Vấn đề ly dị và tái hôn trong Đạo Công Giáo: Phần Hai, cuộc thanh luận quanh đè xuất của Đức Hồng Y Kaspker (15)
Đức Phanxicô nghiêng về Đức HY Muller hơn Đức HY Kasper
Tiến sĩ William Oddie cho rằng Đức Phanxicô đứng về phía Đức HY Muller, chứ không phải Đức HY Kasper, trong cuộc tranh luận về ly dị và tái hôn vì ngài sẽ tiếp tục bảo vệ thánh truyền trong vấn đề này, như ngài vẫn làm xưa nay.
Ta biết, sau bài diễn văn của Đức HY Kasper, Đức Phanxicô không dè dặt khen ngợi vị hồng này trước mật nghị hội Hồng Y, trong đó, dĩ nhiên có Đức HY Kasper: “hôm qua, trước khi đi ngủ, dù tôi không làm việc này để ru mình ngủ, tôi đã đọc hay đúng hơn đã đọc lại công trình của Đức HY Kasper, và tôi muốn cám ơn ngài vì tôi tìm thấy một nền thần học sâu sắc, thậm chí một suy tư sáng sủa về thần học. Quả là thích thú khi được đọc một thần học sáng sủa. Và tôi cũng tìm thấy điều Thánh Inhaxiô dạy ta về ‘cảm thức của Giáo Hội’, tình yêu đối với Mẹ Giáo Hội. Nó làm tôi sảng khoái và bỗng sinh ra một ý tưởng, xin lỗi Đức Hồng Y, nếu tôi làm Đức Hồng Y bối rối, nhưng ý tưởng này là phải gọi đây là ‘làm thần học trên đầu gối của mình’. Xin cám ơn Đức HY. Xin cám ơn”.
Ai cũng nghĩ những lời ca ngợi ấy chỉ có thể phát xuất từ cửa miệng một người hoàn toàn ủng hộ quan điểm của người được ca ngợi. Nhiều người vì thế tin rằng các người Công Giáo ly dị và tái hôn sẽ sớm được rước lễ. Điều này càng được củng cố hơn, khi một phụ nữ Á Căn Đình, người từng viết thư hỏi Đức Phanxicô xem bà có thể được chịu các bí tích hay không dù bà đã ly dị và đã tái hôn ở tòa đời, cho hay Đức Giáo Hoàng nói bà “an tâm” rước lễ. Tin này do người bạn đời của người phụ nữ tiết lộ trên Facebook, bị nhiều người hoài nghi và chính Tòa Thánh bác bỏ, nhưng vẫn được báo chí đời loan truyền rộng rãi.
Oddie cho rằng ca ngợi là một chuyện nhưng thay đổi thánh truyền lại là một chuyện khác hẳn, điều mà Đức Phanxicô chắc chắn không bao giờ làm. Ngài sẽ không thể đồng ý để những người mang tội trọng có thể rước lễ, mà người ly dị tái hôn rõ ràng là mang tội trọng trừ khi nhìn nhận rằng hôn nhân không bất khả tiêu.
Đức Phanxicô dù sao vẫn là người con trung thành của Thánh Giáo Hội Công Giáo. Điều này được chính ngài xác nhận trong một bài giảng thánh lễ hàng ngày tại Nhà Thánh Mácta vào một buổi sáng tháng Giêng, năm 2014 trong đó, ngài cho hay ta không thể sử dụng tín lý của Giáo Hội “tùy thích”. Ngài xác định 3 “cột trụ” để ta thuộc về Giáo Hội là “khiêm nhường”, “trung thành” và “phục vụ đặc biệt”. Trung thành đây là trung thành với Giáo Hội, với giáo huấn của GH, với Tuyên Tín của GH, với tín lý của GH, bảo toàn tín lý này. Ngài bảo: “Ta tiếp nhận sứ điệp của Tin Mừng như một hồng ân và ta cần chuyển giao nó như một hồng ân, không phải là một điều của riêng ta: nó là hồng ân ta đã lãnh nhận”.
Trích dẫn Đức GH Phaolô, ngài nói rằng thật là “một nhị phân phi lý khi yêu Chúa Kitô mà lại không yêu Giáo Hội, ở với Chúa Kitô mà lại đứng bên lề Giáo Hội. Không thể nào như thế được. Nó là một nhị phân phi lý. Ta lãnh nhận sứ điệp Tin Mừng trong Giáo Hội và ta thực thi sự thánh thiện của ta trong Giáo Hội, đường đi của ta trong Giáo Hội. Con đường khác là ảo tưởng, hay như ngài nói, một nhị phân phi lý”.
Phản kiến thần học
Robert Fastiggi, Ph.D., giáo sư thần học hệ thống tại Đại Chủng Viện Thánh Tâm ở Detroit, Hoa Kỳ, liền sau khi nghe bài diễn văn của Đức HY Kasper, trong một bài đăng tải trên L’Osservatore Romano, đã cho hay một số nhận định của ngài về người ly dị và tái hôn có vấn đề.
Dĩ nhiên, bài diễn văn của ngài có nhiều ưu điểm: Theo ông, ngài đã cung cấp một “tổng hợp nhân học và thánh kinh học rất phong phú về nền thần học hôn nhân”. Tuy nhiên phần nói về người ly dị và tái hôn gây nhiều tranh cãi.
1) Vấn đề thứ nhất là động thái vượt ra ngoài các tòa án Giáo Hội. Đức HY Kasper cho rằng thiên luật (iure divino) không đòi các vụ ly dị và tái hôn chỉ được xử lý bằng phương thế luật lệ. Giám mục có thể ủy thác những vụ này cho một linh mục nhiều kinh nghiệm mục vụ và tâm linh làm đại diện xá giải hay đại diện giám mục của mình. Nhưng việc tránh né thủ tục luật pháp của Giáo Hội xem ra có nhiều nguy hiểm. Nếu linh mục muốn đưa ra một tuyên bố vô hiệu đối với cuộc hôn nhân giả định (putative marriage) trước đây, thì ngài dựa vào căn bản nào để đưa ra phán quyết nếu không dựa vào bộ giáo luật của Giáo Hội? Mà đã dựa vào giáo luật, thì làm thế nào một linh mục cá thể lại có khả năng áp dụng nó hơn là một tòa án của Giáo Hội? Mà cho dù linh mục này chỉ có nhiệm vụ quyết định có nên cho phép người ly dị và tái hôn được rước lễ hay không đi chăng nữa, thì ngài dựa vào đâu để quyết định? Nếu ngài cho phép họ rước lễ mà không có sự quyết tâm sống tiết dục (continent), thì như thế là cho phép người ta có liên hệ tính dục với một người không phải là người phối ngẫu hợp bí tích của mình, nghĩa là cho phép họ ngoại tình, một điều trái với thiên luật!
2) Vấn đề thứ hai liên quan tới việc đi từ luật chung tới các tình huống cụ thể đặc thù. Đức HY Kasper nại tới bài diễn văn của Đức Phanxicô đọc ngày 24 tháng Giêng, 2014 trước Tòa Thượng Thẩm Rôma, trong đó, đức GH nhấn mạnh rằng không nên đối nghịch hai chiều kích mục vụ và luật pháp. Căn cứ vào đó, Đức HY nói tới nhu cầu thiêng liêng của người Công Giáo ly dị và tái hôn. Ngài tự hỏi liệu việc khuyến khích họ rước lễ thiêng liêng thay vì rước lễ bí tích có nghĩa lý gì không nếu xét nó theo cơ cấu bí tích nền tảng của Giáo Hội. Nếu những người Công Giáo ly dị và tái hôn này có thể thực hiện một hiệp thông thiêng liêng với Chúa Kitô bất chấp tình huống của họ, thì tại sao họ lại không thể lãnh nhận một cuộc hiệp thông bí tích với cùng một Chúa Kitô này? Câu trả lời đơn giản cho câu hỏi này là: ai vẫn tiếp tục ở trong tội trọng thì không được Rước Lễ (Giáo Luật, các điều 915-916). Có liên hệ vợ chồng với một người không phải là phối ngẫu của mình là một tội trọng vì là ngoại tình. Chăm sóc thích đáng cho con người nhân bản không bao giờ được dẫn tới việc cho phép họ phạm tội. Nếu Giáo Hội cho phép người Công Giáo ly dị và tái hôn được rước lễ, thì điều này có nghĩa một là hôn nhân không bất khả tiêu hai là ngoại tình không phải là một tội trọng. Như Đức Gioan Phaolô II đã viết trong Familaris consortio, số 84: “Nếu những người này [ly dị và tái hôn] được phép Rước Lễ, thì các tín hữu sẽ bị dẫn tới chỗ sai lầm và mơ hồ liên quan tới giáo huấn của Giáo Hội về tính bất khả tiêu của hôn nhân”. Luật lệ của Giáo Hội đặt cơ sở trên giáo huấn của Chúa Kitô vốn qui hướng về thiện ích đích thực của mọi cá nhân. Không hề có mâu thuẫn giữa việc áp dụng các giáo huấn của Chúa Kitô và việc quan tâm tới thiện ích đích thực của mỗi người. Lẽ dĩ nhiên, hãm mình không rước lễ là điều khó khăn đối với người ly dị và tái hôn. Tuy nhiên, lòng khát khao Thánh Thể của họ nên động viên họ đến với Giáo Hội để xem xem liệu cuộc hôn nhân giả định trước của họ có thực sự thành sự hay không. Gợi ý của Đức HY Kasper có nguy cơ loại bỏ việc tìm hiểu này vì Giáo Hội đã cho phép họ rước lễ mà không cần có tuyên bố vô hiệu rồi còn đâu.
3) Vấn đề thứ ba là việc Giáo Hội thời xưa có thể đã cho phép người ly dị và tái hôn được trở lại với hiệp thông Giáo Hội và do đó được rước lễ. Các điển hình lịch sử được Đức HY Kasper nêu ra về phương diện này hiện đang bị thách thức. Việc ngài nại tới khoản luật 8 của CĐ Nixêa I (325) là một sai lầm. Khoản luật này không áp dụng cho người ly dị và tái hôn. Sự khoan dung nói ở đây áp dụng vào những người lạc giáo Cathar vốn có khuynh hướng khắt khe và trước đây từng cấm những người bước vào cuộc hôn nhân thứ hai sau khi người phối ngẫu đầu của họ qua đời không được rước lễ. Một điều kiện để những người theo chủ thuyết Cathar này được trở về với hiệp thông Công Giáo là họ phải hiệp thông với các người đã tái hôn vừa nói. Điều này được trình bày rõ trong cuốn Christian Marriage: An Historical and Doctrinal Study (Hôn Nhân Kitô Giáo: Một Nghiên Cứu Sử Học Và Tín Lý) của George J. Joyce, S.J. (Sheed & Ward, 1933), các trang 581–582. Giáo sư Roberto de Mattei cũng từng trích dẫn cuốn này để luận bác một số điển hình lịch sử của Đức HY Kasper. Các trường hợp điển hình được ngài nhắc tới về các người Công Giáo tái hôn được phép rước lễ trở lại sau khi làm việc đền tội đều là những trường hợp liên quan tới việc đền khỏi tội của cuộc hôn nhân bất thành sự thứ hai nhưng đã bị bãi bỏ. Chứ không phải là các trường hợp làm việc đền tội nhưng vẫn cho phép hối nhân tiếp tục sống trong cuộc hôn nhân bất thành sự thứ hai. Đức HY Kasper cũng bị thách thức khi ngụ ý cho rằng Thánh Basilêô cho phép người ly di và tái hôn được tiếp tục sống trong cuộc kết hợp của họ sau khi làm việc đền tội. Như Cha Joyce đã chứng minh, “Thánh Basilêô chỉ quan tâm tới vấn đề liệu một người đã kết hôn nay rời xa vợ và sống với một nhân tình (paramour) có chịu việc đền tội theo giáo qui vì tội ngoại tình hay không thôi” (tr.322). Nếu người đàn ông bị vợ bỏ rồi sau đó ăn ở với một nhân tình, thì cả chàng lẫn nàng có thể làm một việc đền tội nhẹ vẫn dành cho các vụ gian dâm không có tính ngoại tình. Đây là một ân giải được Thánh Basilêô cho phép, chứ không phải là một ân giải để tiếp tục sống trong một liên hệ không phải là hôn nhân! Chủ trương của Thánh Basilêô rất rõ trong cuốn Ethica, Regula 73 (Đạo Đức Học, Qui Luật 73), c. 2: “Người đàn ông không được phép rẫy vợ mình và cưới một người khác. Họ cũng không được phép cưới một người vợ từng bị chồng nàng ly dị” (PG. 32, 730). Các điển hình khác được Đức HY Kasper trích dẫn cũng đáng bị nghi vấn. Việc ngài nhắc tới việc đền tội như là “tấm ván thứ hai sau phép rửa” là lấy của Tertullian, De paenitentia (Về Việc Đền Tội) 4,2 và được trích dẫn trong Sắc Lệnh về Sự Công Chính Hoá của CĐ Trent (D-H, 1542). Ngài đúng ở chỗ cho rằng trong Giáo Hội sơ khai, việc đền tội được sử dụng như là tấm ván (cấp cứu) thứ hai cho các hối nhân bỏ đạo (lapsi). Nhưng điều này giả thiết các hối nhân phải từ bỏ tội bỏ đạo của họ. Chứ đây không phải một việc đền tội cho phép họ tiếp tục sống trong tội! Một nhận định tốt hơn nhiều về thực hành của Giáo Hội sơ khai đối với người ly dị và tái hôn tìm thấy trong bản văn của Đức HY Ratzinger, Liên Quan Tới Một Số Luận Bác Đối Với Giáo Huấn Của Giáo Hội Về Việc Rước Lễ Của Các Thành Viên Tín Hữu Ly Dị Và Tái Hôn, được công bố dưới hình thức lời dẫn nhập cho Tập 17 của loạt tài liệu do Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin công bố tựa là Tài Liệu và Nghiên Cứu: Về Việc Chăm Sóc Mục Vụ Cho Người Ly Dị và Tái Hôn (Vatican City, 1998). Bản văn này cung cấp cho ta một bác bỏ thấu đáo các điển hình được Đức HYKasper nêu ra. Dù nhìn nhận khả thể có những trường hợp ngoại lệ, Đức HY Ratzinger quả quyết rằng: “Trong Giáo Hội sơ khai, thời các Giáo Phụ, các thành viên tín hữu ly dị và tái hôn không bao giờ chính thức được phép Rước Lễ” (số 2).
4) Vấn đề thứ bốn liên quan tới việc Giáo Hội Công Giáo không bao giờ bác bỏ thực hành của Giáo Hội Chính Thống Giáo Đông Phương cho phép ly dị và tái hôn. Đức HY đưa ra luận điểm này trong phụ lục thứ hai của ngài và ngài nại tới nhận định của một số học giả nói về chủ trương của CĐ Trent đối với vấn đề này. Tuy nhiên, CĐ Trent này đã ra vạ tuyệt thông cho những ai “nói rằng Giáo Hội sai lầm khi đã dạy và còn đang dạy rằng theo tín lý Tin Mừng và tông truyền [xem Mt 5:32; 19:9; Mc 10:11tt; Lc 16:18; 1Cor 7:11], dây hôn phối không thể bị hủy tiêu vì tội ngoại tình của một trong hai người phối ngẫu, và cả hai, kể cả bên vô tội nghĩa là người không tạo cớ cho sự bất trung, có thể kết ước một cuộc hôn nhân khác khi người kia còn sống; và người chồng rẫy vợ ngoại tình và tái hôn và người vợ rẫy người chồng ngoại tình và tái hôn, thì cả hai phạm tội ngoại tình” (D-H, 1807). Việc kết án này không chừa chỗ để ta khoan dung thực hành hiện nay của các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương. Như Đức HY Ratzinger viết trong bản văn đã trích dẫn trên đây: “Trên các cơ sở tín lý, thực hành của các Giáo Hội Đông Phương phân rẽ khỏi Rôma không thể được Giáo Hội Công Giáo tiếp nhận… Hơn nữa, có chứng cớ cho thấy các nhóm tín hữu Chính Thống trở lại Công Giáo phải ký một lời tuyên xưng đức tin trong đó minh nhiên nhắc tới việc không thể có cuộc hôn nhân thứ hai” (số 2).
Tóm lại, theo nhà thần học này, Đức HY Kasper cần được khen ngợi vì bốn phần đầu trong bài diễn văn ngày 20 tháng Hai, 2014. Phần năm của bài diễn văn đó đã lặp lại các gợi ý từng bị Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin bác bỏ trước đây.
Đức HY Kasper minh xác
Trong cuốn “Gospel of the Family” đã trích trên đây, Đức HY có thêm phần tựa là “Nhận Định Kết Thúc Về Cuộc Thảo Luận”. Trong phần này ngài cho hay để trả lời một số phản ứng đối với bài diễn văn của ngài, ngài muốn minh xác 3 điểm:
1. Khởi điểm và nền tảng mọi suy tư của ta phải là lời dạy của Chúa Giêsu rằng không con người nhân bản nào được phân rẽ điều Thiên Chúa đã kết hợp (Mt 19:6). Không ai nghi ngờ tính bất khả tiêu của một cuộc hôn nhân bí tích đã thành sự và hoàn hợp.
Tuy nhiên, ta không nên tách biệt lời Chúa Giêsu dạy ra khỏi ngữ cảnh toàn diện của sứ điệp của Người về nước Thiên Chúa và về tình yêu và lòng nhân từ của Thiên Chúa. Cũng thế, ta cần phải hiểu tín lý về tính bất khả tiêu của hôn nhân trong tương quan nội tại với các mầu nhiệm của đức tin, như CĐ Vatican I vốn dạy (DH 3016) và trong phẩm trật các chân lý đức tin, như CĐ Vatican II dạy trong Sắc Lệnh về Đại Kết số 11. Do đó, ta phải hiểu và hiện thực hóa lời dạy của Chúa Giêsu và giáo huấn của Giáo Hội trong tương quan với sứ điệp của Chúa Giêsu về lòng nhân từ vô lượng của Thiên Chúa đối với mọi hối nhân và muốn được Người thương xót.
Lòng thương xót ấy không phải là một thứ ơn thánh rẻ tiền. Vì nó không miễn chước việc hồi tâm của bản thân và lẽ dĩ nhiên, không loại bỏ sự thật. Lòng nhân từ luôn nối kết với sự thật, nhưng ngược lại, sự thật cũng nối kết với lòng nhân từ. Lòng nhân từ là nguyên tắc chú giải học để giải thích sự thật. Nó là điều cần thiết để thi hành sự thật trong tình yêu (Eph 4:15).
Ta còn một nguyên tắc chú giải học khác nữa, đó là: theo cách hiểu của Công Giáo, ta phải giải thích lời dạy của Chúa Giêsu trong ngữ cảnh của toàn bộ truyền thống của Giáo Hội. Trong trường hợp của ta, truyền thống này không hề có tính một hướng. Nó có những vấn đề thuộc lịch sử và nhiều ý kiến chuyên môn khác nhau mà ta không thể đơn thuần làm ngơ. Giáo Hội luôn cố gắng đi tìm con đường trung dung giữa chủ nghĩa khắt khe và chủ nghĩa lỏng lẻo, nghĩa là tìm cách áp dụng sự thật trong yêu thương.
2. Tính độc đáo của mọi con người là thành tố căn bản của nền nhân học Kitô Giáo. Không con người nhân bản nào đơn thuần chỉ là một điển hình của bản tính nhân loại nói chung, và không một con người nhân bản nào bị phán xử duy nhất bằng qui luật tổng quát. Chúa Giêsu không bao giờ nói tới chủ nghĩa này hay chủ nghĩa nọ, bất kể là chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tiêu thụ, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa tương đối hay chủ nghĩa đa dục (pansexualism)… Trong một dụ ngôn, Người nói tới Người Chăn Chiên Tốt Lành bỏ 99 con chiên lại để đi tìm 1 con chiên lạc, để rồi vác nó lên vai khi tìm thấy nó và đưa nó về đàn. Chúa nói: “cũng thế, tôi bảo các ông: thiên đàng hân hoan vì 1 người tội lỗi biết ăn năn hơn 99 người công chính không cần phải ăn năn” (Lc 15:1-7).
Nói cách khác, không hề có người ly dị và tái hôn nói chung, mà đúng hơn, chỉ có những cá nhân ly dị và tái hôn; những cá nhân này rơi vào các tình huống rất khác nhau, mà ta cần phải phân biệt cẩn thận. Cũng không có tình huống khách quan nói chung làm ngăn trở cho việc cho phép rước lễ, mà đúng hơn có nhiều tình huống khách quan rất khác nhau. Thí dụ, nếu một người đàn bà bị bỏ rơi mà không hề có một chút lỗi lầm nào và, vì lợi ích của con cái, bà cần một người chồng hay một người cha, và bà trung thực cố gắng sống cuộc sống Kitô hữu trong cuộc hôn nhân và gia đình thứ hai theo luật dân sự, và dưỡng dục con cái thành Kitô hữu, đồng thời tham dự giáo xứ một cách gương mẫu, một điều rất thường xẩy ra, thì điều này cũng thuộc loại tình huống khách quan, nhưng khác trong yếu tính với một tình huống, tiếc thay, cũng rất thường xẩy ra là: một ai đó bước vào cuộc hôn nhân thứ hai theo luật dân sự một cách ít nhiều dửng dưng đối với tôn giáo và sống ít nhiều như người không thực hành đạo.
Do đó, ta không nên có một quan niệm quá hẹp hòi về tình huống khách quan đến độ thu nhỏ nó lại một điểm duy nhất. Mà đúng hơn, ta phải nghiêm túc tự hỏi liệu ta có thực sự tin sự tha tội mà ta vốn đọc trong Kinh Tin Kính hay không và ta có thực sự tin một ai đó phạm lỗi lầm, rồi ăn năn, và không thể đảo ngược được lỗi lầm ấy mà không rơi vào một mặc cảm tội lỗi mới, nhưng đã làm mọi điều có thể làm được, có thể nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa hay không, và liệu lúc ấy ta có thể từ khước việc giải tội cho họ hay không? Đấy có phải là lập trường của Người Chăn Chiên Tốt Lành và Người Samaritanô nhân hậu chăng?
Đối với những trường hợp như trên, Đức HY Kasper nói rằng truyền thống Công Giáo nhất định không thừa nhận nguyên tắc oikonomia(khoan dung), nhưng truyền thống này biết một nguyên tắc tương tự gọi là epikeia (thích nghi vào hoàn cảnh cụ thể), biện phân thần khí và thuyết đồng cái nhiên (equiprobabilism) của Thánh Anphôngsô đệ Liguori. Truyền thống này cũng nhìn nhận cái hiểu của trường phái Tôma về nhân đức thận trọng hay khôn ngoan (prudence) vốn là một nhân đức nền tảng giúp áp dụng qui luật tổng quát vào tình huống cụ thể.
Tóm lại, trong vấn đề đang bàn, không hề có giải pháp tổng quát cho mọi trường hợp. Đây không phải là vấn đề cho phép chung người ly dị và tái hôn nói chung. Mà đúng hơn, ta phải nghiêm túc lưu ý tới tính độc đáo của mọi con người và của mọi tình huống và thận trọng phân biết và quyết định từng trường hợp một. Bằng cách này, con đường hồi tâm và đền tội, như hình thức được Giáo Hội sơ khai thừa nhận, không phải là con đường của quảng đại quần chúng, mà đúng hơn là con đường của các Kitô hữu đặc thù, có thái độ nghiêm túc thực sự đối với các bí tích.
3. Chân Phúc John Henry Newman từng viết một khảo luận lừng danh tựa là “Về Việc Tham Khảo Tín Hữu Trong Các Vấn Đề Đức Tin”. Ngài chứng minh rằng trong cuộc khủng hoảng Ariô ở hai thế kỷ thứ 4 và thứ 5, không phải các giám mục, mà đúng hơn là các giáo dân đã duy trì được đức tin của Giáo Hội. Thời ấy, Chân Phúc Newman bị nhiều người cực lực phê phán, nhưng nhờ tuyên bố như thế mà ngài đã trở thành người tiền phong của CĐ Vatican II, một Công Đồng, một lần nữa, đã nhấn mạnh tới giáo huấn cảm thức đức tin, một cảm thức mà tín hữu nào, nhờ phép rửa, cũng được ân ban (Lumen Gentium, các số 12, 35).
Điều cần là phải xem trọng cảm thức đức tin của các tín hữu, nhất là vì nó có liên quan tới chủ đề của chúng ta ở đây. Đức HY Kasper cho rằng: các vị trong mật nghị hội Hồng Y đều là người độc thân; còn đại đa số tín hữu sống thực niềm tin của họ vào tin mừng gia đình trong các gia đình cụ thể và đôi khi trong các tình huống khó khăn. Cho nên, các vị trong mật nghị hội Hồng Y cần phải lắng nghe lời chứng của các tín hữu cũng như phải lắng nghe những gì các đồng sự mục vụ và các huấn đạo viên về chăm sóc mục vụ gia đình muốn nói. Họ vốn có nhiều điều muốn nói với chư vị. Bởi thế, toàn bộ vấn đề không thể được quyết định bởi một ủy ban chỉ gồm các vị Hồng Y và giám mục mà thôi. Điều này không loại bỏ việc quyết định cuối cùng vẫn nằm trong tay Thượng Hội Đồng với sự thỏa thuận của Đức Giáo Hoàng.
Về vấn đề này, Đức HY Kasper cho hay: hiện đang có nhiều mong chờ trong Giáo Hội. Dĩ nhiên, không phải mong chờ nào cũng được thể hiện. Nhưng sẽ là một thất vọng lớn lao “nếu ta chỉ lặp lại những giải đáp vốn luôn luôn được nêu ra. Là các chứng nhân của hy vọng, ta không nên để mình bị hướng dẫn bởi một khoa chú giải sợ sệt. Cần một thứ can đảm và trên hết một thứ bộc trực theo nghĩa Thánh Kinh (parrhesia). Nếu không muốn điều đó thì ta không nên tổ chức một thượng hội đồng về chủ đề này, vì như thế tình thế sẽ trở nên tồi tệ hơn trước. Ít nhất, ta cũng nên hé cánh cửa để giáo dân hy vọng và mong chờ và ít nhất cho họ một dấu hiệu để họ thấy rằng về phần chúng ta, chúng ta coi trọng các hy vọng cũng như các vấn nạn, các lo âu và nước mắt của biết bao Kitô hữu nghiêm túc”.
Còn tiếp
Tiến sĩ William Oddie cho rằng Đức Phanxicô đứng về phía Đức HY Muller, chứ không phải Đức HY Kasper, trong cuộc tranh luận về ly dị và tái hôn vì ngài sẽ tiếp tục bảo vệ thánh truyền trong vấn đề này, như ngài vẫn làm xưa nay.
Ta biết, sau bài diễn văn của Đức HY Kasper, Đức Phanxicô không dè dặt khen ngợi vị hồng này trước mật nghị hội Hồng Y, trong đó, dĩ nhiên có Đức HY Kasper: “hôm qua, trước khi đi ngủ, dù tôi không làm việc này để ru mình ngủ, tôi đã đọc hay đúng hơn đã đọc lại công trình của Đức HY Kasper, và tôi muốn cám ơn ngài vì tôi tìm thấy một nền thần học sâu sắc, thậm chí một suy tư sáng sủa về thần học. Quả là thích thú khi được đọc một thần học sáng sủa. Và tôi cũng tìm thấy điều Thánh Inhaxiô dạy ta về ‘cảm thức của Giáo Hội’, tình yêu đối với Mẹ Giáo Hội. Nó làm tôi sảng khoái và bỗng sinh ra một ý tưởng, xin lỗi Đức Hồng Y, nếu tôi làm Đức Hồng Y bối rối, nhưng ý tưởng này là phải gọi đây là ‘làm thần học trên đầu gối của mình’. Xin cám ơn Đức HY. Xin cám ơn”.
Ai cũng nghĩ những lời ca ngợi ấy chỉ có thể phát xuất từ cửa miệng một người hoàn toàn ủng hộ quan điểm của người được ca ngợi. Nhiều người vì thế tin rằng các người Công Giáo ly dị và tái hôn sẽ sớm được rước lễ. Điều này càng được củng cố hơn, khi một phụ nữ Á Căn Đình, người từng viết thư hỏi Đức Phanxicô xem bà có thể được chịu các bí tích hay không dù bà đã ly dị và đã tái hôn ở tòa đời, cho hay Đức Giáo Hoàng nói bà “an tâm” rước lễ. Tin này do người bạn đời của người phụ nữ tiết lộ trên Facebook, bị nhiều người hoài nghi và chính Tòa Thánh bác bỏ, nhưng vẫn được báo chí đời loan truyền rộng rãi.
Oddie cho rằng ca ngợi là một chuyện nhưng thay đổi thánh truyền lại là một chuyện khác hẳn, điều mà Đức Phanxicô chắc chắn không bao giờ làm. Ngài sẽ không thể đồng ý để những người mang tội trọng có thể rước lễ, mà người ly dị tái hôn rõ ràng là mang tội trọng trừ khi nhìn nhận rằng hôn nhân không bất khả tiêu.
Đức Phanxicô dù sao vẫn là người con trung thành của Thánh Giáo Hội Công Giáo. Điều này được chính ngài xác nhận trong một bài giảng thánh lễ hàng ngày tại Nhà Thánh Mácta vào một buổi sáng tháng Giêng, năm 2014 trong đó, ngài cho hay ta không thể sử dụng tín lý của Giáo Hội “tùy thích”. Ngài xác định 3 “cột trụ” để ta thuộc về Giáo Hội là “khiêm nhường”, “trung thành” và “phục vụ đặc biệt”. Trung thành đây là trung thành với Giáo Hội, với giáo huấn của GH, với Tuyên Tín của GH, với tín lý của GH, bảo toàn tín lý này. Ngài bảo: “Ta tiếp nhận sứ điệp của Tin Mừng như một hồng ân và ta cần chuyển giao nó như một hồng ân, không phải là một điều của riêng ta: nó là hồng ân ta đã lãnh nhận”.
Trích dẫn Đức GH Phaolô, ngài nói rằng thật là “một nhị phân phi lý khi yêu Chúa Kitô mà lại không yêu Giáo Hội, ở với Chúa Kitô mà lại đứng bên lề Giáo Hội. Không thể nào như thế được. Nó là một nhị phân phi lý. Ta lãnh nhận sứ điệp Tin Mừng trong Giáo Hội và ta thực thi sự thánh thiện của ta trong Giáo Hội, đường đi của ta trong Giáo Hội. Con đường khác là ảo tưởng, hay như ngài nói, một nhị phân phi lý”.
Phản kiến thần học
Robert Fastiggi, Ph.D., giáo sư thần học hệ thống tại Đại Chủng Viện Thánh Tâm ở Detroit, Hoa Kỳ, liền sau khi nghe bài diễn văn của Đức HY Kasper, trong một bài đăng tải trên L’Osservatore Romano, đã cho hay một số nhận định của ngài về người ly dị và tái hôn có vấn đề.
Dĩ nhiên, bài diễn văn của ngài có nhiều ưu điểm: Theo ông, ngài đã cung cấp một “tổng hợp nhân học và thánh kinh học rất phong phú về nền thần học hôn nhân”. Tuy nhiên phần nói về người ly dị và tái hôn gây nhiều tranh cãi.
1) Vấn đề thứ nhất là động thái vượt ra ngoài các tòa án Giáo Hội. Đức HY Kasper cho rằng thiên luật (iure divino) không đòi các vụ ly dị và tái hôn chỉ được xử lý bằng phương thế luật lệ. Giám mục có thể ủy thác những vụ này cho một linh mục nhiều kinh nghiệm mục vụ và tâm linh làm đại diện xá giải hay đại diện giám mục của mình. Nhưng việc tránh né thủ tục luật pháp của Giáo Hội xem ra có nhiều nguy hiểm. Nếu linh mục muốn đưa ra một tuyên bố vô hiệu đối với cuộc hôn nhân giả định (putative marriage) trước đây, thì ngài dựa vào căn bản nào để đưa ra phán quyết nếu không dựa vào bộ giáo luật của Giáo Hội? Mà đã dựa vào giáo luật, thì làm thế nào một linh mục cá thể lại có khả năng áp dụng nó hơn là một tòa án của Giáo Hội? Mà cho dù linh mục này chỉ có nhiệm vụ quyết định có nên cho phép người ly dị và tái hôn được rước lễ hay không đi chăng nữa, thì ngài dựa vào đâu để quyết định? Nếu ngài cho phép họ rước lễ mà không có sự quyết tâm sống tiết dục (continent), thì như thế là cho phép người ta có liên hệ tính dục với một người không phải là người phối ngẫu hợp bí tích của mình, nghĩa là cho phép họ ngoại tình, một điều trái với thiên luật!
2) Vấn đề thứ hai liên quan tới việc đi từ luật chung tới các tình huống cụ thể đặc thù. Đức HY Kasper nại tới bài diễn văn của Đức Phanxicô đọc ngày 24 tháng Giêng, 2014 trước Tòa Thượng Thẩm Rôma, trong đó, đức GH nhấn mạnh rằng không nên đối nghịch hai chiều kích mục vụ và luật pháp. Căn cứ vào đó, Đức HY nói tới nhu cầu thiêng liêng của người Công Giáo ly dị và tái hôn. Ngài tự hỏi liệu việc khuyến khích họ rước lễ thiêng liêng thay vì rước lễ bí tích có nghĩa lý gì không nếu xét nó theo cơ cấu bí tích nền tảng của Giáo Hội. Nếu những người Công Giáo ly dị và tái hôn này có thể thực hiện một hiệp thông thiêng liêng với Chúa Kitô bất chấp tình huống của họ, thì tại sao họ lại không thể lãnh nhận một cuộc hiệp thông bí tích với cùng một Chúa Kitô này? Câu trả lời đơn giản cho câu hỏi này là: ai vẫn tiếp tục ở trong tội trọng thì không được Rước Lễ (Giáo Luật, các điều 915-916). Có liên hệ vợ chồng với một người không phải là phối ngẫu của mình là một tội trọng vì là ngoại tình. Chăm sóc thích đáng cho con người nhân bản không bao giờ được dẫn tới việc cho phép họ phạm tội. Nếu Giáo Hội cho phép người Công Giáo ly dị và tái hôn được rước lễ, thì điều này có nghĩa một là hôn nhân không bất khả tiêu hai là ngoại tình không phải là một tội trọng. Như Đức Gioan Phaolô II đã viết trong Familaris consortio, số 84: “Nếu những người này [ly dị và tái hôn] được phép Rước Lễ, thì các tín hữu sẽ bị dẫn tới chỗ sai lầm và mơ hồ liên quan tới giáo huấn của Giáo Hội về tính bất khả tiêu của hôn nhân”. Luật lệ của Giáo Hội đặt cơ sở trên giáo huấn của Chúa Kitô vốn qui hướng về thiện ích đích thực của mọi cá nhân. Không hề có mâu thuẫn giữa việc áp dụng các giáo huấn của Chúa Kitô và việc quan tâm tới thiện ích đích thực của mỗi người. Lẽ dĩ nhiên, hãm mình không rước lễ là điều khó khăn đối với người ly dị và tái hôn. Tuy nhiên, lòng khát khao Thánh Thể của họ nên động viên họ đến với Giáo Hội để xem xem liệu cuộc hôn nhân giả định trước của họ có thực sự thành sự hay không. Gợi ý của Đức HY Kasper có nguy cơ loại bỏ việc tìm hiểu này vì Giáo Hội đã cho phép họ rước lễ mà không cần có tuyên bố vô hiệu rồi còn đâu.
3) Vấn đề thứ ba là việc Giáo Hội thời xưa có thể đã cho phép người ly dị và tái hôn được trở lại với hiệp thông Giáo Hội và do đó được rước lễ. Các điển hình lịch sử được Đức HY Kasper nêu ra về phương diện này hiện đang bị thách thức. Việc ngài nại tới khoản luật 8 của CĐ Nixêa I (325) là một sai lầm. Khoản luật này không áp dụng cho người ly dị và tái hôn. Sự khoan dung nói ở đây áp dụng vào những người lạc giáo Cathar vốn có khuynh hướng khắt khe và trước đây từng cấm những người bước vào cuộc hôn nhân thứ hai sau khi người phối ngẫu đầu của họ qua đời không được rước lễ. Một điều kiện để những người theo chủ thuyết Cathar này được trở về với hiệp thông Công Giáo là họ phải hiệp thông với các người đã tái hôn vừa nói. Điều này được trình bày rõ trong cuốn Christian Marriage: An Historical and Doctrinal Study (Hôn Nhân Kitô Giáo: Một Nghiên Cứu Sử Học Và Tín Lý) của George J. Joyce, S.J. (Sheed & Ward, 1933), các trang 581–582. Giáo sư Roberto de Mattei cũng từng trích dẫn cuốn này để luận bác một số điển hình lịch sử của Đức HY Kasper. Các trường hợp điển hình được ngài nhắc tới về các người Công Giáo tái hôn được phép rước lễ trở lại sau khi làm việc đền tội đều là những trường hợp liên quan tới việc đền khỏi tội của cuộc hôn nhân bất thành sự thứ hai nhưng đã bị bãi bỏ. Chứ không phải là các trường hợp làm việc đền tội nhưng vẫn cho phép hối nhân tiếp tục sống trong cuộc hôn nhân bất thành sự thứ hai. Đức HY Kasper cũng bị thách thức khi ngụ ý cho rằng Thánh Basilêô cho phép người ly di và tái hôn được tiếp tục sống trong cuộc kết hợp của họ sau khi làm việc đền tội. Như Cha Joyce đã chứng minh, “Thánh Basilêô chỉ quan tâm tới vấn đề liệu một người đã kết hôn nay rời xa vợ và sống với một nhân tình (paramour) có chịu việc đền tội theo giáo qui vì tội ngoại tình hay không thôi” (tr.322). Nếu người đàn ông bị vợ bỏ rồi sau đó ăn ở với một nhân tình, thì cả chàng lẫn nàng có thể làm một việc đền tội nhẹ vẫn dành cho các vụ gian dâm không có tính ngoại tình. Đây là một ân giải được Thánh Basilêô cho phép, chứ không phải là một ân giải để tiếp tục sống trong một liên hệ không phải là hôn nhân! Chủ trương của Thánh Basilêô rất rõ trong cuốn Ethica, Regula 73 (Đạo Đức Học, Qui Luật 73), c. 2: “Người đàn ông không được phép rẫy vợ mình và cưới một người khác. Họ cũng không được phép cưới một người vợ từng bị chồng nàng ly dị” (PG. 32, 730). Các điển hình khác được Đức HY Kasper trích dẫn cũng đáng bị nghi vấn. Việc ngài nhắc tới việc đền tội như là “tấm ván thứ hai sau phép rửa” là lấy của Tertullian, De paenitentia (Về Việc Đền Tội) 4,2 và được trích dẫn trong Sắc Lệnh về Sự Công Chính Hoá của CĐ Trent (D-H, 1542). Ngài đúng ở chỗ cho rằng trong Giáo Hội sơ khai, việc đền tội được sử dụng như là tấm ván (cấp cứu) thứ hai cho các hối nhân bỏ đạo (lapsi). Nhưng điều này giả thiết các hối nhân phải từ bỏ tội bỏ đạo của họ. Chứ đây không phải một việc đền tội cho phép họ tiếp tục sống trong tội! Một nhận định tốt hơn nhiều về thực hành của Giáo Hội sơ khai đối với người ly dị và tái hôn tìm thấy trong bản văn của Đức HY Ratzinger, Liên Quan Tới Một Số Luận Bác Đối Với Giáo Huấn Của Giáo Hội Về Việc Rước Lễ Của Các Thành Viên Tín Hữu Ly Dị Và Tái Hôn, được công bố dưới hình thức lời dẫn nhập cho Tập 17 của loạt tài liệu do Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin công bố tựa là Tài Liệu và Nghiên Cứu: Về Việc Chăm Sóc Mục Vụ Cho Người Ly Dị và Tái Hôn (Vatican City, 1998). Bản văn này cung cấp cho ta một bác bỏ thấu đáo các điển hình được Đức HYKasper nêu ra. Dù nhìn nhận khả thể có những trường hợp ngoại lệ, Đức HY Ratzinger quả quyết rằng: “Trong Giáo Hội sơ khai, thời các Giáo Phụ, các thành viên tín hữu ly dị và tái hôn không bao giờ chính thức được phép Rước Lễ” (số 2).
4) Vấn đề thứ bốn liên quan tới việc Giáo Hội Công Giáo không bao giờ bác bỏ thực hành của Giáo Hội Chính Thống Giáo Đông Phương cho phép ly dị và tái hôn. Đức HY đưa ra luận điểm này trong phụ lục thứ hai của ngài và ngài nại tới nhận định của một số học giả nói về chủ trương của CĐ Trent đối với vấn đề này. Tuy nhiên, CĐ Trent này đã ra vạ tuyệt thông cho những ai “nói rằng Giáo Hội sai lầm khi đã dạy và còn đang dạy rằng theo tín lý Tin Mừng và tông truyền [xem Mt 5:32; 19:9; Mc 10:11tt; Lc 16:18; 1Cor 7:11], dây hôn phối không thể bị hủy tiêu vì tội ngoại tình của một trong hai người phối ngẫu, và cả hai, kể cả bên vô tội nghĩa là người không tạo cớ cho sự bất trung, có thể kết ước một cuộc hôn nhân khác khi người kia còn sống; và người chồng rẫy vợ ngoại tình và tái hôn và người vợ rẫy người chồng ngoại tình và tái hôn, thì cả hai phạm tội ngoại tình” (D-H, 1807). Việc kết án này không chừa chỗ để ta khoan dung thực hành hiện nay của các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương. Như Đức HY Ratzinger viết trong bản văn đã trích dẫn trên đây: “Trên các cơ sở tín lý, thực hành của các Giáo Hội Đông Phương phân rẽ khỏi Rôma không thể được Giáo Hội Công Giáo tiếp nhận… Hơn nữa, có chứng cớ cho thấy các nhóm tín hữu Chính Thống trở lại Công Giáo phải ký một lời tuyên xưng đức tin trong đó minh nhiên nhắc tới việc không thể có cuộc hôn nhân thứ hai” (số 2).
Tóm lại, theo nhà thần học này, Đức HY Kasper cần được khen ngợi vì bốn phần đầu trong bài diễn văn ngày 20 tháng Hai, 2014. Phần năm của bài diễn văn đó đã lặp lại các gợi ý từng bị Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin bác bỏ trước đây.
Đức HY Kasper minh xác
Trong cuốn “Gospel of the Family” đã trích trên đây, Đức HY có thêm phần tựa là “Nhận Định Kết Thúc Về Cuộc Thảo Luận”. Trong phần này ngài cho hay để trả lời một số phản ứng đối với bài diễn văn của ngài, ngài muốn minh xác 3 điểm:
1. Khởi điểm và nền tảng mọi suy tư của ta phải là lời dạy của Chúa Giêsu rằng không con người nhân bản nào được phân rẽ điều Thiên Chúa đã kết hợp (Mt 19:6). Không ai nghi ngờ tính bất khả tiêu của một cuộc hôn nhân bí tích đã thành sự và hoàn hợp.
Tuy nhiên, ta không nên tách biệt lời Chúa Giêsu dạy ra khỏi ngữ cảnh toàn diện của sứ điệp của Người về nước Thiên Chúa và về tình yêu và lòng nhân từ của Thiên Chúa. Cũng thế, ta cần phải hiểu tín lý về tính bất khả tiêu của hôn nhân trong tương quan nội tại với các mầu nhiệm của đức tin, như CĐ Vatican I vốn dạy (DH 3016) và trong phẩm trật các chân lý đức tin, như CĐ Vatican II dạy trong Sắc Lệnh về Đại Kết số 11. Do đó, ta phải hiểu và hiện thực hóa lời dạy của Chúa Giêsu và giáo huấn của Giáo Hội trong tương quan với sứ điệp của Chúa Giêsu về lòng nhân từ vô lượng của Thiên Chúa đối với mọi hối nhân và muốn được Người thương xót.
Lòng thương xót ấy không phải là một thứ ơn thánh rẻ tiền. Vì nó không miễn chước việc hồi tâm của bản thân và lẽ dĩ nhiên, không loại bỏ sự thật. Lòng nhân từ luôn nối kết với sự thật, nhưng ngược lại, sự thật cũng nối kết với lòng nhân từ. Lòng nhân từ là nguyên tắc chú giải học để giải thích sự thật. Nó là điều cần thiết để thi hành sự thật trong tình yêu (Eph 4:15).
Ta còn một nguyên tắc chú giải học khác nữa, đó là: theo cách hiểu của Công Giáo, ta phải giải thích lời dạy của Chúa Giêsu trong ngữ cảnh của toàn bộ truyền thống của Giáo Hội. Trong trường hợp của ta, truyền thống này không hề có tính một hướng. Nó có những vấn đề thuộc lịch sử và nhiều ý kiến chuyên môn khác nhau mà ta không thể đơn thuần làm ngơ. Giáo Hội luôn cố gắng đi tìm con đường trung dung giữa chủ nghĩa khắt khe và chủ nghĩa lỏng lẻo, nghĩa là tìm cách áp dụng sự thật trong yêu thương.
2. Tính độc đáo của mọi con người là thành tố căn bản của nền nhân học Kitô Giáo. Không con người nhân bản nào đơn thuần chỉ là một điển hình của bản tính nhân loại nói chung, và không một con người nhân bản nào bị phán xử duy nhất bằng qui luật tổng quát. Chúa Giêsu không bao giờ nói tới chủ nghĩa này hay chủ nghĩa nọ, bất kể là chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tiêu thụ, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa tương đối hay chủ nghĩa đa dục (pansexualism)… Trong một dụ ngôn, Người nói tới Người Chăn Chiên Tốt Lành bỏ 99 con chiên lại để đi tìm 1 con chiên lạc, để rồi vác nó lên vai khi tìm thấy nó và đưa nó về đàn. Chúa nói: “cũng thế, tôi bảo các ông: thiên đàng hân hoan vì 1 người tội lỗi biết ăn năn hơn 99 người công chính không cần phải ăn năn” (Lc 15:1-7).
Nói cách khác, không hề có người ly dị và tái hôn nói chung, mà đúng hơn, chỉ có những cá nhân ly dị và tái hôn; những cá nhân này rơi vào các tình huống rất khác nhau, mà ta cần phải phân biệt cẩn thận. Cũng không có tình huống khách quan nói chung làm ngăn trở cho việc cho phép rước lễ, mà đúng hơn có nhiều tình huống khách quan rất khác nhau. Thí dụ, nếu một người đàn bà bị bỏ rơi mà không hề có một chút lỗi lầm nào và, vì lợi ích của con cái, bà cần một người chồng hay một người cha, và bà trung thực cố gắng sống cuộc sống Kitô hữu trong cuộc hôn nhân và gia đình thứ hai theo luật dân sự, và dưỡng dục con cái thành Kitô hữu, đồng thời tham dự giáo xứ một cách gương mẫu, một điều rất thường xẩy ra, thì điều này cũng thuộc loại tình huống khách quan, nhưng khác trong yếu tính với một tình huống, tiếc thay, cũng rất thường xẩy ra là: một ai đó bước vào cuộc hôn nhân thứ hai theo luật dân sự một cách ít nhiều dửng dưng đối với tôn giáo và sống ít nhiều như người không thực hành đạo.
Do đó, ta không nên có một quan niệm quá hẹp hòi về tình huống khách quan đến độ thu nhỏ nó lại một điểm duy nhất. Mà đúng hơn, ta phải nghiêm túc tự hỏi liệu ta có thực sự tin sự tha tội mà ta vốn đọc trong Kinh Tin Kính hay không và ta có thực sự tin một ai đó phạm lỗi lầm, rồi ăn năn, và không thể đảo ngược được lỗi lầm ấy mà không rơi vào một mặc cảm tội lỗi mới, nhưng đã làm mọi điều có thể làm được, có thể nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa hay không, và liệu lúc ấy ta có thể từ khước việc giải tội cho họ hay không? Đấy có phải là lập trường của Người Chăn Chiên Tốt Lành và Người Samaritanô nhân hậu chăng?
Đối với những trường hợp như trên, Đức HY Kasper nói rằng truyền thống Công Giáo nhất định không thừa nhận nguyên tắc oikonomia(khoan dung), nhưng truyền thống này biết một nguyên tắc tương tự gọi là epikeia (thích nghi vào hoàn cảnh cụ thể), biện phân thần khí và thuyết đồng cái nhiên (equiprobabilism) của Thánh Anphôngsô đệ Liguori. Truyền thống này cũng nhìn nhận cái hiểu của trường phái Tôma về nhân đức thận trọng hay khôn ngoan (prudence) vốn là một nhân đức nền tảng giúp áp dụng qui luật tổng quát vào tình huống cụ thể.
Tóm lại, trong vấn đề đang bàn, không hề có giải pháp tổng quát cho mọi trường hợp. Đây không phải là vấn đề cho phép chung người ly dị và tái hôn nói chung. Mà đúng hơn, ta phải nghiêm túc lưu ý tới tính độc đáo của mọi con người và của mọi tình huống và thận trọng phân biết và quyết định từng trường hợp một. Bằng cách này, con đường hồi tâm và đền tội, như hình thức được Giáo Hội sơ khai thừa nhận, không phải là con đường của quảng đại quần chúng, mà đúng hơn là con đường của các Kitô hữu đặc thù, có thái độ nghiêm túc thực sự đối với các bí tích.
3. Chân Phúc John Henry Newman từng viết một khảo luận lừng danh tựa là “Về Việc Tham Khảo Tín Hữu Trong Các Vấn Đề Đức Tin”. Ngài chứng minh rằng trong cuộc khủng hoảng Ariô ở hai thế kỷ thứ 4 và thứ 5, không phải các giám mục, mà đúng hơn là các giáo dân đã duy trì được đức tin của Giáo Hội. Thời ấy, Chân Phúc Newman bị nhiều người cực lực phê phán, nhưng nhờ tuyên bố như thế mà ngài đã trở thành người tiền phong của CĐ Vatican II, một Công Đồng, một lần nữa, đã nhấn mạnh tới giáo huấn cảm thức đức tin, một cảm thức mà tín hữu nào, nhờ phép rửa, cũng được ân ban (Lumen Gentium, các số 12, 35).
Điều cần là phải xem trọng cảm thức đức tin của các tín hữu, nhất là vì nó có liên quan tới chủ đề của chúng ta ở đây. Đức HY Kasper cho rằng: các vị trong mật nghị hội Hồng Y đều là người độc thân; còn đại đa số tín hữu sống thực niềm tin của họ vào tin mừng gia đình trong các gia đình cụ thể và đôi khi trong các tình huống khó khăn. Cho nên, các vị trong mật nghị hội Hồng Y cần phải lắng nghe lời chứng của các tín hữu cũng như phải lắng nghe những gì các đồng sự mục vụ và các huấn đạo viên về chăm sóc mục vụ gia đình muốn nói. Họ vốn có nhiều điều muốn nói với chư vị. Bởi thế, toàn bộ vấn đề không thể được quyết định bởi một ủy ban chỉ gồm các vị Hồng Y và giám mục mà thôi. Điều này không loại bỏ việc quyết định cuối cùng vẫn nằm trong tay Thượng Hội Đồng với sự thỏa thuận của Đức Giáo Hoàng.
Về vấn đề này, Đức HY Kasper cho hay: hiện đang có nhiều mong chờ trong Giáo Hội. Dĩ nhiên, không phải mong chờ nào cũng được thể hiện. Nhưng sẽ là một thất vọng lớn lao “nếu ta chỉ lặp lại những giải đáp vốn luôn luôn được nêu ra. Là các chứng nhân của hy vọng, ta không nên để mình bị hướng dẫn bởi một khoa chú giải sợ sệt. Cần một thứ can đảm và trên hết một thứ bộc trực theo nghĩa Thánh Kinh (parrhesia). Nếu không muốn điều đó thì ta không nên tổ chức một thượng hội đồng về chủ đề này, vì như thế tình thế sẽ trở nên tồi tệ hơn trước. Ít nhất, ta cũng nên hé cánh cửa để giáo dân hy vọng và mong chờ và ít nhất cho họ một dấu hiệu để họ thấy rằng về phần chúng ta, chúng ta coi trọng các hy vọng cũng như các vấn nạn, các lo âu và nước mắt của biết bao Kitô hữu nghiêm túc”.
Còn tiếp
Vũ Văn An10/1/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét