Trang

Thứ Năm, 12 tháng 11, 2015

Bài 4 ĐẤNG CỨU CHUỘC - CHÚA CON

hần I - Bài 4 ĐẤNG CỨU CHUỘC - CHÚA CON




        Trước khi đọc bài này, bạn hãy suy nghĩ và trả lời tiếp hai câu hỏi sau:
        1.  Có một điều tôi nhận thấy Đức Giê-su đặc biệt lôi cuốn, đó là...
        2.  Điều làm tôi dễ nhận biết Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, đó là...

GIÊ-SU

        Ít năm trước đây, báo Reader's Digest có nhờ sử gia H. G. Wells lựa ra sáu nhân vật tiêu biểu trong lịch sử nhân loại.  Mặc dù Wells không phải là Ki-tô hữu, ông vẫn chọn Đức Giê-su đứng hàng đầu.  Sự lựa chọn này của ông không căn cứ vào số đông người tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, nhưng đúng hơn, như Wells giải thích thế này:
        "Một sử gia phải coi Đức Giê-su là một con người, tựa như một họa sĩ phải vẽ Ngài như một người bình thường...  Sử gia đó phải sẵn sàng nói lên một sự thật hiển nhiên không thể thay đổi, cho dù sách của ông ta được người ta đọc ở bất cứ nơi nào trên thế giới.  Đó mới là chỗ đứng của người viết sử qua những tư tưởng thâm sâu họ trình bày."
        Vậy Wells đã có những tư tưởng nào?  Ông ta đã đề ra hai tư tưởng tiêu biểu:
        Tư tưởng thứ nhất về đặc tính là Cha của Thiên Chúa.  Điểm này dạy chúng ta rằng Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ này đang chăm lo cho mỗi người chúng ta.  Thiên Chúa là Cha của chúng ta.  Ngài ban sự sống cho chúng ta và chúng ta là con cái Ngài.  Điều này có nghĩa tất cảø chúng ta đều là anh chị em.  Wells nói nếu chúng ta thực thi lời dạy của Đức Giê-su, thì chúng ta và cả thế giới sẽ thay đổi không thể tưởng tượng nổi.
        Tư tưởng thứ hai là lời dạy của Đức Giê-su về nước Thiên Chúa.  Nếu như nhân loại có cùng một nguồn gốc, thì họ cũng có cùng một thân phận.  Lịch sử có hướng đi, đang tiến về một nơi nào đó.  Thiên Chúa có kế hoạch riêng biệt cho nhân loại.  Không ai sẽ bị loại ra ngoài kế hoạch đó.  Mỗi người là một phần của kế hoạch đó và mỗi người đều tiếp tay với kế hoạch đó.  Một lần nữa, nếu chúng ta thực thi lời dạy của Đức Giê-su, bộ mặt của trái đất sẽ thay đổi.
        Như vậy, Đức Giê-su hiện diện trong lịch sử nhân loại như một người vô song.  Sứ điệp của Ngài không những hợp thời trong những ngày đầu cuộc đời rao giảng của Ngài mà vẫn còn hợp thời cho ngày hôm nay.
        Những điều nói trên đưa chúng ta đến một câu hỏi quan trọng nhất cần nêu lên và tìm câu trả lời:

Đức Giê-su là ai?

        Tại một khu đậu xe ở Dallas, có một chủng sinh lái xe vào đậu trong đó.  Đằng sau xe có hàng chữ ICHTHYS xếp thành hình con cá.  Một bà hỏi anh chữ đó nghĩa là gì.  Anh chủng sinh trả lời đó là chữ Hy-lạp, viết tắt do những chữ Iesous Christos, Theou Yios, Soter ("Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế").  Từ ngữ này gồm tóm hai chân lý quan trọng nhất mà các Ki-tô hữu thời Hội Thánh sơ khai hằng tin tưởng:
        *  Đức Giê-su là Con Thiên Chúa.
        *  Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế.
        Vì những chữ tắt làm thành từ Hy-lạp có nghĩa là cá, nên những tín hữu đầu tiên đã chọn hình con cá như một biểu tượng về Đức Giê-su.

CON THIÊN CHÚA


        Vào tối Chúa Nhật Phục Sinh, Đức Giê-su đã hiện ra với các Tông đồ.  Ông Tô-ma vắng mặt trong buổi gặp gỡ đó.  Kết quả là Tô-ma đã phủ nhận việc Đức Giê-su đã sống lại và hiện ra.
        Một tuần sau, Đức Giê-su lại hiện ra cùng các Tông đồ.  Thấy Tô-ma có mặt, Đức Giê-su quay về phía ông và nói:  "Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.  Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin."   Lập tức Tô-ma quỳ sụp xuống và nói:  "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" (Ga 20:27-28).

Đức Giê-su là Chúa


        Kể từ giây phút đó cho đến nay, từ ngữ Chúa trở thành một danh hiệu dành riêng để gọi Đức Giê-su.  Trong bài giảng sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, thánh Phê-rô nói về Đức Giê-su như sau:  "Thiên Chúa đã đặt Người (Đức Giê-su) làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô" (Cv 2:36).  Thánh Phao-lô viết cho tín hữu Rô-ma:  "Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ" (Rm 10:9).
        Cho nên một trong những danh hiệu mà các tín hữu đầu tiên xưng tụng Đức Giê-su, đó là danh hiệu Chúa.  Điều ấy chứng tỏ họ tin tưởng Đức Giê-su là Thiên Chúa.
        Danh hiệu thứ hai họ gọi Đức Giê-su để biểu lộ đức tin vào thiên tính của Ngài, đó là danh hiệu Con Thiên Chúa.

Đức Giê-su là Chúa Con


        Các tác giả Kinh Thánh Cựu Ước đã dùng từ ngữ con Thiên Chúa để chỉ về những vị ở trên trời (G 2:1), về các vua Do-thái (2 Sm 7:14) hoặc về chính dân Ít-ra-en (Hs 11:1).
        Các tác giả Kinh Thánh Tân Ước dùng danh hiệu này cho Đức Giê-su.  Thí dụ, Mác-cô mở đầu sách Tin Mừng bằng câu:  "Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa."  Để kết thúc sách Tin Mừng, Mác-cô ghi lại việc viên đội trưởng Rô-ma sau khi chứng kiến cuộc tử hình của Đức Giê-su đã phải thốt lên:  "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa" (Mc 15:39).
        Học hỏi kỹ những sách Tin Mừng, chúng ta thấy các tác giả dùng danh hiệu Con Thiên Chúa với ý nghĩa khác hẳn các tác giả Cựu Ước.  Danh hiệu Con Thiên Chúa được dùng để gọi Đức Giê-su hiểu theo nghĩa rõ ràng chứ không phải theo nghĩa ám chỉ như thời Cựu Ước.

Đức Giê-su là Ngôi Lời


        Sách Tin Mừng Gio-an mở đầu với lời tựa giới thiệu Ngôi Lời:
        "Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
        Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
        và Ngôi Lời là Thiên Chúa.
        Ngôi Lời đã trở nên người phàm
        và cư ngụ giữa chúng ta.
        Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người." 
                                                (Ga 1:1,14)
        Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa đã mặc lấy thân xác con người và sống giữa chúng ta.  Ngôi Lời chào đón, mời gọi, thông đạt và mạc khải.  Điều này cho chúng ta thấy một điểm rất quan trọng:  Ngài mạc khải không những qua những gì Ngài nói, mà còn qua những gì Ngài thể hiện.
        Charles Schulz, tác giả hoạt họa Peanuts đã nói:  "Điều tôi nhận thấy Đức Giê-su có ý nghĩa với tôi, đó là qua Ngài chúng ta có thể nhìn thấy Thiên Chúa và hiểu được những cảm nghĩ của Thiên Chúa về chúng ta."
        Thư gửi tín hữu Do-thái nói về Đức Giê-su như sau:  "Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa" (Dt 1:3).  Chính Đức Giê-su cũng nói:  "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga 14:9).
        Đối với một người có đức tin, Đức Giê-su quả là vô song trong lịch sử nhân loại, vì Ngài đã làm cho Thiên Chúa hiện diện trong thân xác con người.  Qua Đức Giê-su, chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa trở nên con người như chúng ta, sống giữa chúng ta, sống động đến độ như chúng ta có thể sờ được Ngài và nhìn thấy Ngài, đúng như Gio-an đã viết:
        "Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu,
        điều chúng tôi đã nghe,
        điều chúng tôi đã thấy tận mắt,
        điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng,
        và tay chúng tôi đã chạm đến,
        đó là Lời sự sống.
        Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày,
        chúng tôi đã thấy và làm chứng...
        để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi,
        mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha
        và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người.
        Những điều này, chúng tôi viết ra
        để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn."
                                                (Ga 1:1-4)
        Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa vì Ngài mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta.
        Tuy nhiên, Ngài còn làm cho chúng ta nhận thức được chính chúng ta một cách rõ ràng hơn.  Ngài là hình ảnh toàn hảo của một con người mà mỗi người chúng ta phải cố gắng đạt tới.  Qua Ngài, chúng ta thấy rằng với bản năng của một con người, chúng ta có thể vượt thắng nọi khó khăn để trở nên hoàn hảo.  Nhân tính của Đức Giê-su đã chứng minh điều đó.  Tất cả những gì Ngài đã làm, chúng ta đều có thể làm được, chẳng hạn như yêu thương kẻ thù, tha thứ cho kẻ bách hại ta, làm bạn với kẻ bị ruồng bỏ, và có khả năng thay đổi người khác bằng ánh mắt hay lời nói.
        Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa theo hai ý nghĩa.  Qua bản tính Thiên Chúa, Ngài hé mở cho chúng ta hiểu được Thiên Chúa.  Qua bản tính loài người, Ngài thể hiện mức độ hoàn hảo của con người mà chúng ta đều có thể trở thành - nếu chúng ta mở lòng đón nhận lời giảng và Thánh Thần của Ngài trong cuộc sống mỗi ngày.

Đức Giê-su là vô song


        Đức Giê-su được gọi là "vô song" trong lịch sử nhân loại vì một sự kiện thật đơn giản:  Ngài không những là "con người" vì sinh ra do một người nữ, nhưng còn là Con Thiên Chúa vì được sinh ra bởi Thiên Chúa.  Trong một ngôi vị duy nhất, Đức Giê-su mang hai bản tính:  bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại.  Ngài liên kết tất cả những gì là con người với tất cả những gì là Thiên Chúa.
        Để cố gắng diễn tả sự huyền nhiệm này, thi sĩ Richard Crashaw đã nói về Đức Giê-su:
                "Muôn lạ lùng tụ về trong một vẻ uy nghi
                Là vĩnh cửu giam mình trong hạn hữu!
                Chúa là mùa hạ giữa mùa đông lạnh lẽo
                Là ngày bừng sáng trong đêm tối âm u
                Là thiên đàng nơi trần gian tội lỗi sa mù
                Là Thiên Chúa trong con người dương thế."
        Như vậy, để tuyên xưng đức tin vào thiên tính của Chúa Ki-tô, các tín hữu đầu tiên đã gọi Đức Giê-su bằng những danh hiệu:
                *  Chúa
                *  Con Thiên Chúa
                *  Lời Thiên Chúa.

ĐẤNG CỨU CHUỘC NHÂN LOẠI


        Ngoài việc tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, các tín hữu sơ khai còn tin Ngài là Đấng Cứu Chuộc nhân loại.  Họ đã tuyên xưng niềm tin này khi gọi Ngài bằng:
                *  tên Giê-su
                *  danh hiệu Ki-tô
                *  danh hiệu Đấng Cứu Thế.
        Chúng ta cùng tìm hiểu kỹ hơn về những tên và danh hiệu này.

Giê-su nghĩa là "Thiên Chúa cứu rỗi"


        Trong Kinh Thánh, tên gọi thường liên hệ với lai lịch của một người.
        Sự kiện đầu tiên nói về lai lịch của Đức Giê-su đó là tên gọi mà thiên sứ bảo ông Giu-se phải đặt cho Ngài:  "Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ" (Mt 1:21).  Như vậy thiên sứ đã cho thấy Đức Giê-su là Đấng Cứu Chuộc nhân loại.
        Điều này đưa chúng ta tới danh hiệu Ki-tô.

Ki-tô nghĩa là "Đấng được xức dầu"


        Một thời điểm quan trong nhất trong toàn bộ Tin Mừng đó là biến cố tại Xê-da-rê Phi-líp-phê khi Đức Giê-su hỏi Phê-rô "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" và Phê-rô trả lời "Thầy là Đấng Ki-tô" (Mc 8:29).  Từ ngữ Mê-si-a là tiếng Do-thái, dịch sang tiếng Hy-lạp là Christos, nghĩa là Đấng được xức dầu.
        Từ ngữ này dùng để chỉ về một người được Thiên Chúa tuyển chọn và giao phó cho một sứ mệnh.  Lần đầu tiên Đức Giê-su nói về chính Ngài là Đấng được xức dầu là khi Ngài ở trong hội đường Na-da-rét.  Ngài đọc đoạn Kinh Thánh trích sách ngôn sứ I-sai-a:
        "Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
        vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
        để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
        Người đã sai tôi đi công bố
        cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha,
        cho người mù biết họ được sáng mắt,
        trả lại tự do cho người bị áp bức,
        công bố một năm hồng ân của Chúa."
                                        (Lc 4:18-19)        
        Rồi Đức Giê-su đã thốt lên những lời đáng nhớ sau đây:  "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe" (Lc 4:21).  Đức Giê-su đã coi mình như người được Thiên Chúa trao cho sứ vụ "cứu chuộc" đặc biệt.
        Việc Đức Giê-su được "xức dầu" đã xảy ra trong dịp Ngài chịu phép rửa, khi ấy tầng trời mở ra, rồi Thánh Thần ngự xuống trên Ngài và có tiếng từ trời phán:  "Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con" (Lc 3:22).  Sau này, khi nói với dân chúng về biến cố ấy, ông Phê-rô giảng rằng:  "Quý vị biết rõ...  Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người.  Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người" (Cv 10:36-38).
        Danh hiệu Mê-si-a chỉ về Đức Giê-su là Đấng được Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại để thi hành sứ vụ cứu chuộc họ.

Đức Giê-su được gọi là Đấng Cứu Thế


        Ngày nọ Đức Giê-su gặp một phụ nữ cạnh bờ giếng bên ngoài một ngôi làng. Ngài đã làm cho bà hết sức ngạc nhiên đến nỗi bà chạy về làng và nói với dân làng:  "Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?" (Ga 4:29).  Họ kéo đến và xin Ngài dạy dỗ họ.  Sau khi nghe giảng xong, dân làng nói với nhau:  "Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian" (Ga 4:42).
        Đức Giê-su đã chinh phục nhiều người khác cũng một phương thức như vậy.  Thí dụ sau khi Đức Giê-su trở về với Chúa Cha, thánh Gio-an viết cho các Ki-tô hữu sơ khai như sau: "Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa...  Đó là Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng cứu độ thế gian" (1 Ga 1:3, 4:14).
        Từ ngữ Đấng Cứu Thế mang ý nghĩa dưới hai khía cạnh:  Đức Giê-su cứu thoát chúng ta khỏi điều gì và để làm gì.
        Để hiểu rõ hơn về khía cạnh thứ nhất, bạn hãy nhớ lại sau khi được Thiên Chúa dựng nên, ông A-đam đã phạm tội.  Lập tức tội lỗi bắt đầu lan tràn khắp thế gian.  Thảm cảnh này đã được mô tả trong sách Sáng-thế.  Sự kiện trên đưa chúng ta đến một kết luận khủng khiếp:  tội lỗi đã bao trùm nhân loại đến độ đem lại sự chết.  Nhân loại sẽ đi đến hủy diệt nếu Thiên Chúa không can thiệp để cứu vớt họ.  Chính trong bối cảnh tội lỗi hủy diệt công cuộc tạo dựng mà chúng ta thấy rõ Đức Giê-su cứu thoát chúng ta khỏi điều gì.  Ngài cứu chúng ta khỏi họa bị hủy diệt.  Ngài cứu chúng ta khỏi sự chết.  Thánh Phao-lô diễn tả sứ mệnh của Đức Giê-su như sau:
        "Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết...  Cho nên, cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống." (Rm 5:12,18)
        Đức Giê-su được gọi là Đấng Cứu Thế vì Ngài cứu chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết.  Được rửa tội trong Đức Ki-tô, chúng ta trở nên chi thể của Nhiệm Thể Ngài và được ban sự sống mới trong Ngài.  Điều này đưa chúng ta sang khía cạnh thứ hai của sứ mệnh cứu chuộc của Đức Giê-su:  Ngài đã cứu chuộc chúng ta để làm gì?
        Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta được củng cố để tiếp tục công cuộc cứu chuộc mà Đức Giê-su đã khởi sự.  Chúng ta đã được cứu khỏi tội lỗi để làm công việc tái tạo trần gian mà tội lỗi đã phá hủy.  Chúng ta được cứu chuộc để làm công việc hoàn tất triều đại của Thiên Chúa.  Những ai nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế thì đều trở nên một phần tử trong công cuộc làm thay đổi trần gian.  Trách nhiệm của chúng ta lúc này là hãy đem Nước Chúa đến cho mọi người.
        Như vậy, những Ki-tô hữu đầu tiên đã tuyên xưng rằng Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế khi gọi Ngài bằng tên Giê-su và bằng các danh hiệu Ki-tô và Đấng Cứu Thế.

ĐỌC VÀ SUY NIỆM KINH THÁNH


        1.  Gio-an 20:24-31                Đừng nghi ngờ nữa!
        2.  Gio-an 4:1-41           Phải chăng Ngài là Đấng Ki-tô?
        3.  Phi-líp-phê 2:1-11              Hãy nên giống như Ngài!
        4.  1 Gio-an 4:7-14                Chúa Con - Đấng Cứu Thế
        5.  Rô-ma 8:31-39         Tình yêu của Thiên Chúa qua Đức Giê-su.

THẢO LUẬN


        1.  Theo hai ý nghĩa nào để hiểu Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa?
        2.  Suy nghĩ về tương quan giữa những từ ngữ Mê-si-a, Ki-tô và Đấng được xức dầu.
        3.  Đức Giê-su đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi để chúng ta cùng với Ngài tái tạo thế giới.  Vậy vai trò của chúng ta trong công cuộc này như thế nào?

CHIA SẺ


        1.  Thảo luận tư tưởng sau:  "Ngay lúc này nếu Chúa Giê-su đến, người ta đâu cần đóng đinh Ngài.  Người ta sẽ mời Ngài đi ăn tối, lắng nghe xem Ngài giảng điều gì, rồi sẽ diễu cợt những lời giảng dạy ấy" (Thomas Carlyle).  Bạn có đồng ý không?
        2.  Nếu hôm nay Chúa Giê-su đến, Ngài sẽ chọn 12 tông đồ từ những nhóm nào:  doanh thương, công nhân, thể tháo gia nhà nghề, sinh viên, ca sĩ...?
        3.  Văn hào Mark Twain viết:  "Nếu hôm nay Chúa Giê-su đến, có một điều chắc Ngài sẽ không làm:  đó là làm một Ki-tô hữu."  Bạn nghĩ sao?
        4.  Khi nghi ngờ như thánh Tô-ma, bạn sẽ làm gì?

 


 
 
Tác giả: Mark Link, S.J. Chuyển ngữ: Lm Trần đình Nhi
Nguồn: The Catholic Vision I - 4

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét