VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Phêrô Nguyễn
Văn Hiếu, thầy giảng
Ngày 28 tháng 04
Tin Mừng thánh Gioan
12,24-26
24 Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết
đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt
khác.25 Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình
ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.26 Ai phục vụ Thầy, thì hãy
theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha
của Thầy sẽ quý trọng người ấy."
25 Whoever loves his life loses it, and whoever hates his life in this
world will preserve it for eternal life.
26 Whoever serves me must follow me, and where I am, there also will my
servant be. The Father will honor whoever serves me.
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề của hình này là gì ?
………………………………………………….
* Bạn hãy viết câu Tin mừng thánh Gioan 12,26b
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. Hạt lúa thì được gieo vào đâu ? (Ga 12,24)
a. Bờ hồ
b. Vườn nho
c. Lòng đất
d. Cả a, b và c đúng
a2. Ai quý điều gì của mình thì sẽ mất ? (Ga 12,25)
a. Của cải
b. Con cái
c. Vinh hoa
d. Mạng sống
a3. Ai phục vụ thầy thì làm gì ? (Ga 12,26)
a. Hãy theo thầy
b. Hãy tuân giữ các điều răn của thầy
c. Hãy vác thập giá mình theo thầy
d. Hãy vững tin, vì thầy đã thắng thế
gian
a4. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ có thái độ nào với người
ấy ? (Ga 12,26)
a.
Yêu thương
b.
Quý trọng
c.
Tha thứ
d.
Chiều chuộng
a5. Ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại
được cho điều gì ở đời đời ? (Ga 12,25)
a.
Niềm vui
b.
Ơn cứu độ
c.
Sự sống
d.
Linh hồn
B.
Thầy giảng Phêrô Nguyễn Văn Hiếu
b1. Thầy giảng Phêrô Nguyễn Văn Hiếu, Sinh năm 1783 tại Ðồng Chuối,
Ninh Bình, chịu tử đạo dưới triều vua nào ?
a. Vua Tự Đức (1847-1883)
b. Chúa Trịnh Sâm (1767-1782)
c. Vua Minh Mạng (1820-1841)
d. Vua Cảnh Thịnh (1782-1802)
b2. Thầy giảng Phêrô Nguyễn Văn Hiếu chịu tử đạo thế nào ?
a. Bị xử giảo
b. Bị xử trảm
c. Bị thiêu sống
d. Bị xử lăng trì
b3. Thầy giảng Phêrô Nguyễn Văn Hiếu chịu tử đạo tại Ninh Bình
vào năm nào ?
a. Năm 1773
b. Năm 1840
c. Năm 1857
d. Năm 1862
b4. Thầy giảng Phêrô Nguyễn Văn Hiếu được Giáo hoàng nào tôn phong
lên bậc chân phước (1900) ?
a. Đức Giáo hoàng Piô X
b. Đức Giáo hoàng Lêô XIII
c. Đức Giáo hoàng Piô XII
d. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII
b5. Thánh Phêrô
Nguyễn Văn Hiếu được mừng kính vào ngày nào ?
a. Ngày 06 tháng 06
b. Ngày 28 tháng 04
c. Ngày 17 tháng 09
d. Ngày 26 tháng 05
III.
Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Cái gì được gieo vào lòng đất mà
không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình ? (Ga 12,24)
02. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ
mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự
sống ... ... ... . (Ga 12,25)
03. Ai yếu quý điều gì của mình thì sẽ
mất ? (Ga 12,25)
04. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ có thái
độ nào với người ấy ? (Ga 12,26)
05. Hạt lúa được gieo vào đâu ? (Ga
12,24)
06. Ai … … … Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy. (Ga 12,26)
Hàng
dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì ?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
“Ai phục vụ Thầy, thì
hãy theo Thầy;
và Thầy ở đâu, kẻ phục
vụ Thầy cũng sẽ ở đó.”
Tin mừng thánh Gioan
12,26a
Lời giải đáp VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Phêrô Nguyễn
Văn Hiếu, thầy giảng
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề
Thánh Phêrô Nguyễn
Văn Hiếu
* Tin mừng thánh Gioan 12,26b
“Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy;
và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.”
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. c. Lòng đất (Ga 12,24)
a2. d. Mạng sống (Ga 12,25)
a3. a. Hãy theo thầy (Ga 12,26)
a4. b. Quý
trọng (Ga 12,26)
a5. c. Sự
sống (Ga 12,25)
B.
Thầy giảng Phêrô Nguyễn Văn Hiếu
b1. c. Vua Minh Mạng (1820-1841)
b2. b. Bị xử trảm
b3. b. Năm 1840
b4. b. Đức Giáo hoàng Lêô XIII
b5. b. Ngày 28 tháng 04
III.
Ô CHỮ
01. Hạt
lúa (Ga 12,24)
02. Đời
đời (Ga 12,25)
03. Mạng
sống (Ga 12,25)
04. Quý
trọng (Ga 12,26)
05. Lòng
đất (Ga 12,24)
06. Phục vụ (Ga 12,26)
Hàng dọc : Tín
Thác
Gb.
Nguyễn Thái Hùng
XIN XEM THÊM TẠI ĐÂY
++++++++++++++++++++++++++++++++
Phêrô Nguyễn Văn Hiếu (1777-1840)
Phêrô Nguyễn Văn Hiếu, Sinh năm 1777 tại Ðồng Chuối,
Ninh Bình, Thầy giảng, bị xử trảm ngày 28/04/1840 tại Ninh Bình dưới đời vua
Minh Mạng cùng với Thánh Gioan B. Đinh Văn Thành và Thánh Phaolô Khoan vì trực
thuộc Hội Thừa Sai Balê. Đức Lêo thứ XIII suy tôn Phêrô Nguyễn Văn Hiếu lên bậc
chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các
ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 28/04.
Lời cảm tạ
Tâu thượng đế,
Này thần dân xin hát mừng trước bệ
Tuyên xưng Ngài là Chúa Tể càn khôn…
Suy tôn Chúa bậc tông đồ hợp xướng,
Tán tụng Ngài bao thế hệ tiên tri.
Đoàn tử đạo quang huy hùng dũng,
Máu đào đổ ra minh chứng về Ngài…
Đó là lời kinh TE DEUM lời kinh tạ ơn mà cha khoan
và hai thày Hiếu, Thành đã hát vang lên trong ngục, cũng như trên đường ra pháp
trường. Đó là lời kinh đem lại phấn khởi cho những ai nghe được. Đó là tiếng
hát của Giáo Hội sơ khai, khi cuộc bách hại 300 năm chấm dứt, nay lại vang lên
trên môi miệng các vị tử đạo Việt Nam, vượt thấu chín tầng mây, chấp cánh cho
các ngài bay về hợp đoàn với muôn thần thánh trên Thiên Quốc.
Định mệnh nối kết ba con người
Phaolô Phạm Khắc Khoan sinh năm 1771 tại làng Bồng Hải,
tỉnh Ninh Bình, thuộc giáo phận Tây Đàng Ngoài. Sau khi thụ phong linh mục, cha
phụ trách xứ Kẻ Vịnh, rồi xứ Phúc Nhạc, nơi đông dân cư nhất trong tỉnh. Cha
Khoan rất hăng say hoạt động tông đồ, ngoài xứ chính ra cha còn phụ trách thêm
hai họ Đông Biên và Tôn Đạo. Mỗi tháng Ngài đều đến các họ lẻ dâng lễ, giải tội
và khích lệ giáo hữu sống đạo đức gương mẫu hơn. Mỗi lần đi như vậy cha thường
dẫn theo một vài thày giảng để giúp dạy giáo lý và tiếp xúc sâu xát hơn với quần
chúng. Năm 1837, có hai thày cùng đi với cha về giúp họ Đông Biên là thày Phêrô
Nguyễn Văn Hiếu 60 tuổi, người làng Đồng Chuối,và thày Gioan Baotixita Đinh Văn
Thành, 41 tuổi, gốc Luốn khê (Phát Diệm). Trên đường trở về, cả ba cha con bị bắt
và bị giải về Ninh Bình. Khi đó cha Khoan đã 66 tuổi.
Trước lời đường mật
Vì kính trọng cha tuổi cao lại có tướng người phúc hậu,
một hôm quan Tổng trấn mời ngài đến và nói: "Ta muốn kết thân với ông. Ta
chỉ muốn tìm cách cứu mạng ông thôi. Xin ông chịu khó chấp nhận bước qua Thập
Giá". Cha trả lời : "Mấy tháng qua ở trong tù, tôi đã suy tính kỹ lắm
rồi, nhưng càng nghĩ tôi càng xác tín hơn, càng cương quyết giữ vững đức tin
cho đến chết". Rồi cha kể lại chuyện xảy ra năm 1802:
"Khi đó, Thế Tổ Gia Long, phụ thân của Hoàng đế
ra Hà Nội, chúng tôi có đến ra mắt. Người hứa cho chúng tôi được tự do giảng đạo,
xây nhà thờ và các nhà bác ái. Người yêu cầu chúng tôi cổ động dân chúng sống
hòa thuận và chăm chỉ làm ăn. Từ đó đến nay, tôi vẫn lệnh vua, nhắc nhở bà con
làm điều tốt, tránh điều xấu. Tôi thờ Vua trên trời và thuần phục vua dưới đất,
tôi vẫn xin Vua trên trời ban ơn cho các quan, để thời các ngài được thái bình
thịnh trị. Sao hôm nay quan lại bảo tôi bỏ lệnh Tiên Đế mà tôi đã tuân hành biết
bao năm nay ?
- Thế ông không muốn sống à ?
- Thưa quan, mọi sinh vật đều muốn sống, huống chi
là con người có suy nghĩ. Ai biết giá trị cuộc sống mà chẳng ham sống. Thế
nhưng với người Kitô hữu, chết là cách sống đời đời trên Thiên Đàng.
- Ai bảo ông là có Thiên Đàng.
- Đó là chuyện đương nhiên. Như nhà vua vẫn ban thưởng
cho những trung thần, thì Chúa trời đất chẳng lẽ không ban thưởng cho những tôi
trung phục vụ Người đến chết sao ? Nơi tưởng thưởng đó, chúng tôi gọi là Thiên
Đàng.
- Vậy ai dạy cho ông biết là có Chúa trời đất ?
- Thưa Tổng trấn, không cần phải ai dạy cả, chính trời
đất vũ trụ là cuốn sách mở ra dạy ta bài học đó. Nhìn ngắm những công trình kỳ
diệu của thiên nhiên tức khắc phải nhận ra có Đấng Tạo Hóa đó là Chúa Trời và
tôn thờ Người".
Vì hy vọng thời gian sẽ làm các anh hùng đức tin nản
chí, quan tìm cách trì hoãn vụ án thật lâu. Thấm thoát ba vị đã ở tù được gần
ba năm. Thỉnh thoảng quan lại gọi ra tòa đề nghị bước qua Thập Giá. Mới đầu thì
khuyên dụ ngọt ngào, sau dùng cực hình để cưỡng bách, nhưng không cách nào có
thể làm các vị thay lòng đổi dạ.
Thái độ hai thày giảng cũng làm cho mọi người bỡ ngỡ
thán phục. Dù bị hành hạ dã man đến đâu, hai thày cũng vẫn thản nhiên nhẫn nại,
không bao giờ trách mắng chửi rủa, chỉ lập đi lập lại một điều : "Dù sống
dù chết, chúng tôi không bao giờ bỏ đức tin". Niềm an ủi lớn nhất của hai
thày là được ở gần cha Khoan, sớm hôm tâm sự và thỉnh thoảng lãnh bí tích giải
tội. Các thày coi những ngày ở tù như thời gian thanh luyện để lập công đền bù
những lỗi lầm từ thơ ấu. Đôi khi có người khéo léo đưa được Mình Thánh Chúa vào
tù, đó là những ngày sung sướng và hạnh phúc nhất của ba vị.
Một lần cha Khoan nói thẳng với quan án rằng:
"Quan bảo tôi chà đạp Thập Giá là điều chẳng hợp lý chút nào?". Quan
hỏi : "Sao lại không hợp lý, ta chỉ cho ông con đường sống mà không hợp lý
à ?". Cha nói : "Thưa quan, nếu nước nhà có biến, mà quan sợ chết đào
ngũ thì quan là kẻ hèn nhát. Cũng vậy, tôi nhờ ơn Vua cả trên trời, tôi đâu có
quyền sợ chết mà bỏ Người được".
Lời chứng cuối cùng …và bài ca phục sinh
Khi thấy hoàn toàn thất vọng trước sự kiên tâm quyết
chí của ba người "lính" Chúa Kitô, quan đành quyết định ký án tử gởi
về triều đình xin phép. Trong những ngày chờ đợi cuối cùng đó, trại giam Ninh
Bình vang vọng những tiếng hát hân hoan. Đó là tiếng hát cha Khoan và hai thày
giảng hát lên lời kinh Tạ Ơn. Cha một câu, hai thày một câu, nhịp nhàng rộn rã.
Trên đường ra pháp trường, ba vị vẫn không ngừng cất tiếng ca những lời tri ân
đó.
Tại pháp trường ngày 28.4.1840, cha Khoan xin phép
nói với dân chúng đôi lời, ngài nói : "Thưa đồng bào và các bạn hữu, chúng
tôi không phạm tội ác, không chống lại vua, không lỗi luật nước. Chúng tôi chết
chỉ vì là Kitô hữu và vì không chịu bỏ đạo Kitô, là đạo duy nhất chân thật".
Lính đẩy ba vị vào khu vực riêng xa tầm mắt dân
chúng. Ba vị giơ tay lên trời, hai thày hiệp ý cầu nguyện với linh mục :
"Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, Chúa trời đất. Chúng con hiến
dâng mạng sống cho Ngài, xin Chúa chúc phúc cho nhà vua được cai trị lâu dài
trong an bình. Xin biến đổi trái tim vua, để vua tin theo đạo thật, đạo duy nhất
có thể đem lại cho con người hạnh phúc đích thực".
Tiếp theo ba vị cầu nguyện bằng thánh ca. như trong
đêm Phục Sinh, cha Khoan hát lên ba lần Allêluia, Allêluia, Allêluia mỗi lần
nói cung giọng cao hơn. Xen kẽ vào đó hai thày giảng cũng hát thay cho cộng
đoàn theo cao độ của vị chủ sự : "Allêluia, Allêluia, Allêluia".
Sau đó lý hình thi hành phận sự. Ba cái đầu cùng rơi
xuống đưa ba vị thánh về hợp xướng với ca đoàn thiên thần trên Thiên Quốc với
khúc hát Phục Sinh Allêluia bất diệt. Năm đó cha Khoan 69 tuổi, thày Hiếu 63 tuổi,
thày Thành 44 tuổi. Thày giảng Huấn chứng kiến từ đầu vụ hành quyết, đã lãnh
thi thể ba vị về Phúc Nhạc an táng theo nghi lễ công giáo.
Đức Lêo thứ XIII suy tôn cha Phaolô Phạm Khắc Khoan,
hai thày Phêrô Nguyễn Văn Hiếu và Gioan Baotixita Đinh Văn Thành lên bậc chân
phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài
lên bậc Hiển thánh.
Tâm tình Đức Cha Retord Liêu trong thơ gởi cha Khoan
"Sách có câu : Chết vinh hơn sống nhục. Hãy coi
những kẻ bội giáo, cuộc đời họ đáng tủi hổ biết bao. Ngược lại khắp bốn phương
thiên hạ đều vang lời khen ngợi những ai chết cho đức tin. Các vị tử đạo như tiếng
kèn Thiên Quốc, với âm điệu vang lừng muôn người lắng nghe. Những kẻ chối đạo, ở
lại trần gian chỉ để chờ lưỡi rìu chặt đem về tiếp lửa cho hỏa ngục.
Máu các vị tử đạo như giọt sương đêm tưới mát vườn
hoa Giáo Hội làm nó thêm phong nhiêu (phong phú và phù nhiêu)…
Tôi viết cho cha những lời vắn tắt vội vã này. Ước
mong nó thành ngọn gió đưa cha lướt êm đến bến bờ quê hương. Ước mong nó thành
đóa hoa rực rỡ với làn hương thơm tỏa ngát niềm vui tô thắm tâm hồn cha trong
cuộc chiến cuối cùng. Xin kính cẩn tạm biệt cha. Xin kính cẩn hôn lên gông cùm
xiềng xích của cha. Trong lúc cầu nguyện xin đừng quên tôi nhé !" (Launay
III, tr.37-38).
Nguồn từ thư viện Đa Minh
Trường
thi tử Đạo.
Thầy giảng Phêrô Nguyễn Văn Hiếu
Sinh Ðinh Dậu (1777) kỷ yếu Ninh Bình
Giảng giáo lý dạy nguyện kinh
Nửa đời kẻ giảng nhiệt tình cha Khoan
Tuổi niên thiếu Hà Nam Bình Lục
Xứ Ðồng Chuối diễm phúc đi tu
Ðược sai đi giúp giáo khu
Vâng lời làm việc cho dù khó khăn
Giúp nhiều Cố chủ chăn giảng đạo
Thông dịch viên thông thạo nhà chung
Ði theo kinh lý tháp tùng
Thánh Kinh giáo luật nói chung thông rành
Thầy bị bắt lính canh tra tấn
Rất nhiều lần nhưng vẫn kiên trung
Bắt quá khóa chống tới cùng
Bằng lòng chịu khó, Chúa dùng truyền rao
Quan muốn dụ đưa vào ngục thất
Lại đưa ra cập nhật hỏi tra
Thầy Hiếu kiên định rõ mà
Tôi đây theo đạo Chúa Cha trên trời
Quan kiếm cách đem lời dụ dỗ
Ðừng nghe theo Cụ Cố nữa Thầy
Quyền hành tha xử ta đây
Thương Thầy, quan mới tỏ bày giúp cho
Không tiền bạc khỏi lo chạy chọt
Nghe lời đi nói ngọt thật thà
Một câu thôi sẽ được tha
Thừa Sai đạo trưởng, trốn đà ở đâu
Khỏi quá khóa ngõ hầu tha bổng
Có giấy khen không chống lệnh vua
Thầy Hiếu nói quan chớ đùa
Tôi đây cương quyết, không thua mưu này
Tôi ước muốn đầu bay xử trảm
Chỉ phượng thờ Chúa đáng tôn vinh
Quyết chống lại lệnh triều đình
Dù tôi có chết, tử hình mừng vui
Xin quan hiểu không lùi một bước
Vẫn hiên ngang để được tiến lên
Thầy Hiếu chí khí vững bền
Quan trên kết án, và truyền lệnh ra
Lính tới ngục dẫn đà đi xử
Thầy hiên ngang vẫn cứ đọc kinh
Gươm đao theo sát lý hình
Vung tay một nhát đầu mình lìa đôi
Dân lấy xác thu hồi chôn cất
Tại pháp trường rất thật thê lương
Về sau cải táng xứ đường
Mộ êm mả ấm Thiên Ðường thưởng công
Máu tử đạo tươi hồng Canh Tý (1840)
Danh tánh ngài đăng ký Roma
Canh Tý (1900) Toà Thánh ban ra
Suy tôn Á thánh nguy nga Nước Trời
Lời
bất hủ: Khi ra pháp trường, Thầy giảng Hiếu cùng ca vang
bài: " Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, Chúa trời đất, chúng con
hiến dâng mạng sống cho Ngài. Xin Chúa chúc phúc cho nhà vua được cai trị lâu
dài trong an bình, xin biến đổi trái tim vua, để vua tin theo đạo thật, đạo duy
nhất có thể đem lại cho con người hạnh phúc đích thực".
http://tinmung.net/CACTHANH/118ThanhTDVN/INDEX.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét