VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Phêrô Borie Cao, Giám mục
Ngày 24 tháng 11
Tin mừng Gioan 17,11b-19
11 Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế
gian; phần con, con đến cùng Cha.
12 Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh.13 Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói những điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con.14 Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian.15 Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần.16 Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian.17 Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.18 Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian.19 Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.
11 And now I will no longer be in the world, but they are in the world, while I am coming to you. Holy Father, keep them in your name that you have given me, so that they may be one just as we are.
12 When I was with them I
protected them in your name that you gave me, and I guarded them, and none of
them was lost except the son of destruction, in order that the scripture might
be fulfilled.
13 But now I am coming to you. I
speak this in the world so that they may share my joy completely.
14 I gave them your word, and the
world hated them, because they do not belong to the world any more than I
belong to the world.
15 I do not ask that you take them
out of the world but that you keep them from the evil one.
16 They do not belong to the world
any more than I belong to the world.
17 Consecrate them in the truth.
Your word is truth.
18 As you sent me into the world,
so I sent them into the world.
19 And I consecrate myself for
them, so that they also may be consecrated in truth.
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề của hình này là gì ?
………………………………………………….
* Bạn hãy viết câu Tin mừng thánh Gioan 17,19
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. Đức
Giêsu nói : Con đã canh giữ, và không 1 ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư
hỏng, để ứng nghiệm lời gì ? (Ga 17,12)
a. Thiên Chúa nói với mọi người
b. Kinh Thánh
c. Các tông đồ
d. Thánh Phaolô
a2. Đức Giêsu nói những điều này khi còn ở thế gian, để các môn đệ được
hưởng trọn vẹn điều gì của Người ? (Ga 17,13)
a. Bình an
b. Sung sướng
c. Niềm vui
d. Thoải mái
a3. Đức Giêsu : Con đã làm gì cho họ lời của Cha ?(Ga 17,14)
a. Giải thích
b. Truyền lại
c. Lưu giữ
d. Bảo tồn
a4. Đức Giêsu cầu nguyện : Con không xin Cha cất họ khỏi đâu nhưng xin Cha
gìn giữ họ khỏi ác thần ? (Ga 17,15)
a. Quyền lực
b. Vua chúa
c. Thế gian
d. Ma quỷ
a5. Đức Giêsu xin Cha lấy sự thật mà làm gì cho họ ? (Ga
17,17)
a. Nâng đỡ
b. Cầu bầu
c. Che chở
d. Thánh hiến
B.
Giám mục Phêrô Cao (P.Rose Dumoulin Borie)
b1. Ðức Cha Phêrô Cao (Pierre Rose Dumoulin Borie), Sinh năm 1808 tại
Beynat, Tulle, Pháp, Giám mục Hội Thừa Sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài, chịu
tử đạo dưới triều vua nào ?
a. Vua Tự Đức (1847-1883)
b. Vua Thiệu Trị (1841-1847)
c. Vua Minh Mạng (1820-1841)
d. Vua Cảnh Thịnh (1782-1802)
b2. Ðức Cha Phêrô Cao (Pierre Rose Dumoulin Borie) chịu tử đạo thế nào ?
a. Bị xử giảo
b. Bị xử trảm
c. Bị thiêu sống
d. Xử lăng trì
b3. Ðức Cha Phêrô Cao (Pierre Rose Dumoulin Borie) chịu tử đạo tại Đồng Hới vào năm nào ?
a. Năm 1835
b. Năm 1838
c. Năm 1858
d. Năm 1862
b4. Ðức Cha Phêrô Cao (Pierre Rose Dumoulin Borie) được Đức Giáo
Hoàng nào tôn phong lên bậc chân phước (1900) ?
a. Đức Giáo hoàng Piô X
b. Đức Giáo hoàng Lêô XIII
c. Đức Giáo hoàng Piô XII
d. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII
b5. Thánh Phêrô
Cao (Pierre Rose Dumoulin Borie) được mừng kính vào ngày nào ?
a. Ngày 12 tháng 06
b. Ngày 21 tháng 12
c. Ngày 24 tháng 11
d. Ngày 11 tháng 03
III.
Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Ai đã ghét các môn đệ ? (Ga
17,14)
02. Đức Giêsu xin Cha lấy sự thật mà làm
gì cho họ ? (Ga 17,17)
03. Đức Giêsu sẽ làm gì để không 1
ai hư mất trừ đứa con hư hỏng ? (Ga 17,12)
04. Đức Giêsu nói những điều này khi còn ở thế gian, để các môn đệ được
hưởng trọn vẹn điều gì của Người ? (Ga 17,13)
05. Đức Giêsu đã canh giữ và không
1 ai trong các môn đệ phải thế nào ? (Ga 17,12)
06. Đức Giêsu xin Cha làm gì cho
các môn đệ khỏi ác thần? (Ga 17, 15)
07. Đức Giêsu xin Cha gìn giữ các môn đệ
khỏi ai ? (Ga 17,15)
Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì ?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
“Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con,
để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến”.
Tin Mừng thánh Gioan 17,19
Lời giải đáp VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Phêrô Borie Cao, Giám mục
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề
Thánh Phêrô Borie
Cao
* Tin mừng thánh Gioan 17,19
“Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con,
để nhờ sự thật, họ
cũng được thánh hiến”.
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. b. Kinh
Thánh (Ga 17,12)
a2. c. Niềm vui (Ga 17,13)
a3. b. Truyền lại (Ga 17,14)
a4. c. Thế gian (Ga 17,15)
a5. d. Thánh
hiến (Ga 17,17)
B. Giám mục Phêrô Cao (P.Rose Dumoulin Borie)
b1. c. Vua Minh Mạng (1820-1841)
b2. b. Bị xử trảm
b3. b. Năm 1838
b4. b. Đức Giáo hoàng Lêô XIII
b5. c. Ngày 24 tháng 11
III.
Ô CHỮ
01. Thế gian (Ga 17,14)
02. Thánh
hiến (Ga 17,17)
03. Canh giữ (Ga 17,12)
04. Niềm vui (Ga
17,13)
05. Hư mất (Ga
17,12)
06. Gìn giữ (Ga 17,15)
07. Ác
thần (Ga 17,15)
Hàng dọc : Giám Mục
Gb. Nguyễn Thái Hùng
XIN XEM THÊM TẠI ĐÂY
++++++++++++++++++++++++++++++++
Phêrô Borie Cao (1808 – 1838)
Ðức Cha Phêrô Cao (Pierre Rose Dumoulin Borie), Sinh
năm 1808 tại Beynat, Tulle, Pháp, Giám mục Hội Thừa Sai Paris, địa phận Tây
Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 24/11/1838 tại Ðồng Hới dưới đời vua Minh Mạng, được
phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 24/11.
Giám mục Botie Cao chưa làm Giám mục đến một ngày,
nhưng ngài xứng đáng với tước hiệu đó. Căn cứ vào khả năng và nhiệt tình. Đức
cha Havard Du đã chọn ngài làm Giám mục phó có quyền kế vị. Cha Cao nhận được
giấy quyết định của Tòa Thánh đang khi ở trong tù, và vì thế chưa kịp thụ
phong. Tên thường gọi của ngài là Dumoulin do bạn bè đặt (tiếng Pháp Dumoulin
là máy xay lúa). Thế nhưng danh xưng Dumoulin đã đi vào lịch sử với hai tước hiệu
vinh quang : Giám mục và tử đạo. Quả thật đối với Chúa, giá trị con người là
nhân đức và thiện chí, dù thuộc giai cấp nào, mọi người đều được kêu gọi nên
thánh.
Phêrô Borie sinh ngày 20.02.1808, tại Beynat miền
Correze, thân phụ tên là Guillaume Borie, thân mẫu là Rose Borie. Thế nhưng vì
song thân làm nghề xay lúa, bạn bè hàng xóm quen gọi cậu là Dumoulin. Sinh trưởng
trong một gia đình tầm thường như vậy, nên thuở bé Dumoulin có tính cẩu thả.
Cha mẹ ép cậu vào chủng viện, cậu nghe theo nhưng chẳng hứng thú gì, và vi phạm
kỷ luật liên tục. Cha giám đốc phải sử dụng nhiều hình thức xử phạt cũng chẳng
làm cậu khá hơn được. Tuy vậy, Thiên Chúa đã can thiệp vào cuộc đời con người
Ngài tuyển chọn.
Bất ngờ Borie bị một cơn sốt trầm trọng. Trên giường
bệnh, cậu có cơ hội suy tư về đời mình. Một hôm đang khi đọc cuốn niên giám của
trường Thừa Sai ghi lại cuộc đời các vị truyền giáo, cậu thấy một tia sáng chói
lòa trong tâm hồn. Thế là như thánh Phaolô trên đường Damas xưa, cuộc đời cậu
Borie từ nay chỉ lấy Đức Giêsu làm lẽ sống, từ đó cậu siêng năng đến gặp Chúa
trong Thánh Thể. Và trong những giờ gặp gỡ ấy, cậu nghe như Ngài kêu gọi cậu
lãnh nhận một sứ mạng cao quý hơn: Sứ mạng truyền giáo.
Trong những giây phút nguyện cầu linh thiêng ấy,
Borie như thấy Chúa nói với mình về vùng Viễn Đông xa xăm, về những người ở đây
còn chưa biết Chúa, về những thừa sai đã đến đó rao giảng Tin Mừng và hỏi cậu
có yêu Ngài đủ để ra đi như thế không. Câu trả lời của Borie đã được chính cậu
ghi lại trong một buổi tận hiến cho Đức Maria :
"Lạy Mẹ của con ! Xin hãy tin nơi con, khi con
trưởng thành, con sẽ hiến toàn thân con cho việc cảm hóa những người chưa tin.
Xin Mẹ giúp con đi theo con đường và tinh thần của ơn kêu gọi đó. Xin cho con
được đau khổ vì danh Đức Kitô, được đón nhận ngành lá tử đạo và đến bến vinh
quang".
Đức Mẹ như đã nhận lời cậu. Càng ngày Borie càng
cương quyết hơn với giấc mơ truyền giáo. Để giấc mơ có thể thành hiện thực, cậu
xin chuyển qua chủng viện Hội Thừa Sai Paris. Tại đây cậu kiên trì học tập,
lãnh chức phó tế năm 1829, rồi năm sau thụ phong linh mục (21.11.1830). Ngày
01.12.1830, vị tân linh mục bắt đầu xuống tàu khởi hành đến Viền Đông. Thế
nhưng vì bão tố phải dừng lại ở Macao khá lâu, ngày 15.5.1832, cha Borie mới tới
được Việt Nam.
Nửa năm sau, ngày 06.1.1833, vua Minh Mạng ra chiếu
chỉ cấm đạo trên toàn quốc. Các thừa sai bị lùng bắt gắt gao, lên phải di chuyển
liên tục, nay nhà này, mai nhà khác. Ngày 24.03, cha Borie kể trong thư là
"Tôi đã phải đổi chỗ ở đến 17 lần". Nhưng năm sau, mỗi năm cha đổi chỗ
khoảng hai đến sáu lần nữa. Nét đặc biệt của cha Dumoulin là hòa mình rất nhanh
với phong tục địa phương. Ngày đầu tiên, cha đã có thể ăn nước mắn cách ngon
lành (điều này rất khó với người Châu Âu), cha học tiếng Việt cách dễ dàng và
phát âm khá chính xác. Nhờ bản tính bình dân vui tươi và hoạt bát, cha nhanh
chóng lấy được cảm tình của các tín hữu và với cả lương dân nữa.
Năm 1836, khi đọc những điều vu cáo trong chiếu chỉ
của vua Minh Mạng, cha Borie Cao định viết một lá thư điều trần, nhưng các thừa
sai cản lại, vì nói là vô ích thôi. Năm 1838, sau khi giết thừa sai Jaccard
Phan, vua Minh Mạng vẫn chưa thỏa mãn. Ông cho lệnh tiếp tục truy tầm cha
Candalh Kim, Giám đốc chủng viện Di Loan. Ngày 02.7, khi quan quân bắt linh mục
Khoa thì bắt được hai thày giảng Đức và Khang. Thày Khang lúc bị tra tấn quá
đau, đã khai rằng có một thừa sai Châu Âu ở Bố Chính, thủ phủ của Nghệ An. Người
bị tiết lộ tung tích đó là cha Cao, không phải là cha Candalh. Dựa vào lời thày
Khang, quân lính bủa vây khắp vùng Bố Chính, bắt bớ nhiều tín hữu rồi đe dọa,
tra tấn và dụ dỗ, để tìm cho ra chỗ ẩn của vị linh mục.
Giai đoạn này cha Cao không thể ở nhà nào được đến
vài giờ, luôn luôn ngài phải di động. Các tín hữu có người muốn cho trú, nhưng
lại sợ người khác khi bị đánh đập, sẽ tố cáo họ. Cuối cùng ngày 13.7, cha Cao
đành xuống một thuyền nhỏ chèo ra khơi, chờ mong cuộc lùng bắt lắng dịu. Nhưng
trời bỗng nổi cơn giông bão, dồn ghe của cha tấp vào bờ. Cha nghĩ rằng đây là dấu
Chúa muốn mình ở lại, cha bỏ ghe trở lên đất liền, và ẩn núp dười một hố sâu có
cây cối tre phía trên.
"Các anh đi tìm ai ?"
Một thiếu nữ 16 tuổi bị bắt và bị tra khảo. Dù biết
chỗ cha ẩn trốn, cô cắn răng chịu đựng, không tiết lộ điều mình biết. Nhưng bố
cô không dằn lòng được khi thấy con mình bị đánh đập, đã chỉ chỗ cho lính đến
chỗ nơi ẩn trốn của ngài. Dầu đang giữa đêm, quân lính cũng kéo nhau rất đông
đi bắt vị thừa sai. Cha Cao nghe rất rõ tiếng chân của đám lính, biết rằng
không thể thoát được nữa, cha liền lao lên và hỏi : "Các anh đi tìm ai
?". Tất cả đám lính đều ngỡ ngàng trông thấy một bóng đen to lớn từ dưới đất
chui lên, họ cứ tưởng là ma, nên hoảng sợ không dám hé môi. Lát sau, khi lấy lại
bình tĩnh, biết là linh mục, họ yêu cầu cha ngồi xuống, và cha Cao nhẹ nhàng ngồi
xuống. Ngài muốn bước vào cuộc hiến tế bằng một thái độ vâng phục hoàn toàn.
Thày Tự thấy cha bị bắt cũng vội chạy đến xưng là đệ
tử của cha. Cha định không nhận, nhưng thày khẩn khoản : "Xin cha cho con
theo cha đến cùng". Cha Cao nghe thày xin thế thì xúc động, ngài tháo chiếc
khăn quàng, xé một mảnh trao cho người môn sinh và nói: "Cầm lấy, con hãy
giữ nó làm bằng chứng cho lời con đã hứa". Thày Tự đã giữ mãi miếng vải đó
trong những ngày tháng cùng bị giam với cha. Sau này, thày đã viết lại cuộc tử
đạo đau thương của Tôn Sư mình. Và cuối cùng, với mảnh vải như kỷ vật giao ước,
thày Tự đã theo gót người cha kính yêu: hy sinh mạng sống vì Đức Kitô ngày
01.7.1840.
Tại Đồng Hới, cha Cao phải ra tòa chung với cha Điểm
và cha Khoa. Quan hỏi: "Đạo trưởng Cao, vua đã cấm Gia Tô. Nếu ông bước
qua Thập Giá, ta sẽ thả ông về ngay". Cha trả lời: "Thà tôi chết ngàn
lần còn hơn". Quan hỏn tiếp: "Tại sao ông không về nước mà giảng, ở
đây làm gì để phải trốn tránh hết chỗ này đến chỗ khác?". Cha đáp:
"vua cấm đạo sau khi tôi đã đến nước này, từ đó vua cấm tàu Au Châu cập bến
Việt Nam thì làm sao tôi có thể về được". Quan lại hỏi: "Ông đã ở nhà
những ai ?". Cha trả lời: "Tôi đã bị quan bắt, tôi xin chịu cực hình
một mình tôi thôi". Quan liền ra lệnh đánh cha 30 roi, lính nọc cha ra,
đánh cho đủ số. Tuy rất đau đớn, cha Cao vẫn không kêu than một lời, quan hỏi
ngài có đau không, cha đáp: "Tôi cũng bằng xương bằng thịt như ai khác, lẽ
nào không đau. Nhưng mặc kệ, trước và sau trận đánh tôi vẫn thấy thoải
mái".
Quan đành giải cha về ngục, hôm khác, quan bắt cha
chứng kiến cảnh tra tấn thày Tự, nhưng đến khi thẩm tra lại, ông gọi cha Cao ra
đối chất: - Tại sao ông cứng đầu thế?
- Thưa, câu hỏi của ngài tôi không trả lời khác hơn
được.
- Đã vậy ngày mai ông sẽ chịu 100 roi.
- Thưa dù đánh 300 roi tôi cũng chịu, chỉ xin một điều
là đừng hỏi tôi về dân chúng.
- Thế nếu ông phải ra mắt vua, đứng bên lò lửa cháy
bừng, với những chiếc kìm nung đỏ sắt lóc thịt ông ra, liệu ông còn im lặng được
không?
- Thưa, chừng đó sẽ biết, tôi không dám quá tự phụ về
mình.
Biết không thể làm cha đổi ý, quan liền nghị án gởi
về kinh đô. Cha Cao bị giam chung với hai cha Điểm và Khoa, ba vị linh mục hằng
ngày cùng nhau đọc kinh Mân Côi và hát vang bài "Ave Maria Stella":
Kính chào Mẹ Maria là Sao Mai rực rỡ, xin chuyển cầu cho chúng con". Mấy
ngày đầu, vì chưa tìm ra tràng hạt, ba vị nhổ lông quạt để đếm kinh. Ba cha phó
thác đời mình cho nữ vương các linh mục : "Như xưa Mẹ đã dâng Con yêu quý
trong đền thờ, nay cũng xin hiến dâng chúng con trong cuộc tử đạo đầy hồng
phúc".
Trong những ngày tù tội, cha Cao nhận được văn thư
Tòa Thánh gởi tới, đặt ngài làm Giám mục Giám mục hiệu tòa Acanthe và làm Đại
diện Tông tòa coi sóc giáo phận Tây Đàng Ngoài, thay thế Đức cha Harvard Du. Thế
nhưng, vì đang bị cầm tù, ngài không thể tiến hành nghi lễ thụ phong. Chức vụ
đó sau này được trao cho cha Retord Liêu.
Ngày 24.11.1838, quan vào ngục tuyên đọc bản án xử
trảm. Đức cha Cao yên lặng lắng nghe sắc chỉ của nhà vua, rồi nói với quan rằng
: "Thưa quan, từ bé đến nay tôi chưa lạy ai, vì bên Âu Châu chúng tôi, đó
là hành vi kính trọng chỉ dành cho Đấng Tối Cao. Nhưng điều tôi vừa nghe làm
tôi quá vui mừng, xin được bày tỏ lòng tri ân của tôi theo kiểu Đông
Phương".
Nói xong, ngài quỳ xuống định lạy, nhưng viên quan
quá xúc động, không thốt lên lời, vội cản ngăn ngài lại.
Lúc dẫn đi xử, Đức cha Cao đi dầu, cổ mang gông tay
cầm tràng hạt, vừa đi vừa đọc kinh. Một viên quan khác, ít thiện cảm với người
Công Giáo đi lại gần, hỏi Đức cha có sợ chết không. Ngài trả lời : "Tôi
đâu phải là quân phiến loạn hay quân trộm cướp mà sợ chết. Tôi chỉ sợ một mình
Thiên Chúa. hôm nay tôi chết, mai sẽ đến phiên ông".
Nghe thế, viên quan thét lên: "Láo quá! Tát cho
nó vài cái". Nhưng không người lính nào tuân lệnh ông. Đức cha nói với
quan : "Nếu lời đó làm phiền ông thì xin ông tha lỗi".
Tại pháp trường Đồng Hới, hai cha Khoa và Điểm bị xử
giảo trước. Đến lượt xử chém Đức cha cao, người lý hình rất kính phục ngài, phải
uống rượu để lấy bình tĩnh, không ngờ vì quá ché, anh đã chém trật vào tai, hàm
và vai Đức cha. mãi đến nhát thứ bẩy, đầu vị thừa sai mới lìa khỏi cổ. Thân xác
ngài được chôn cất ngay tại chỗ, năm sau mới được các tín hữu cải táng về họ Hướng
Phương.
Năm 1843, hài cốt Đức cha Cao được đưa về chủng viện
Hội Thừa Sai Paris, đặt cạnh hài cốt các thừa sai Gagelin Kính và Jarcard Phan.
Đức Lêo XIII suy tôn Giám mục Borie Cao lên bậc Chân
Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc
Hiển thánh.
Nguồn từ Thư Viện Đa Minh
Trường
Thi Tử Đạo
Phêrô Borrie Cao giám mục
Năm Mậu Thìn (1808) quê thực Paris
Trốn hầm nghe lính hết đi
Bò lên khỏi miệng lính thì tưởng ma
Vì lúc đó đang là nhem tối
Cha bước lên hỏi hối tìm ai
Chúng tôi tới bắt trói Ngài
Giải về Ðồng Hới, quan sai nhốt tù
Cha bị nhốt trong khu ngục tối
Thì sắc phong tiếp nối đã ban
Cha Cao Giám Mục huy hoàng
Quan phòng của Chúa, lên hàng Chủ Chăn
Lãnh nhận chức khó khăn trong ngục
Suốt ngày đêm tiếp tục cầu xin
Cho con lối Chúa dõi tìm
Gông xiềng phó thác, Trái Tim nhân lành
Giải pháp trường ngoại thành Ðồng Hới
Ngài nguyện cầu cho tới lìa đời
Lý hình đã tiến tới nơi
Vung gươm bảy nhát, mới rơi nổi đầu
Tại pháp trường đào sâu chôn cất
Cả giáo dân hiệp nhất đưa về
Hướng Phương giáo xứ nhà quê
Nơi đây an táng, trọn bề chứng nhân
Một đôi nét về phần tiểu sử
Nơi nước sanh ở xứ Paris
Học hành cũng chẳng muốn đi
Ép vào chủng viện, cậu thì chẳng ham
Kỷ luật phạm đã làm Giám đốc
Bị nhiều lần cấp tốc sửa sai
Quan phòng có Chúa quản cai
Thụ phong Linh mục, Thừa sai lên đàng
Phúc tử đạo tiếng vang Mậu Tuất (1838)
Tuổi thanh xuân đẹp nhất bên Cha
Canh Tý (1900) Toà Thánh Roma
Suy tôn Chân Phước hoan ca Nước Trời
Lời
bất hủ: Ra trước công đường, quan đối chất với Ðức Cha:
Hỏi: Tại sao ông cứng đầu thế?
Ðáp: Thưa, câu hỏi của ngài tôi không trả lời khác
hơn được.
Hỏi: Ðã vậy ngày mai ông sẽ chịu 100 roi
Ðáp: Thưa dù đánh 300 roi tôi cũng chịu, chỉ xin một
điều là đừng hỏi tôi về dân chúng.
Hỏi: Thế ông phải ra mắt vua, đứng bên lò lửa cháy bừng,
với những chiếc kìm nung đỏ sắp lóc thịt ông ra, liệu ông còn im lặng được
không?
Ðáp: Thưa chừng đó sẽ biết, tôi không dám quá tự phụ
về mình. Khi Ðức Cha nghe án của vua không quỳ, rồi nói với quan rằng:
"Thưa quan, từ bé đến nay tôi chưa lạy ai, vì bên Âu Châu chúng tôi, đó là
hành vi kính trọng chỉ dành cho Ðấng Tối Cao. Nhưng điều tôi vừa nghe, làm tôi
vui mừng quá, xin được bầy tỏ lòng tri ân của tôi theo kiểu Ðông Phương. Lúc dẫn
Ðức Cha đi xử, có một viên quan lại gần hỏi Ðức Cha rằng: "Ông có sợ chết
không?". Ðức Cha đáp: "Tôi đâu phải là quân phiến loạn, hay quân trộm
cướp mà sợ chết. Tôi chỉ sợ một mình Chúa. Hôm nay tôi chết, mai sẽ đến lượt
ông".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét