màng tới Dakêu đang ở trong thế rất khôi hài, Đức Giêsu đã bày tỏ sự quan tâm đến ông bằng những cử chỉ và thái độ rất đơn giản, rất “người”: “đi tới chỗ ấy”, “nhìn lên”, “nói với ông”. Người còn cho hiểu đấy không chỉ là một cuộc thăm viếng xã giao, mà là một cuộc gặp gỡ nằm trong ý muốn của Thiên Chúa (“hôm nay tôi phảiở lại nhà ông”), nằm trong sứ mạng của Người. Cái “ngày hôm nay” mà Đức Giêsu nhắc tới không chỉ là một chi tiết chỉ thời gian, mà là một chặng trong hành trình ban ơn cứu độ mà Người đã khai mạc tại Nadarét (x. 4,18-22). Trong cuộc hành trình này, Người quan tâm ưu tiên tới những người nghèo, và cả những người tội lỗi.

Nỗi băn khoăn, căng thẳng của Dakêu biến thành niềm vui: không chỉ là sự thỏa mãn, sự thoải mái về thể lý, mà là việc tham dự vào hạnh phúc do Đấng Cứu thế mang đến. Nhờ gặp gỡ Đức Giêsu, ông được giải thoát khỏi các lầm lỗi, hoang mang, và lòng được chan hòa bình an và niềm vui. Đi ngược lại mọi chỉ trích, và một cách rõ ràng, Đức Giêsu cho mọi người thấy rằng không ai bị loại khỏi ơn cứu độ Người ban. Người cũng cho thấy Người từ chối mọi kiểu đánh giá tổng quát về một hạng người.

* Dakêu chủ động hoán cải (8-9)       

Bữa tiệc tại nhà Dakêu là một cử hành thống hối, đưa tới một sự hiệp thông huynh đệ. Qua bữa tiệc, Dakêu hiểu là ông được kêu gọi đi vào hiệp thông với Thiên Chúa. Bởi vì Đức Giêsu đã chấp nhận con người thật của ông, bởi vì ông được mời gọi sống như thế, Dakêu chẳng phải tránh né gì nữa, trái lại ông vui mừng đón tiếp Người về nhà và bày tỏ quyết định đổi mới cuộc đời. Ông đã trả lời thắc mắc: “Thế thì ai có thể được cứu?” (18,26) khi Đức Giêsu nhận định: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao” (18,24). Dakêu giàu có đã nhận được ơn cứu độ nhờ trung gian Đức Giêsu (19,9), bởi vì ông không chỉ bằng lòng với việc trông thấy Đức Giêsu, mà còn hành động theo ý muốn của Người nữa. Trong ngày hôm ấy, Dakêu đã cảm nghiệm một sự biến đổi lạ thường. Đó chính là điều được Đức Giêsu diễn tả trong câu tuyên bố: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu ông Abraham”. Khi tuyên bố như thế, Đức Giêsu đã bác bỏ nhận định của mọi người: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!”. Phán đoán của đám đông là một phê phán quá cứng rắn. Qua lối cư xử của Người, Đức Giêsu loại bỏ sự cứng rắn đó và cho thấy rằng thái độ của Thiên Chúa hoàn toàn khác với thái độ của đám đông.

* Ghi chú về sứ mạng của Đức Giêsu (việc Ngài “đến”) (10)

Những lời Đức Giêsu kết luận (c. 10) có thể khuyến khích mỗi người bởi vì “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Người không đến để kết án hoặc loại trừ. Lại chính những kẻ bị lạc, những kẻ sai lầm mà Người đã muốn tìm và cứu chữa; chính là những kẻ đang đi vào ngõ cụt mà Người muốn dẫn ra.

+ Kết luận
            
Bản văn với câu kết luận (c. 10) không những tóm tắt giai thoại về Dakêu, mà còn   làm nổi rõ hơn nữa cứu-độ-học của toàn thể cuộc hành trình của Đức Giêsu lên Giêrusalem cũng như của TM Lc: trong tư cách là Con Người, Đức Giêsu đã đến để tìm và cứu những gì đã mất, và như thế là gợi ý tới câu Ed 34,16 trong đó Đức Chúa tự mô tả mình như là Người mục tử: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng”.
            
Khi đọc bản văn này, ta cũng nhận ra những ý nhắc lại các đoạn khác trong TM III: những yếu tố thuộc lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả (3,10-14); dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế (18,9-14); người thủ lãnh giàu có (18,18-23); anh mù (18,35-43). Dakêu được giới thiệu như là một người giàu gương mẫu đã hiểu sứ điệp cũng như mối quan tâm của Đức Giêsu đối với người nghèo, nên đã biết lấy những quyết định tương xứng. Bản văn cũng cho thấy có những điểm gặp gỡ với giai thoại anh mù: Dakêu đã thực hiện những bước không thông thường để nhìn thấy Đức Giêsu khi Người đi ngang qua. Hai bản văn cuối cùng này trực tiếp đưa độc giả đi theo Đức Giêsu vào Giêrusalem trong tư cách là “Con vua Đavít” để thực hiện chương trình cứu lấy những gì đã mất.

5.- Gợi ý suy niệm
1. Dakêu đã bị xã hội đẩy ra bên lề và khép lại với chính ông. Nhưng ông đã không chịu ở lại trong vòng tròn khép kín mà xã hội đã nhốt ông vào, đó là thế giới của tiền bạc và những quan hệ không lương thiện; ông tìm cách “thấy” Đức Giêsu, và thế là ông được cứu. Khép kín vào chính mình, con người không bao giờ thoát khỏi tội lỗi của mình; muốn được cứu, ta cần phải mở ra với Đức Giêsu. Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta hiểu: Đức Giêsu chờ đợi chúng ta đến với Người, nhưng Người cũng chờ đợi chúng ta sẵn sàng đón tiếp Người vào nhà.

2. Trong bất cứ cộng đoàn nào, bao giờ cũng có những người sợ đến gần những “người thu thuế”, những “kẻ tội lỗi”, những người không có danh thơm tiếng tốt... Bạn thử hình dung xem mình đang nghĩ về người khác thế nào? Đức Giêsu không làm như thế. Người đã nắm lấy bàn tay Dakêu đang rụt rè đưa ra về phía Người. Người lấy sáng kiến và đặt Dakêu trên một nẻo đường mới.  

3. Tất cả những thái độ và lời nói rất “người” (sự quan tâm, cử chỉ thân ái, lời nói dịu dàng...) có thể đưa người khác đến những biến đổi rất “thánh”. Môn đệ Đức Giêsu phải sống thế nào để bằng sự hiện diện và lối sống của mình, ngày “hôm nay” của Thiên Chúa xuất hiện cho anh chị em mình. Hôm nay Đức Giêsu vẫn đang ban ơn cứu độ qua Lời Người, các bí tích, qua Giáo Hội. Nếu bạn là thừa tác viên Lời Chúa hoặc bí tích, bạn đã có ý thức về cung cách cử hành thế nào để Đức Giêsu đến được với anh chị em của bạn?

4. Tấm gương của người môn đệ chính là thầy Giêsu: Người đã không ngại bị đánh giá tiêu cực để khỏi phản bội sứ mạng cứu thế. Người môn đệ của Đức Giêsu sẽ có những lúc phải chọn lựa như thế. Tuy nhiên, ngay trong đời thường, qua các sinh hoạt nghề nghiệp, thăm viếng, có khi nào bạn nghĩ là bạn sinh hoạt, thăm viếng theo ý muốn của Thiên Chúa?   

------------------------------------
(*) Ngày xưa, các cố Tây dịch là “người púp-li-ca-nô” do lấy từ chữ La-tinh publicanus (do chữ publicus có nghĩa là “tiền của công”).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét