Giuse BCD
Dẫn Nhập
Vào cuối mùa xuân năm 2015, tôi có viết một bài chia sẻ về phương thức truyền giáo mà tôi kinh nghiệm được khi sống và làm việc trên cánh đồng truyền giáo Tây Nguyên. Bài chia sẻ đó có nhan đề: “Truyền Giáo: dễ hay khó?”. Lúc ấy, tôi viết bài này với ý nghĩ viết càng ngắn càng tốt, để mọi người đọc và nắm bắt ngay vấn đề, đồng thời đan xen niềm hy vọng rằng bài viết sẽ đóng góp cho người đọc, nhất là những ai đang muốn làm việc truyền giáo, có thêm chất liệu và phương thế thi hành sứ mạng Chúa trao phó. Bây giờ tiết trời đang vào cuối mùa hạ và chuẩn bị lập thu, tôi lại có dịp suy tư và muốn đào sâu hơn kinh nghiệm truyền giáo dựa trên việc chiêm ngắm Chúa Giêsu đi truyền giáo khi suy niệm Lời Chúa, để bổ túc cho kinh nghiệm cũng như những chia sẻ của bản thân về đề tài trên.
Đoạn Lời Chúa giúp tôi chiêm ngắm Chúa Giêsu làm công việc truyền giáo và dạy tôi học cách truyền giáo chính là đoạn “Ga 4:5-42″. Đoạn Tin Mừng này kể về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp. Qua cuộc gặp gỡ này, tôi nhận ra và xác quyết rằng Chúa Giêsu là bậc thầy về truyền giáo, và những gì tôi chia sẻ trong bài “Truyền Giáo: dễ hay khó?” là có căn cứ. “Năm kỹ năng cơ bản trong ơn gọi truyền giáo” hay “năm bước truyền giáo” rất gần gũi với cách thức Chúa Giêsu truyền giáo cho người phụ nữ Samari.
Ðể có thể trình bày cho mọi người mầu nhiệm cứu rỗi và sự sống mà Chúa đã thông ban, Giáo Hội phải thấm nhập vào tất cả những nhóm người [chưa nghe biết, hoặc chỉ mới nghe sơ qua về sứ điệp Phúc Âm; trong số đó có người đang theo một trong các tôn giáo lớn, có người còn xa lạ với ý niệm về chính Thiên Chúa, lại có người ra mặt phủ nhận và đôi khi còn ra mặt đả kích sự hiện hữu của Thiên Chúa nữa] theo cùng một chiều hướng như chính Chúa Kitô, Ðấng đã nhờ việc nhập thể mà liên kết mình với những hoàn cảnh nhất định về xã hội và văn hóa của những người mà Chúa cùng chung sống. (Sắc lệnh “Ad Gentes“, 10)
1. Thiết lập tình bạn giữa tôi và đối tượng cần được truyền giáo (Ga 4:7-14)
Khởi đầu cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari, Ngài dạy chúng ta cách bắt chuyện làm quen, thiết lập tình bạn giữa hai đối tượng. Đức Giêsu đã chủ động bắt chuyện với người phụ nữ bằng cách xin nước uống: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” (Ga 4:7). Người phụ nữ đáp lại: “Ông là người Do Thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” (Ga 4:9) Lời đáp trả của người phụ nữ giúp chúng ta nhận ra sự khác biệt về văn hóa là một trở ngại cho một tương giao, đồng thời khích lệ chúng ta đừng ngại bước chân tới những biên cương mới, dù nơi ấy không cùng văn hóa và tôn giáo với chúng ta, bởi lẽ Đức Giêsu đã từng đối diện và hóa giải mọi vấn đề bằng thái độ hiếu hòa và cung cách từ tốn, bằng sự đối thoại cởi mở và chân thành. Đức Giêsu đã không bị chi phối bởi sự khác biệt văn hóa khi đối thoại với người phụ nữ, ngược lại Ngài đã chứng minh cho chị ấy nhận thức rằng sự khác biệt văn hóa chẳng liên quan gì tới sự sống đời đời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4:10). Đức Giêsu muốn phát triển tình bạn giữa Ngài và người phụ nữ cách sâu xa hơn để xây dựng lòng tin, giúp nhau tìm gặp chân lý và sự thật. Đây cũng là bước thứ hai trong tiến trình giới thiệu Chúa cho người khác.
Phản tỉnh bước thứ nhất của bài học Truyền Giáo: Nhiều người khi vừa đặt chân đến mảnh đất truyền giáo đã vội vàng lo ngại về sự khiếm khuyết ngôn ngữ bản địa của bản thân. Thực tế, có một thứ ngôn ngữ mà mọi người trên thế giới này đều có thể hiểu và câu thông với nhau, đó là ngôn ngữ của tình yêu. Khi bạn có tình yêu chân thực dành cho người bản địa và phong thái hiếu hòa, vui tươi, cởi mở…, hầu chắc bạn có thể dễ dàng kết bạn với họ. Vì lẽ đó, người truyền giáo không nên e ngại về ngôn ngữ câu thông, nhưng nên khôn ngoan thiết lập mối tương quan tình bạn với bà con đang cần được nghe biết Tin Mừng. Tất nhiên, việc thông thạo ngôn ngữ và văn hóa của người bản địa là điều cần thiết, nhưng không phải là điều kiện tiên quyết để truyền giáo. Một lần nữa, chúng ta nên nhớ rằng bước đầu tiên của việc truyền giáo là thiết lập Tình Bạn, chứ không phải là nói về Chúa cho “dân ngoại” nghe ngay tức khắc. Nếu vừa gặp bà con đã vội vàng giới thiệu Chúa cho họ, thì e rằng hành động ấy sẽ khiến cánh cửa tâm hồn của bà con cũng vội vàng khép kín. Như thế, việc truyền giáo vô tình bị chặn đứng bởi chính người truyền giáo, chứ không phải bởi người bắt hại Đạo. Nói cách khác, một khi cánh cửa tâm hồn của người cần được nghe biết Tin Mừng bị đóng chặt, thì khó lòng khiến nó mở ra. Do đó, việc thiết lập tình bạn rất quan trọng và là nhịp cầu giúp chúng ta khởi sự việc truyền giáo. Thế nhưng, làm thế nào để thiết lập tình bạn, và giai đoạn này cần bao nhiêu thời gian? Thiết lập tình bạn tùy thuộc vào kỹ năng và phong thái riêng của mỗi người. Nếu bạn tiếp xúc với một người mới gặp, bạn tạo nên một không gian cởi mở, vui vẻ, thân thiện, chân thành…, thì khả năng kết bạn trở nên dễ dàng hơn. Bạn cũng không nên quá vồn vã khi vừa mới quen biết người khác và môi trường khác. Cần kiên nhẫn và quan sát. Cần tìm hiểu văn hóa và thói quen của đối phương. Có khi bạn chỉ cần ba hoặc bốn lần gặp gỡ là có thể trở nên thân quen với người mới. Nhưng có khi bạn tốn khoảng một vài tháng mới có thể thân thuộc với đối tượng cần được kết bạn. Nói chung, kiên nhẫn và hài hòa là hai điều cần thiết trong việc thiết lập tình bạn. Thiết lập được tình bạn rồi, bạn cần xây dựng một mối tương quan đáng tin cậy cho người bạn của mình. Đây là bước thứ hai.
Ðể có thể làm chứng về Chúa Kitô một cách hữu hiệu, chính các Kitô hữu phải lấy lòng kính trọng và tình bác ái mà liên kết với những người ấy, phải biết mình là thành phần của nhóm người mình chung sống, và tham gia đời sống văn hóa, xã hội qua những giao tiếp và hoạt động khác nhau trong đời sống nhân loại, lại phải làm quen với những truyền thống dân tộc và tôn giáo của những người ấy; phải lấy làm sung sướng và kính cẩn mà khám phá ra những hạt giống Lời Chúa đang tiềm ẩn trong họ. (Sắc lệnh “Ad Gentes“, 11)
2. Xây dựng lòng tin qua việc chia sẻ cuộc sống của nhau (Ga 4:15-19)
Khi người phụ nữ khát khao được uống nước hằng sống, Đức Giêsu không đáp ứng nhu cầu ấy ngay, vì đây chưa phải là lúc Ngài làm việc này, cho nên Ngài mới yêu cầu được gặp chồng chị ta. Việc Đức Giêsu muốn làm là xây dựng lòng tin tưởng. Ngài muốn người phụ nữ Samari hoàn toàn tin vào Ngài. Tin nhau mới có thể cộng tác với nhau, mới có thể chia sẻ mọi sự cho nhau. Một trong những cách Đức Giêsu xây dựng lòng tin nơi người khác là thể hiện sự quan tâm. Đức Giêsu quan tâm đến chị, thấu hiểu hoàn cảnh của chị và cảm thông với nỗi khổ tâm của chị khi Ngài tỏ cho chị thấy rằng Ngài biết hết sự thật về chị, rằng chị ấy không có chồng là đúng vì chị đã có năm đời chồng và người đang sống với chị không phải là chồng của chị, có thể chỉ là người “góp gạo thổi cơm chung” mà thôi. Hoa trái của sự quan tâm dành cho đối phương là sự đón nhận căn tính, là chấp nhận thực tại và sự hiện hữu của nhau. Vì lẽ đó, người phụ nữ đã nói với Đức Giêsu: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ” (Ga 4:19). Sau khi xây dựng được niềm tin dành cho nhau, Đức Giêsu dẫn người phụ nữ vào trong cuộc đối thoại sâu xa hơn, gần gũi hơn, đó là cuộc đối thoại đức tin.
Phản tỉnh bước thứ hai của bài học Truyền Giáo: Để có thể mở cửa tâm hồn của người bạn mới, bạn cần gõ cửa tâm hồn của họ trước. Để gõ cửa tâm hồn của họ, bạn cần xây dựng lòng tin tưởng. Nghĩa là, bạn hãy chứng minh cho họ thấy bạn là người đáng tin cậy, là chỗ dựa tinh thần của họ. Như thế, công việc bạn cần làm để xây dựng lòng tin chính là sự quan tâm của bạn dành cho họ. Bạn nên biết họ đang cần gì, họ thiếu thốn điều gì, gia đình và hoàn cảnh sống của họ ra sao, con cái họ ăn học thế nào, công việc mưu sinh của họ có bảo đảm không, sức khỏe của họ có ổn định không, v.v.. Có thể bạn không giúp họ cách trực tiếp, nhưng bạn có thể làm trung gian giúp họ có một cuộc sống tốt đẹp hơn, san sẻ tất cả những gì bạn có với mọi khả năng của bạn. Làm được điều này, bạn đang xây dựng lòng tin với họ cách vững chắc, bền lâu… như một câu ngạn ngữ của nước ngoài diễn tả về tình bạn: “Một người bạn đích thực là một người luôn có mặt trong những nhu cầu của bạn mình” (A friend in needs is a friend indeed). Một khi họ tin tưởng bạn, bạn có thể gõ cửa tâm hồn của họ và họ sẵn sàng mở cửa để bạn bước vào mảnh đất thánh của con người họ.
Các Kitô hữu phải hoạt động và cộng tác với mọi người khác để tổ chức đứng đắn những công việc kinh tế xã hội. Họ phải quan tâm đặc biệt đến việc giáo dục các thiếu nhi và thanh thiếu niên bằng các loại trường học khác nhau: các trường này không những phải được coi như phương tiện tuyệt hảo để huấn luyện và nâng cao giới trẻ Kitô hữu, mà đồng thời còn là một công cuộc phục vụ nhân loại hết sức giá trị – nhất là đối với các quốc gia đang phát triển – để nâng cao nhân phẩm và chuẩn bị những hoàn cảnh hợp nhân bản hơn. (Sắc lệnh “Ad Gentes“, 12)
3. Đối thoại đức tin (Ga 4:20-26)
Sau khi người phụ nữ Samari đặt tin tưởng vào Đức Giêsu, chị bắt đầu cởi mở hơn và thắc mắc về niềm tin tôn giáo: “Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa” (Ga 4:20). Lúc này Đức Giêsu khai mở niềm tin cho chị: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem…, [nhưng] thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4:21-23). Thật thế, một khi hai bên tin tưởng nhau, cuộc đối thoại trở nên phong phú và có điểm tới. Đức Giêsu đã giúp người phụ nữ tìm gặp chân lý và nhận biết đâu là Đấng mà chị nên tôn thờ. Truyền giáo là thế đó! Đối thoại đức tin là thế đó! Làm thế nào giúp người chưa biết Chúa được nhận biết Chúa, giúp người chưa tôn thờ vị thần đích thực được nhận biết vị Thần đích thực của họ là ai: “Người phụ nữ thưa [với Đức Giêsu]: ‘Tôi biết Đấng Mêxia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự’. Đức Giêsu nói: ‘Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây’ (Ga 4:25-26)”.
Phản tỉnh bước thứ ba của bài học Truyền Giáo: Khi tình bạn trở nên tin tưởng và gần gũi, việc đối thoại đức tin ắt sẽ diễn ra cách tự nhiên. Dù bạn của bạn là một người chưa theo tôn giáo nào, hoặc đã là Phật tử, hoặc đã theo đạo Tin Lành…, thì việc đối thoại đức tin cũng sẽ rất cởi mở, một khi đã có một tình bạn chân thành với nhau. Tôi xin đưa ra một dẫn chứng cụ thể để minh họa cho việc đối thoại này. Một ngày nọ, bạn đến thăm người bạn mới quen thân. Người này mời bạn dùng bữa cơm gia đình. Trước khi ăn cơm, bạn làm dấu thánh giá và âm thầm cầu nguyện, thậm chí khá sốt sắng cầu nguyện, người kia hầu chắc sẽ chú ý hành động kỳ lạ của bạn. Cứ tự nhiên, họ sẽ thắc mắc và hỏi bạn về ý nghĩa của hành động ấy. Khi bạn giải thích cho họ nghe về niềm tin của bạn trong việc bày tỏ thái độ biết ơn đối với Đấng đã ban cho bạn có hạt gạo như một hạt ngọc làm lương thực nuôi sống thân xác bạn, khi đó bạn đang thực hành bước thứ ba này là đối thoại đức tin. Có thể họ sẽ hỏi bạn nhiều điều về niềm tin của bạn. Có thể họ không hỏi nhiều, không chú ý về hành vi cầu nguyện trước bữa ăn của bạn. Tuy thế, bạn cứ kiên nhẫn, rồi họ sẽ thắc mắc và hỏi bạn nhiều điều khi bạn duy trì bước thứ hai trong mối tương quan tình bạn, khi bạn luôn sống tốt, sống Lời Chúa giữa mối tương quan này. Mặt khác, nếu họ không thắc mắc gì về đức tin của bạn, thì bạn nên chủ động thắc mắc về đức tin của họ. Sự thắc mắc của bạn chính là khởi điểm của việc đối thoại đức tin. Khi sự đối thoại đức tin ngày một sâu rộng và hài hòa, bạn có thể nghĩ đến giai đoạn thứ tư của việc truyền giáo.
Bất cứ nơi nào Thiên Chúa mở rộng cửa cho việc rao giảng mầu nhiệm Chúa Kitô thì người ta phải tin tưởng và bền chí loan báo cho hết mọi người biết Thiên Chúa hằng sống và biết Ðấng Thiên Chúa sai đến cứu chuộc mọi người là Chúa Kitô để những người ngoài Kitô giáo được Chúa Thánh Thần mở lòng tin vào Chúa mà tự do trở lại cùng Người, và trung thành gắn bó với Người; vì Người là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6), nên Người cho họ thỏa mãn mọi nguyện vọng thiêng liêng và còn ban cho dư đầy vô tận. (Sắc lệnh “Ad Gentes“, 13)
4. Mời gọi cùng nhau cầu nguyện và tìm hiểu đức tin của nhau (Ga 4:28-30)
Khi việc đối thoại đức tin diễn tiến suôn sẻ, thuận lợi, thì hoa trái sẽ đến theo sau. Hoa trái của việc đối thoại đức tin sẽ là: hoặc đối phương sẽ tôn trọng đức tin của bạn nhưng chưa thể sống cùng niềm tin với bạn, hoặc đối phương sẽ trở về và sống cùng niềm tin với bạn. Trong câu chuyện bên bờ giếng Giacóp, hoa trái của cuộc đối thoại đức tin là sự trở về với Chúa của người phụ nữ Samari. Chị đã để vò nước lại (Ga 4:28) và đi làm chứng cho đức tin của mình bằng cách mời gọi mọi người đến gặp gỡ Đức Giêsu. Hành động “để vò nước lại” của chị như diễn tả một sự trở về dứt khoát, một sức sống mới vừa đổ tràn vào tâm hồn chị. Chiếc vò cũ chỉ có thể chứa đựng “nước uống vào rồi lại khát” và một lịch sử cuộc đời đen tối. Bây giờ, người phụ nữ Samari đã có chiếc vò mới, chiếc vò của đức tin vào Đấng Kitô, của chân lý và sự thật, của sự sống sung mãn và của nguồn nước “uống vào sẽ không bao giờ khát nữa”.
Phản tỉnh bước thứ tư của bài học Truyền Giáo: Bạn có thể kết thúc việc đối thoại đức tin bằng lời mời gọi người bạn của mình tham gia một giờ cầu nguyện của bạn, hoặc của một nhóm bạn nào đó, hoặc tham dự Thánh Lễ, hoặc tham dự một dịp đại lễ của Đạo Công Giáo. Lúc này không còn một mình bạn là người truyền giáo nữa, mà là một cộng đoàn, là cả Giáo Hội đang cùng bạn truyền giáo, giới thiệu Chúa cho người bạn mới đến. Phần bạn, bạn hãy xin Chúa Thánh Thần làm việc mạnh mẽ trên người anh chị em này để họ có thể chia sẻ đức tin của họ và tìm hiểu đức tin của bạn. Nếu họ là người chưa đi theo tôn giáo nào, bạn có thể mời họ đến cộng đoàn cầu nguyện thường xuyên, hoặc gia tăng đối thoại đức tin với họ, để có thể tiến tới giai đoạn cao trào của việc truyền giáo, giai đoạn thứ năm.
Những người nhờ Giáo Hội được Thiên Chúa ban ơn tin Chúa Kitô phải được nhận vào lớp dự tòng bằng những lễ nghi phụng vụ; lớp dự tòng này không phải chỉ là trình bày tín lý và các giới răn, nhưng là huấn luyện một đời sống Kitô hữu đầy đủ và là thời gian tập sự được kéo dài thích đáng, để nhờ đó môn đệ liên kết với Chúa Kitô là Thầy mình. (Sắc lệnh “Ad Gentes“, 14)
5. Chào mừng gia nhập Hội Thánh qua các Bí tích Khai tâm Kitô giáo (Ga 4:39-42)
Sau khi nghe người phụ nữ Samari làm chứng về Đức Giêsu, dân chúng kéo đến gặp Ngài và xin Ngài ở lại với họ. Điều này diễn tả nhịp sống cầu nguyện liên lỉ của những người mới biết Chúa, mới tin Chúa. Càng ở lại với Chúa lâu giờ, càng cầu nguyện nhiều, đức tin của người mới tin theo Chúa sẽ mạnh mẽ hơn, xác quyết hơn, trưởng thành hơn: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4:42). Hoa trái của việc thường xuyên cùng nhau cầu nguyện, gặp gỡ Chúa và tìm hiểu đức tin mới mẻ giúp cho người mới biết Chúa có được kinh nghiệm thiết thân về Chúa, kiên vững trong đức tin và trở thành môn đệ đích thực của Đức Kitô.
Câu chuyện bên bờ giếng Giacóp tưởng chừng như ngắn ngủi, nhưng là một cuộc đối thoại đức tin tiệm tiến, là một quá trình truyền giáo bền bỉ, cần nhiều thời gian và kiên trì trong đối thoại, trong tương quan tình bạn, trong đời sống chứng tá cho Tin Mừng của người truyền giáo. Chúa Giêsu đã sống và đã làm như thế, và Ngài đã thu được nhiều hoa trái.
Phản tỉnh bước thứ năm của bài học Truyền Giáo: Đây là bước cuối cùng của sứ mạng truyền giáo, là hoa trái của quá trình truyền giáo, là giai đoạn chuẩn bị cho người bạn của mình gia nhập cộng đoàn những người tin theo Chúa. Như thế, bạn nên có những người cộng tác nhiệt thành, những cộng tác viên trong việc giảng dạy Giáo lý, để bàn giao công việc này cho họ. Nhờ đó, bạn có thời giờ để tiếp tục lên đường tiến tới những biên cương mới, gặp gỡ những người bạn mới, nhưng cũng không quên dành thời gian đồng hành với những người mới biết Chúa và quan tâm tới sự trưởng thành trong đời sống đức tin của họ, củng cố đức tin cho họ vào những dịp thuận tiện.
Lớp khai tâm Kitô giáo trong thời gian dự tòng đó không phải chỉ là việc riêng của các giảng viên giáo lý hay của các linh mục, mà còn là của cộng đoàn tín hữu, nhất là của những người đỡ đầu, để nhờ đó ngay từ đầu, các dự tòng cảm thấy mình thuộc về Dân Chúa. Và vì đời sống của Giáo Hội là đời sống tông đồ, nên các dự tòng cũng phải học biết cộng tác tích cực vào việc rao giảng Phúc Âm và xây dựng Giáo Hội bằng chứng tá đời sống và việc tuyên xưng đức tin. (Sắc lệnh “Ad Gentes“, 14)
Tạm Kết
Tóm lại, truyền giáo không dễ và cũng chẳng khó. Khó hay dễ là tùy thuộc vào bản thân của bạn. Bạn đã chuẩn bị kỹ lưỡng những hành trang cần thiết để lên đường hay chưa, như con người của Mẹ Maria được diễn tả trong trình thuật Truyền Tin và thăm viếng bà Isave (Lc 1:26-56) – mẫu gương của người truyền giáo sống động – luôn biết lắng nghe và suy đi nghĩ lại Lời Chúa, được tràn đầy Thánh Thần, mau mắn thi hành ý Chúa, sống đơn giản và lẹ làng lên đường đem Chúa đến với mọi loài thụ tạo.
Nói cách khác, để chuẩn bị lên đường truyền giáo và trở thành một người thợ lành nghề trên cánh đồng truyền giáo, thiết tưởng mỗi người chúng ta cần có một đời sống nội tâm trưởng thành và lành mạnh, một đời sống cầu nguyện chuyên cần, không cậy dựa vào sức riêng nhưng bám vào Chúa và để Chúa Thánh Thần dẫn dắt, kinh nghiệm thâm sâu về Đức Kitô, học hỏi và tuân thủ các kỹ năng truyền giáo để có thể giới thiệu Chúa cho những người chưa nghe biết Tin Mừng. Đây chính là phong thái cần có của người truyền giáo và là điều kiện cũng như phương tiện giúp chúng ta lao tác trên cánh đồng của Chúa mà không e ngại thành công hay thất bại, vì chúng ta chỉ là cộng tác viên của Chúa Thánh Thần, là khí cụ để Thiên Chúa dùng phục vụ cho thánh ý của Người, là người tiếp nối sứ vụ còn dang dở của Chúa Giêsu. Do đó, không có thành công hay thất bại trong việc truyền giáo, chỉ có lòng tín thác và kinh nghiệm của Chúa khi lao tác trên cánh đồng truyền giáo mà thôi.
“Tôi muốn có một Hội Thánh bị bầm dập, bị tổn thương và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường, còn hơn một Hội Thánh bệnh hoạn vì đóng cửa và nhàn rỗi bám víu vào sự an toàn của riêng mình.” (Trích Tông Huấn “Niềm Vui Tin Mừng”, 49)
“Niềm Vui Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và toàn thể đời sống của những người gặp gỡ Chúa Giêsu, những người để cho mình được Người cứu độ và giải thoát khỏi tội lỗi, sầu khổ, trống rỗng nội tâm và cô lập.” (Trích Tông Huấn “Niềm Vui Tin Mừng”, 1)
—aVw—
LỆNH CỦA CHÚA
Lạy Chúa Giêsu,
trước khi về trời,
Ngài đã để lại cho chúng con một lệnh truyền:
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16:15).
Lệnh truyền ấy vẫn còn vang vọng đến ngày nay và ngày càng khẩn thiết hơn.
Thế mà, cho đến nay vẫn còn nhiều nơi và nhiều người
chưa nghe biết Tin Mừng của Chúa, chưa tin theo Chúa,
chưa trở thành công dân của Nước Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con khát khao được cộng tác với Chúa,
tiếp nối công trình tái tạo và cứu chuộc còn dang dở của Chúa.
Xin Chúa giúp chúng con hăng say cầu nguyện và kết hiệp với Chúa
như gương của Mẹ Maria,
để chúng con nhiệt thành lên đường đến với lương dân,
vì chúng con sẽ trở nên những kẻ vô dụng và khốn khổ
nếu chúng con ngại ngùng lên đường truyền giáo,
như Thánh Phaolô đã từng thổ lộ:
“Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9:16)
và “Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo Tin Mừng!” (Rm 10:15).
Xin Mẹ Maria cùng đồng hành với chúng con trên bước đường truyền giáo
như Mẹ đã từng đồng hành với Chúa Giêsu khi xưa vậy. Amen.
Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời,
Ngày 15/8/2015
Chú thích: các đoạn Kinh Thánh được trích từ “Kinh Thánh Trọn Bộ” của Nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét