Giáo Lý Phúc Âm Chúa Nhật XXVIII Quanh Năm C, ngày 13.10.2013
CHÚA NHẬT XXVIII QUANH NĂM, NĂM C
Sách Các Vua quyển thư II 5.14-17; Thư Thứ Hai của Thánh Phaolô gửi Timôtê 2.8-13
và Phúc Âm Thánh Luca 17. 11-19
I. Giáo Huấn P.Â.:
Thế giới loài người tội lỗi như những người mắc bệnh phong cùi: Họ bị trở nên xấu xa, ô uế và bị từ chối quyền hiệp thông trong gia đình Thiên Chúa.
Chúa Giêsu, Người của Thiên Chúa, được sai đến trần gian như vị cứu tinh để chữa lành thế giới tội lỗi. Muốn được chữa lành phải tin Chúa Giêsu là Vị Cứu Thế và phải kêu cầu “Lạy Chúa Giêsu, xin dủ lòng thương xót chúng tôi!”
Chúa Giêsu đến với người tội lỗi để mang con người trở lại tình trạng tốt lành nguyên thuỷ: trong sạch và được hoàn trả lại tình trạng làm con Thiên Chúa, sống trong Gia đình Thiên Chúa.
Con người phải ý thức thân phận tội lỗi của mình để kêu Chúa cứu chữa. Một khi đã được chữa lành, phải biết cúi đầu cảm nhận và tri ơn Chúa.
II. Vấn nạn P.Â.
Ý nghĩa chuyện tiên tri Elisha và tướng Naaman, người phong cùi xứ Aram trong bài đọc một lấy từ sách các Vua quyển II.
Tiên tri Elisha: Tiên tri Elisha là con trai của Shaphat, người vùng Abel-Meholah. Elisha được chọn làm môn đệ của Đại Tiên Tri Elia đang khi Ông nầy đang cày ruộng với 12 con bò. Elia chọn Elisha bằng cách ném chiếc áo choàng lên Elisha, như dấu chỉ thừa hưởng quyền làm tiên tri. Elisha giết bò và lấy cày làm củi để nấu thức ăn đãi tiên tri Elia. Sau khi Elia được cất về trời trong cơn gió lốc. Elisha đóng vài trò làm tiên tri cho Do Thái suốt 60 năm từ năm 892-832 trước Công nguyên như trong Sách Các Vua quyển II ghi lại ở chương 5.8.
Elisha kế thừa sự nghiệp tiên tri của Elia và nổi tiếng với những việc lạ thực hiện nhân danh Thiên Chúa Giavê như sau:
Elisha đã trả ơn cho bà goá thành Sarepta bằng cách cho dầu ăn trong bình chứa nhà bà không bao giờ cạn như được ghi lại trong sách các Vua quyển II chương 4:1-7. Tiên tri đã cho con trai người đàn bà xứ Shunam được sống lại như được ghi trong sách các Vua quyển II chương 4.38-41. Nhất là tiên tri đã chữa tướng Naaman, người Aram khỏi bệnh phong cùi bằng cách bảo ông tắm bảy lần trong giòng sông Jordan như được ghi lại trong sách các Vua quyển II chương 5.1-19. Khi quân đội vua Giêhôram lâm cảnh khát nước trần trọng, tiên tri đã cầu cho mưa rơi xuống có nước cho toàn quân uống thoả thuê như ghi lại trong Sách các Vua quyển II chương 3.9-20. Tiên tri đã làm phép lạ biến hai mươi ổ bánh nuôi một trăm người ăn uống phủ phê.
Bài đọc I một hôm nay, chuyện tiên tri Elisha chữa tướng Naaman khỏi bệnh phong cùi có một tương quan rất gần với ý nghĩa của bài Phúc Âm Thánh Luca, việc Chúa chữa lành mười người phong cùi.
Tướng Naaman đã tìm đến với tiên tri Elisha và đã được khỏi bệnh cùi. Ông ta đã phải tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa nơi con người của Chúa là tiên tri Elisha. Ông đã phải vâng theo lệnh của tiên tri và xuống tắm bảy lần trong giòng sông Giôđan, cho dù nước của sông nầy không sạch bằng sông Damacus bên xứ Ông. Tướng Naaman dìm người bảy lần trong giòng sông Giôđan và da thịt ông trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Tướng Naaman đã tuyên tín rằng: Không đâu có Thiên chúa ngoại trừ ở Do Thái.
Naaman được sạch bệnh phong cùi không phải vì nước sông Jordan. Nước sông Jordan chỉ là một phương tiện Thiên Chúa dùng để làm cho Naaman được sạch. Đi tắm bảy lần tại sông Jordan, giúp Naaman diễn tả thái độ tin tưởng cần thiết để có thể lãnh nhận ơn Thiên Chúa. Nếu Naaman không có thái độ thần phục tin tưởng nầy qua việc đi tắm như tiên tri yêu cầu, thì ông không thể khỏi bệnh. Nước sông Jordan và lòng tin phải có, đã giúp Naaman được lành bệnh.
Trong bài Phúc Âm Thánh Luca hôm nay, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót và chữa lành mười người phong cùi vì họ đã van xin “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” Lời van xin của mười người phong cùi bộc lộ niềm tin nơi Chúa Giêsu là người của Thiên chúa, là Đấng có thể chữa lành bệnh tật, là Đấng sẽ làm cho họ được thanh sạch và hoàn trả họ lại cuộc sống trong cộng đoàn dân Thánh Chúa.
Người ta thường giải thích rằng: ý chính của bài Phúc Âm chữa mười người phong cùi là bài học về lòng biết ơn vì chỉ có một người trở lại sấp mình dưới chân chúa và tạ ơn Ngài. Chình Chúa đã hỏi “Không phải tất cả mười người được khỏi bệnh sao? Còn chín người kia đâu sao không thấy trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại này?”
Tôi không nghĩ rằng giáo huấn về lòng biết ơn hay tri ơn là chủ đề hay trọng tâm giáo huấn của Phúc Âm hôn nay. Nhưng là niềm tin vào Chúa Giêsu, là người của Thiên Chúa, là Đấng cứu thế, Đấng có thể làm cho con người khỏi bệnh tật và mang con người trở lại tình trạng trong sạch buổi ban đầu. Đây là trọng điểm của Giáo Huấn, vì:
Bài Phúc Âm hôm nay nối tiếp bài phúc âm Chúa Nhật 27 quanh năm của tuần vừa qua, Phúc Âm Luca 17.5-10 nói về lòng tin nhỏ bé chỉ cần bằng hạt cải cũng có thể làm những chuyện chuyển núi dời non. Việc chuyển núi dời non không là chuyện con người làm được, nhưng là chuyện của Thiên chúa quyền năng, Chúa thực hiện vì con người có lòng tin vào Chúa. Vì Chúa làm tất cả, nên con người phải nhìn nhận mình chỉ là đầy tới vô dụng.
Phúc Âm hôm nay, chương 17 từ câu 11-19, nói về niềm tin của mười người phong cùi, niềm tin họ chỉ bằng hạt cải được thể hiện qua lời kêu xin thành khẩn “Lạy Thầy Giêsu, xin thương cứu chúng con!” Niềm tin nhỏ bé nhưng bày tỏ đúng lúc, đúng người và đúng trọng điểm của đức tin “Chúa Giêsu là người của Thiên Chúa, là Đấng Cứư Thế!
Tôi không chối bỏ bài học về lòng tri ơn Thiên Chúa trong bài Phúc Âm mười người phong cùi được chữa lành. Nhưng bài học về lòng tri ơn không là trọng tâm của giáo huấn. Hơn nữa, lòng biết ơn nầy phải được thực hiện bằng việc: quay lại, sấp mình dưới chân Chúa và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa, tức chân nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và mình đã được nhận lãnh ơn ứu độ. Ơn cứu độ là được tha tội và được hoàn trả lại tình trạng ân sủng, tức tình trạng nghĩa tử lúc ban đầu. Nếu so sánh lòng biết ơn với Đức Mến, thì phải cần có Đức Tin: Tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và cảm tạ ơn Ngài vì ơn cứu độ Ngài ban cho chúng ta. Nên lòng biết ơn hay đức mến đến sau và làm trọn vẹn cho Đức tin vào Chúa Giêsu “Lạy Thầy Giêsu, xin thương cứu chúng con!”
Luật liên quan tới sạch và dơ được qui định trong sách Lêvi Lv 13,18-59
Tư Tế có quyền thẩm định bệnh phong cùi cũng như sạch và dơ
Sách Lêvi chương 13,18-23 nói: “Khi thịt có ung nhọt trên da mà đã lành, nhưng nếu nơi mọc ung nhọt lại có mụt trắng hay đốm trắng hoe đỏ, người ấy sẽ để tư tế xem bịnh. Tư tế xem bịnh và nếu thấy nó có vẻ lõm hơn nền da, và lông đã hóa trắng, tư tế sẽ tuyên bố nó dơ: đó là vết thương bịnh phong đã lở lói trong ung nhọt. Nếu tư tế xem vết thương và thấy trong đó không có lông trắng và không lõm hơn nền da, và nó đã sạm lại, tư tế sẽ giam cứu người ấy bảy ngày. Nếu nó cứ lan trên da, tư tế sẽ tuyên bố nó dơ: đó là vết thương. Nhưng nếu đốm ấy dừng lại không lan, đó là sẹo của ung nhọt! Tư tế sẽ tuyên bố người ấy sạch.
Sách Lêvi Chương 13, từ câu 24-28 nói:” Khi da thịt bị lửa phỏng và vết thương phỏng sinh thịt non làm thành đốm trắng hoe đỏ hay toàn trắng nhợt, tư tế xem bịnh và nếu thấy lông hóa trắng trên đốm và hình như lõm sâu hơn nền da: đó là phong lở lói nơi vết phỏng! Tư tế sẽ tuyên bố nó dơ: đó là vết thương bịnh phong! Nhược bằng tư tế xem bịnh và thấy nơi đốm không có lông trắng cũng không lõm hơn nền da và nó đã sạm lại, tư tế sẽ giam cứu người ấy bảy ngày. Ngày thứ bảy, tư tế xem bịnh nó. Nếu thực đốm lan trên da, tư tế sẽ tuyên bố người ấy nhơ: đó là vết thương bịnh phong! Còn nếu đốm dừng yên không lan trên da, nhưng đã sạm lại: đó là mụt vì phỏng! Tư tế sẽ tuyên bố là người ấy sạch, vì đó là sẹo vết phỏng.
Sách Lêvi Chương 13, từ câu 29-37 nói: Khi người đàn ông hay đàn bà nào có vết thương nơi đầu hay nơi cằm, tư tế sẽ xem vết thương và nếu thấy hình như nó sâu hơn nền da và lại có lông hoe vàng trong đó và mịn, tư tế sẽ tuyên bố người ấy dơ: đó là chốc; đó là chứng phong nơi đầu hay nơi cằm! Khi tư tế xem vết thương chốc và nếu thấy hình như không sâu hơn nền da và không có lông đen trong đó, tư tế sẽ giam cứu người có vết thương chốc bảy ngày. Ngày thứ bảy, tư tế sẽ xem vết thương và nếu thấy chốc không lan và nơi đó không có lông hoe vàng và chốc hình như không sâu hơn nền da, người ấy sẽ cạo đầu, cằm, nhưng không cạo chốc. Và tư tế sẽ giam cứu người bị chốc bảy ngày nữa. Ngày thứ bảy tư tế sẽ xem vết chốc và nếu thấy chốc không lan trên da và hình như nó không sâu hơn nền da, tư tế sẽ tuyên bố người ấy sạch. Người ấy sẽ giặt áo sống đi và được sạch. Nhưng nếu khi tẩy uế rồi, chốc cứ lan ra thực, 36tư tế xem bịnh nó và nếu chốc lan trên da, tư tế sẽ không cần xem có lông hoe vàng hay không: người ấy nhơ! Nhưng nếu theo mắt ngài thấy, chốc ngừng yên và có lông đen mọc trong đó, thì chốc đã lành: người ấy đã sạch và tư tế tuyên bố người ấy sạch.
Sách Lêvi chương 13, từ cầu 45-59 nói về qui chế cách ly dành cho người bị bệnh phong cùi và thiêu huỷ những vật dụng liên quan đến bệnh phong cùi “Người bị bịnh phong có vết thương nơi mình, thì áo xống phải xé tả tơi, đầu để tóc rối che mình đến râu mép và kêu: nhơ, nhơ! Bao nhiêu ngày còn mang vết thương nơi mình, người ấy mắc uế, nó nhơ, nó sẽ ở riêng một mình, chỗ nó ở phải để bên ngoài trại. Khi áo mà có vết thương phong hủi, dù là nơi áo len hay áo vải, nơi sợi dọc hay sợi ngang của tấm vải hay tấm len, nơi da hay nơi vật gì bất cứ làm bằng da, nếu có vết thương xanh xanh hay đo đỏ nơi áo, nơi da, nơi sợi dọc sợi ngang hay nơi đồ gì bất cứ bằng da: Đó là vết phong hủi: người ta sẽ tỏ cho tư tế xem. Tư tế sẽ xem xét vết thương ấy và giam cứu vật có vết thương bảy ngày. Ngày thứ bảy ngài sẽ xem xét vết thương, nếu thấy vết thương loang ra nơi áo, nơi sợi ngang hay sợi dọc, nơi da và vật gì bất cứ làm bằng da, vết thương ấy là phong hủi dễ lây: Đó là vật dơ. người ta sẽ đốt đi, áo hay sợi ngang sợi dọc len hay vải hay đồ đoàn gì bất cứ bằng da mà có vết thương ấy: Đó là phong hủi dễ lây! Phải phóng hỏa nó đi! Đó là phòng loan lở, ngươi sẽ phóng hỏa vật có vết thương ấy! Áo hay sợi ngang sợi dọc hay đồ gì bất cứ bằng da, ngươi giặt rồi và vết thương đã biến, người ta giặt nó lần nữa và nó là sạch. Đó là luật về vết thương phong hủi nơi áo len hay áo vải, hay sợi ngang sợi dọc hay đồ gì bất cứ bằng da, để tuyên bố nó là sạch hay là dơ ".
Luật liên quan tới sạch và dơ trong Sách Lêvi được áp dụng triệt để trong thời Chúa Giêsu. Phúc Âm nói “Lúc Người vào một làng kia thì có mười người phong cùi đón gặp Người. Họ đứng lại đàng xa và kêu lớn tiếng “Lạy Thầy Gisêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi! Thấy vậy, Đức Chúa Giêsu bảo họ “Hãy đi trình diện với các tư tế!”
Người phong cùi bị coi như dơ bẫn, ô uế, phải sống xa người lành sạch. Họ ăn mặc rách rưới và trên tay luôn có chuông để báo động “dơ bẩn!” cho mọi người xa tránh họ. Họ đứng từ đàng xa kêu cầu Chúa Giêsu cứu họ. Chúa Giêsu đã bảo họ “Hãy đi trình diện với các thầy tư tế!” Thầy tư tế có quyển thẩm định bệnh cùi và tuyên bố ai sạch và ai dơ là vì: Có bệnh, có nghĩa là có tội. Có bệnh có nghĩa là bị loại khỏi sinh hoạt cộng đoàn. Linh mục trong thời Cựu Ước là người có quyền tuyên bố người mắc bệnh hay khỏi bệnh, người nào sạch hay kẻ nào dơ, người nào được quyền trở lại sống chung trong cộng đoàn và người nào không.
Đau khổ tinh thần của người bị bệnh phong cùi: bị khai trừ khỏi cộng đoàn nhân loại và bị xếp vào hạng dơ bẫn, bị mọi người xa tránh.
Chúa Giêsu là người của Thiên Chúa, như tiên tri Elisa trong bài đọc một trích từ sách các vua. Họ tin tưởng kêu Chúa cứu chữa. Chúa chữa người phong cùi khỏi bệnh, có nghĩa là phục hồi quyền chung sống trong cộng đoàn nhân loại. Cùng một cách thức, Chúa cứu chúng ta khỏi tội lỗi và dơ bẩn. Ngài trả lại cho chúng ta tình trạng sạch sẽ như thuở ban đầu và phục hồi quyền làm con Thiên chúa, sống trong cộng đoàn Dân Thánh chúa.
Chúa Giêsu chữa bao nhiêu người phong cùi?
Sao Ngài không chữa hết tất cả người phong cùi thời ấy?
Người ta có thể liệt kê được tất cả 34 phép lạ Chúa Giêsu thực hiện. Trong số nầy có hai phép lạ chữa lành những nạn nhân phong cùi:
Trong Phúc Âm Matthêô 8:1-3 và trong Phúc Âm Thánh Marcô 1:40-42 tường thuật rằng: Sau bài giảng trên núi, đám đông kéo đến với Chúa. Có một người bị bệnh phong cùi đến quì trước Ngài và van xin “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi hết bệnh!” Chúa Giêsu chạm đến người phong cùi và nói “Ta muốn anh khỏi bệnh!” Lập tức bệnh cùi biến mất.
Trong bài Phúc Âm Thánh Luca 17:11-19 hôm nay, Chúa chữa 10 người phong cùi vì họ đã tin Chúa là Đấng cứu thế và kêu cầu “Lạy Thầy Giêsu, xin cứu chữa chúng tôi!” Chúa bảo họ đi trình diện tư tế và tất cả 10 người đã được lành sạch.
Như vậy chỉ có 11 người được chữa khỏi bệnh cùi. Chắc chắn còn hàng ngàn nạn nhân phong cùi khác rất ước mong được chữa lành? Chúa không chữa lành tất cả nạn nhân phong cùi. Cũng giống như Chúa cũng không cho tất cả những ai chết sống lại, mà chỉ có con trai bà goá thành Naim, con gái Ông Giairô và Lazarô bạn của Chúa. Lý do:
Phép lạ được thực thi không nhằm mục đích chữa bệnh hay cứu sống phần xác, nhưng nhằm chứng minh rằng:
Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đã được các tiên tri loan báo.
Chúa Giêsu là con Thiên Chúa, Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứư con người khỏi tội và ban cho con người sự sống vĩnh cửu.
Chúa Giêsu không làm vai trò của thầy thuốc chữa bệnh thể lý. Nhưng qua việc chữa bệnh phần xác, Chúa hướng đến việc chữa trị phần tâm hồn mà chúng ta gọi là cứu độ.
Chương trình cứu độ được Thiên Chúa thực hiện không chỉ với quyền năng phi thường, nhưng với sự hợp tác của các tông đồ, và của các môn đệ Chúa.
Tất cả chúng ta được kêu gọi làm môn đệ Chúa để mang tin mừng cứu độ loan truyền khắp thế gian. Chúng ta có bổn phận tiếp tục thực hiện những phép lạ chữa bệnh tâm linh mà Chúa đã dùng phép lạ chữa bệnh thể lý để chứng minh vai trò cứu nhân độ thế của Chúa và của Giáo Hội.
III. Thực hành P.Â.:
Xin góm nhặt những mẫu chuyện về lòng tri ơn:
Dễ hiểu, dễ nhớ và dễ thực hiện
1. Có một người đạo đức thật sự và có lòng tin tưởng mạnh mẽ vào tình yêu thương của Chúa. Một ngày kia, ông bị bọn cướp trấn lột và đêm hôm đó, Ông đã ghi vào nhật ký đời mình những hàng chữ như sau: Hãy luôn cảm tạ ơn Chúa vì:
Mình vẫn còn may mắn chán so với nhiều người! Vì cho đến bây giờ mình mới bị ăn cướp.
Mình vẫn còn may mắn chán so với nhiều người! Vỉ chỉ mất tiền, chứ mạng sống vẫn an toàn.
Mình vẫn còn may mắn chán so với nhiều người! Vì những gì bị ăn cướp là những quà tặng của Chúa cho ta! Bây giờ coi như Chúa tặng cho người tước đoạt chúng từ ta.
Mình vẫn còn may mắn chán so với nhiều người! Vì ta bị ăn cướp chứ ta chưa đến nỗi phải đi ăn cướp!
Chúng ta cần nhận ra nhiều cái may trong cuộc sống để cảm tạ Thiên chúa. Một trong những cái may lớn nhất trong đời là có đức tin vào Thiên Chúa là Đấng sẽ ban ơn cứu độ cho chúngt ta.
2. Có một cô gái trẻ xinh đẹp nhưng vô phước bị mủ cả hai mắt. Cô căm ghét bản thân mù loà của mình. Cô căm ghét tất cả mọi người ngoại trừ người bạn trai của cô. Người bạn trai này luôn bên cạnh cô, chăm sóc và an ủi cô mỗi ngày. Cô đã quả quyết rằng nếu có được một đôi mắt sáng và nhìn được thế giới này thì cô sẽ cưới ngay người bạn trai của mình làm chồng.
Một ngày nọ, có một người đã tặng đôi mắt sáng của mình cho cô gái và cô có thể nhìn thấy tất cả và tất nhiên là thấy được người bạn trai của mình. Người bạn trai của cô đã hỏi cô “Bây giờ em đã nhìn thấy được tất cả, vậy em có bằng lòng lấy anh làm chồng không?” Cô gái đã thật sự bị sốc khi cô nhìn thấy người bạn trai của mình vì anh ta cũng bị mù và cuối cùng … cô đã từ chối và không giữ lời hứa của mình.
Người bạn trai của cô đã ra đi trong nước mắt và sau đó anh viết thư về cho cô gái chỉ với một hàng chữ “HÃY GIỮ GÌN VÀ CHĂM SÓC ĐÔI MẮT CỦA ANH!”.
Không có mấy người nhớ đến cuộc sống cũ của mình: bất hạnh hay bệnh tật.
Không có mấy người nhớ đến những người đã luôn ở bên cạnh mình, đã nâng đỡ mình trong những lúc khó khăn và thất vọng.
Không có mấy cha xứ đã nhớ đến những người đã giúp đỡ mình từng li từng tí khi mình mới chân ướt chân ráo đến một giáo xứ.
3. Một em bé trai bị mù, ngồi bên lề đường, với một cái nón đặt gần chân nó. Nó dựng một tấm bảng có ghi như vầy: “Tôi bị mù, xin giúp tôi!”. Trong cái nón của nó, lúc đó chỉ có thưa thớt một vài đồng bạc cắc.
Một người đàn ông đi qua. Ông ta thò tay vào túi, lấy ra vài đồng bạc rồi thả vào cái nón. Sau đó, ông với tay lấy cái bảng, xoay mặt sau ra phía trước và ghi một vài chữ lên đó. Ông để tấm bảng lại chỗ cũ để những ai qua lại có thể đọc được hàng chữ mới ông vừa viết lên đó.
Sau đó cái nón của em bé mù bắt đầu có nhiều tiền. Có nhiều người hơn hồi sáng cho tiền em bé mù này. Buổi chiều hôm ấy, người đàn ông đã đổi hàng chữ trên tấm bảng, quay trở lại tìm đứa bé để xem tình hình ra sao. Đứa bé mù nhận ra bước chân của người đàn ông này và hỏi: “Có phải chính ông đã đổi những hàng chữ trên tấm bảng này? Ông đã viết gì trên tấm bảng vậy?”
Người đàn ông bèn đáp: “Chú chỉ ghi ra sự thật mà thôi. Những gì chú ghi ra trên tấm bảng cũng giống như câu cháu đã ghi, nhưng chỉ theo một cách thức khác thôi” Người đàn ông đã viết trên tấm bảng như sau: “Hôm nay là một ngày đẹp trời nhưng tôi không thấy được”.
Các bạn có nghĩ rằng hàng chữ của em bé mù ăn xin và hàng chữ của người đàn ông có cùng nói lên một ý nghĩa không? Dĩ nhiên, cả hai hàng chữ đều cho người ta biết cậu bé bị mù và xin giùp đỡ. Nhưng hàng chữ thứ nhất chỉ nói rằng đứa bé bị mù, vậy thôi. Nhưng hàng chữ thứ hai nói với mọi người rằng họ thật là may mắn bởi vì họ không bị mù. Bây giờ các bạn có còn ngạc nhiên vì sao hàng chữ thứ hai, do người đàn ông viết, gặt hái nhiều kết quả cho cậu bé mù.
Nhiều khi chúng ta chỉ trình bày gương mặt thểu não hay đôi khi cảm động rưng rưng ngấn lệ để tỏ lòng thương xót người cùng khổ. Có bao giờ chúng ta nghĩ đến một cách thức chạnh lòng thương xót tích cực hơn chăng, chẳng hạn như tiết kiệm chút ít giúp người phong cùi đang sống ẩn mình trong những gia đình vùng sâu vùng xa như Cà Mau, Năm Căn không?
Xin hãy làm một nghĩa cử thương xót tích cực để tỏ lòng tri ơn Chúa vì mình đã được những món quà tặng thật quí báu như: Thân thể lành mạnh, đẹp trai, tốt tướng, làm ăn có tiền, cơm dư ăn, quần áo thừa mứa không chỗ chứa. ... Xoay tấm bảng lại! Hãy viết lên đó đôi hàng chữ liệt kê vài may mắn trong đời mình để nhận ra bao nhiêu ơn lành Chúa ban. Để rồi, quay lại, cúi sâu trước ân tình Chúa và lớn tiếng cảm tạ muôn hồng ân Chúa ban.
Lm. Phêrô Trần thế Tuyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét