VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Valentinô Berrio
Ochoa Vinh, giám mục
Ngày 01 tháng 11
Tin mừng Gioan 17,11b-19
11 Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế
gian; phần con, con đến cùng Cha.
12 Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh.13 Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói những điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con.14 Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian.15 Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần.16 Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian.17 Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.18 Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian.19 Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.
11 And now I will no longer be in the world, but they are in the world, while I am coming to you. Holy Father, keep them in your name that you have given me, so that they may be one just as we are.
12 When
I was with them I protected them in your name that you gave me, and I guarded
them, and none of them was lost except the son of destruction, in order that
the scripture might be fulfilled.
13 But
now I am coming to you. I speak this in the world so that they may share my joy
completely.
14 I
gave them your word, and the world hated them, because they do not belong to
the world any more than I belong to the world.
15 I
do not ask that you take them out of the world but that you keep them from the
evil one.
16 They
do not belong to the world any more than I belong to the world.
17 Consecrate
them in the truth. Your word is truth.
18 As
you sent me into the world, so I sent them into the world.
19 And
I consecrate myself for them, so that they also may be consecrated in truth.
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề của hình này là gì ?
………………………………………………….
* Bạn hãy viết câu Tin mừng thánh Gioan 17,19
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. Khi Đức Giêsu còn ở với các môn đệ, Người đã
làm gì họ trong Danh Cha mà Cha đã ban cho Người ? (Ga 17,12)
a. Dạy dỗ
b. Hướng dẫn
c. Gìn giữ
d. Chúc phúc
a2. Đức Giêsu sẽ làm gì để không 1 ai hư mất trừ
đứa con hư hỏng ? (Ga 17,12)
a. Dạy dỗ
b. Canh giữ
c. Cầu nguyện
d. Ban nhiều dấu lạ
a3. Đức Giêsu xin Cha lấy sự thật mà làm
gì cho họ ?(Ga 17,17)
a. Nâng đỡ
b. Cầu bầu
c. Che chở
d. Thánh hiến
a4. Đức Giêsu nói : Con đã canh giữ, và không 1
ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời gì ? (Ga 17,12)
a. Thiên Chúa nói với mọi người
b. Kinh Thánh
c. Các tông đồ
d. Thánh Phaolô
a5. Đức Giêsu nói những điều này khi còn ở thế
gian, để các môn đệ được hưởng trọn vẹn điều gì của Người ?(Ga 17,13)
a. Bình an
b. Sung sướng
c. Niềm vui
d. Thoải mái
B.
Giám mục Berrio Ochoa Vinh
b1. Ðức Cha Vinh (Berrio Ochoa), Sinh năm 1827 tại Elorrio
(Vizcaya), Tây Ban Nha, dòng Ða Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha, địa
phận Ðông Ðàng Ngoài, chịu tử đạo dưới triều vua nào ?
a. Vua Tự Đức (1847-1883)
b. Vua Thiệu Trị (1841-1847)
c. Vua Minh Mạng (1820-1841)
d. Vua Cảnh Thịnh (1782-1802)
b2. Ðức Cha Vinh (Berrio Ochoa) chịu tử đạo thế nào ?
a. Bị xử giảo
b. Bị xử trảm
c. Bị thiêu sống
d. Xử lăng trì
b3. Ðức Cha Vinh (Berrio Ochoa) chịu tử đạo tại Hải Dương vào năm nào ?
a. Năm 1835
b. Năm 1839
c. Năm 1858
d. Năm 1861
b4. Ðức Cha Vinh (Berrio Ochoa) được Đức Giáo Hoàng nào tôn phong
lên bậc chân phước (1906) ?
a. Đức Giáo hoàng Piô X
b. Đức Giáo hoàng Lêô XIII
c. Đức Giáo hoàng Piô XII
d. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII
b5. Thánh Berrio
Ochoa Vinh được mừng kính vào ngày nào ?
a. Ngày 12 tháng 06
b. Ngày 21 tháng 12
c. Ngày 01 tháng 11
d. Ngày 11 tháng 03
III.
Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Điều
gì là sự thật ? (Ga 17,17)
02. Đức
Giêsu nói : Con đã canh giữ, và không 1 ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư
hỏng, để ứng nghiệm lời gì ? (Ga 17,12)
03. Đức Giêsu nói
những điều này khi còn ở thế gian, để các môn đệ được hưởng trọn vẹn điều gì
của Người ? (Ga 17,13)
04. Đức
Giêsu xin Cha gìn giữ các môn đệ khỏi ai ? (Ga 17,15)
05. Đức
Giêsu xin Cha lấy sự thật mà làm gì cho họ ? (Ga 17,17)
06. Ai
đã ghét các môn đệ ?(Ga 17,14)
07. Đức
Giêsu xin Cha làm gì cho các môn đệ khỏi ác thần ? (Ga 17,15)
Hàng dọc : Chủ đề của ô
chữ này là gì ?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
“Vì
họ, con xin thánh hiến chính mình con,
để
nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến”.
Tin Mừng thánh Gioan 17,19
Lời giải đáp VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Valentinô Berrio
Ochoa Vinh, giám mục
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề
Thánh Valentinô
Berrio Ochoa Vinh
* Tin mừng thánh Gioan 17,19
“Vì họ, con xin thánh
hiến chính mình con,
để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến”.
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. c.
Gìn giữ (Ga 17,12)
a2. b.
Canh giữ (Ga 17,12)
a3. d. Thánh hiến (Ga 17,17)
a4.
b. Kinh Thánh (Ga
17,12)
a5. c. Niềm vui (Ga 17,13)
B.
Giám mục Berrio Ochoa Vinh
b1. a. Vua Tự Đức (1847-1883)
b2. b. Bị xử trảm
b3. c. Năm 1858
b4. a. Đức Giáo hoàng Piô X
b5. c. Ngày 01 tháng 11
III.
Ô CHỮ
01. Lời Cha (Ga 17,17)
02. Kinh Thánh (Ga 17,12)
03. Niềm vui (Ga 17,13)
04. Ác thần (Ga 17,15)
05. Thánh hiến (Ga
17,17)
06. Thế
gian (Ga 17,14)
07. Gìn
giữ (Ga 17,15)
Hàng dọc : Chủ
Chăn
Gb.
Nguyễn Thái Hùng
XIN XEM THÊM TẠI ĐÂY
+++++++++++++++++++++++++
Ðức Cha Vinh (Berrio Ochoa),
Ðức Cha Vinh (Berrio
Ochoa), Sinh năm 1827 tại Elorrio (Vizcaya), Tây Ban Nha, dòng Ða Minh, Giám mục
thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 1/11/1861
tại Hải Dương dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Ðức
Piô X, lễ kính vào ngày 1/11.
Cuộc đời thánh Valentino
Vinh đẹp như một bài thơ và hùng tráng như bản tình ca bất hủ. Quả thật, cuộc đời
ngài chỉ vỏn vẹn có 34 năm với ba năm Giám mục, không có nhiều thành quả lẫy lừng,
nhưng đã là một thiên tình ca hùng tráng… cuộc đời ấy được đan dệt bằng biết
bao biến cố thăng trầm, bao kỷ niệm gian khổ và bao thắng vượt anh hùng.
Với tinh thần đơn sơ của một
người tràn đầy tình yêu Chúa và tha nhân, ngài đã biến tất cả thành một giai điệu
nên thơ. Tất cả những nỗi vất vả đã được vị "Giám mục Hầm Trú" này
khoác cho chiếc áo tươi vui bằng thái độ kiên cường, bằng tình yêu nhiệt thành
và sự trung tín. Ngài biến đổi chúng bằng những phút chiêm niệm sâu xa và bằng
nụ cười bất diệt.
Valentino Berrio Ochoa xuất
thân trong một gia đình quý phái, đạo đức nhưng lại nghèo. Sinh ngày 14 tháng 2
năm 1827 tại làng Elorrico, giáo phận Vich, nước Tây Ban Nha. Cuộc đời
Valentino chịu ảnh hưởng rất nhiều của song thân. Cậu học được nơi cha sự cần
cù kiên nhẫn, và thừa hưởng nơi mẹ một đức tin sống động, lòng sùng kính Đức
Maria và tính vui tươi hòa nhã với mọi người. Đặc biệt với thân mẫu, Valentino
vẫn hằng ôm ấp mối tình thắm thiết cả khi đã làm Giám mục mà chúng ta có thể thấy
được, vẫn dạt dào trong các lá thư viết về cho bà.
Vì thân phụ thường đóng
bàn ghế cho một tu viện Đaminh trong vùng, nên Valentino được vào giúp lễ. Nhờ
vậy, cậu có dịp tiếp xúc với cha linh hướng của tu viện, một linh mục dòng
Đaminh. Khi rảnh rỗi, cậu đến gặp cha để nghe cha kể chuyện về các vị thừa sai
Đaminh tại Việt Nam, về những mẫu gương dấn thân và những cuộc tử đạo anh hùng.
Từ đó, cậu bé 12 tuổi ôm mãi trong lòng giấc mộng vàng, là được làm linh mục
Đaminh và đến phục vụ tại mảnh đất Việt yêu dấu. Nhưng vì gia đình quá nghèo, cậu
phải phấn đấu rất nhiều để biến giấc mộng ước thành hiện thực.
Sáu năm liền, Valentino phải
kết hợp ba chương trình: vừa làm mộc giúp phụ thân, vừa trau dồi văn hóa phổ
thông và xếp thêm giờ học tiếng Latinh. Theo gương đức Giêsu nơi xưởng mộc
Nazareth xưa, cậu kiên nhẫn chờ đợi ý Chúa được thể hiện. Năm 18 tuổi, nhờ sự
gíup đỡ của một linh mục, cậu xin phép cha mẹ gia nhập chủng viện Logrono. Tại
đây, cậu được các giáo sư, các bề trên và bạn bè quý mến. Mọi người ghi nhận
nơi chàng thanh niên này tính chăm chỉ học hành, một nếp sống đạo đức sau xa,
khổ chế với chính mình nhưng lại tươi vui với mọi người. Đức Giám mục giáo phận,
khi kinh lý làng Elorrio ghé thăm gia đình anh, đã nói với thân mẫu rằng :
"Bà Maria ơi, có lẽ con bà sẽ làm đến Giám mục".
Sau ba năm triết học với
thành quả mỹ mãn, hè năm 1848, thày Valentino về thăm gia đình, và thấy cha mẹ
già yếu quá vất vả với công việc, thày trở lại xin bề trên được sống ngoại trú,
để vừa đi học thần học, vừa có thể phụ giúp gia đình 30 tháng.
Hơn hai năm rưỡi đã trôi
qua như thế, mãi tới khi theo lời đề nghị của một cha giáo sư, Đức Giám mục cho
thày lãnh chức cắt tóc và đặt thày làm linh hướng dự khuyết của chủng viện. Đây
là trường hợp rất họa hiếm nói lên uy tín của thày, tuy còn là sinh viên mà đã
được chọn vào một trách vụ thường dành cho những vị linh mục lão thành đạo đức,
nhiều kinh nghiệm.
Lòng tín nhiệm thày
Valentino của Đức cha Irigoyen ngày càng rõ rệt hơn, khi người lần lượt trao
ban chức năm, chức sáu và linh mục cho thày chỉ trong một năm (1851). Valentino
đã chuẩn bị xứng đáng, và trong niềm hân hoan khôn tả, vị tân linh mục đã viết
thư cho thân thân mẫu như sau : "Mẹ yêu dấu của con, hôm qua, ngày
14.08.1851, ngày mộng ước, ngày con được thụ phong linh mục… Con của mẹ giờ đây
đã được tình thương Chúa nhắc lên phẩm chất cao cả, đến nỗi các thiên thần cũng
phải run sợ…" (thư 16).
Hơn hai năm tận tụy với chức
vụ linh hướng đại chủng viện, cha Valentino vẫn ôm ấp giấc mộng vàng thuở thơ ấu.
Sau khi bàn hỏi với cha linh hướng dòng Tên tại Loyola, cha xin phép Giám mục
qua dòng Đaminh. Lúc giã từ người quen, có người hỏi cha: "Cha đi đâu, và
bao giờ chở lại?". Cha đáp: "Tôi đi để quê tôi có người làm
Thánh". Và cha đã khởi sự quyết định nên thánh đó bằng thái độ từ bỏ dứt
khoát : đường từ nhà đến tu viện Ocanã độ ba bốn ngày đường, cha quyết định đi
bộ, không giày dép, không tiền bạc. Hành trang duy nhất là cuốn sách nguyện.
Sau có người thấy tội nghiệp, tìm cách ép mời cha đi xe ngựa vài đọan đường.
Ocanã, một học viện của tỉnh
dòng Mân Côi từ năm 1830, nơi đã đào tạo hai Đức cha An và Xuyên, khi đó đang
làm Giám mục chánh và phó giáo phận Trung Đàng Ngoài, đã rộng cửa đón vị linh mục
linh hướng nổi tiếng, trao tu phục và sau một năm tập như thường lệ, đã cho cha
khấn trọng ngày 12.01.1854.
Ba năm sau, cha tiếp tục
giấc mộng thời niên thiếu, nên qua trụ sở tỉnh dòng ở Manila để tìm đường đến
Việt Nam. Sáu tháng lênh đênh trên biển cả, chiếc tàu của cha Valentino gồm các
thừa sai của ba dòng tu Đaminh, Phanxicô và Augustino. Các vị tổ chức đời sống
như một tu viện. Qua thư, cha Valentino thuật lại : các vị cùng nhau dâng lễ, đọc
kinh nguyện mỗi ngày. Dịp Tuần Thánh, các vị cũng tổ chức nghi lễ rửa chân, suy
niệm Đàng Thánh Giá, bắn pháo bông mừng phục sinh và tổ chức việc suy niệm Đức
Mẹ trong tháng hoa nữa.
Ngày 17.06.1857, cha đến
Manila trong niềm vui của các anh em dòng tại đây. Anh em ra đón cha tại bến
tàu, rồi đưa về thánh dường hát kinh TE DEUM và tạ ơn Đức Mẹ trước bàn thờ Mân
Côi.
Ngày 30.03.1858, cùng với
cha Riaño Hòa và cha Carreras Hiển, cha Berrio Ochoa đặt chân lên đất Việt Nam,
đến trình diện cha chính Nam và Đức cha Xuyên tại Kiên Lao. Cơn bách hại đang ở
cao điểm : Đức cha An mới bị tử đạo được tám tháng, thủ cấp của Đức cha Xuyên
được treo giá vàng, nên thường xuyên ngài phải ẩn nấp.
Trong thư 93 gửi về gia
đình, cha Vinh đã ghi nhận : "Cánh đồng truyền giáo này không thấy lấy một
ngày quang đãng, không ngày nào không phải cố gắng giữ nét vui tươi. Không ngày
nào không có đau thương để khóc, không có lo toan để tìm phương bổ cứu, không
có kẻ lạ mặt theo dõi hay quan quân truy lùng".
Sườn núi Canvê trơn dốc của
cha Vinh đã bắt đầu. Tại đây tất cả đều còn lạ lẫm : Ngôn ngữ, tập quán, đường
đi, con người và bao nhiêu thứ phải làm quen, phải học. Thế mà chỉ mới mấy ngày
sau khi chào vị chủ chăn giáo phận, vì tình hình an ninh, mỗi vị phải chia tay
nhau ẩn náu mỗi người một phương. Tuy mới chân ướt chân ráo đến vùng truyền
giáo, cha Vinh phải vận dụng sự khôn ngoan sáng tạo để hòan thành những công
tác mục vụ, thăm viếng. Tất cả mọi việc đều phải lén lút.
Hai tháng rưỡi trôi qua,
tuy tiếng Việt nói chưa thông, nhưng tài năng và nhân đức của vị linh mục trẻ
tuổi này đã được khẳng định. Đức cha Sampedro Xuyên, trước nguy cơ có thể bị bắt,
đã chuẩn bị cho tương lai của giáo phận, ngài dùng quyền Tòa Thánh để chọn một
Giám mục phó có quyền kế vị. Ngài đã chọn cha Berrio Ochoa Vinh. Đây là tâm sự
của vị được tiến chức :
"Thưa Đức cha, nếu được
thì xin cất chén đó cho con… Con thấy lòng tràn ngập lo lắng, áy náy khi nghĩ đến
địa vị mà Đức cha muốn đặt con lên. nhưng điều mà môi miệng con nói thì con
cũng xin nói cả tấm lòng, đó là xin vâng trọn ý Chúa, bây giờ và đời đời chẳng
cùng".
Lễ tấn phong Giám mục
Valentino Vinh, quả thực có một không hai trong lịch sử Giáo hội. Đêm 25 rạng
ngày 26.06.1858, Đức cha Xuyên cử hành lễ tấn phong trong nhà ông trùm Chi ở
Ninh Cường. Lễ nghi được tiến hành âm thầm giữa đêm thâu, không một tiếng hát,
không một người tham dự. Hai cha Riano Hòa và Carreas Hiển là thụ phong, bao
tay, vớ tất không có, mũ ngọc của tân Giám mục làm bằng giấy bìa cứng cũng phủ
giấy tráng kim, gậy ngọc là một cây nứa, đầu gậy cuốn bằng rơm cũng được bọc giấy
tráng kim. Việc chuẩn bị cho ngày lễ, chúng ta hãy nghe ngài thuật lại trong
thư gửi cho cha Orge ở Manila.
"Con thú thật rằng,
con muốn thoát khỏi vòng ràng buộc này. Nhưng biết bao lần Đức cha đã bảo con,
nên theo lương tâm, buộc con phải vui nhận việc tuyển chọn… Con không giám cưỡng
ý Chúa đã rõ rệt. Sau ngày được tuyển chọn, con chỉ còn vừa đủ thì giờ để cấm
phòng. Con lắng nghe Ngài phán trong thinh lặng, không có lấy một cuốn sách nào
giúp tĩnh tâm, mà có tìm cũng không ra … Không phải chỉ thiếu sách cấm phòng,
nhưng chiều áp lễ tấn phong, thấy rằng chỉ có độ một nửa khăn áo cần dùng trong
nghi lễ, Đức Giám mục đại diện Tông tòa và con phải vội vàng hai tay kim chỉ
đóng vai thợ may. Tạ ơn Chúa, tới đúng giờ đã định, chúng con cũng có ít khăn
áo xứng đáng…" (Thư 79).
Nếu thánh Phaolô xưa tự nhận
mình là tông đồ sinh non, vị tân Giám mục cũng tự nhận là Giám mục sinh non,
sinh thiếu tháng. Chưa đầy ba tháng trên đất Việt với số tuổi 31, thế mà giờ
đây phải quan tâm săn sóc một giáo phận trên 150 ngàn giáo hữu giữa cơn cuồng
phong bách hại ác liệt nhất. lúc này đây, ngoài Chúa ra, ai có thể cảm thông được
nỗi ưu tư của ngài ?
Sau ngày tấn phong, hai Đức
cha và hai linh mục lên xứ Quần Cống. Được ít hôm, quan án sát Nam Định đến bao
vây làng này, khiến mỗi vị phải đi một ngả. Đức cha Vinh phải chạy sang Trà Lũ,
Đức cha Xuyên qua làng Thôn Đông, rồi đến Kiên Lao thì bị bắt ngày 08.07, và bị
xử lăng trì ngày 28.07.1858. Từ nay, Đức cha Vinh phải một mình lãnh trách nhiệm
toàn giáo phận Trung. Theo ý vị tiềm nhiệm, Đức cha bỏ giáo phận trốn qua tỉnh
Hải Dương, là nơi cuộc bách hại còn lắng dịu. Sau bốn ngày vượt sông băng lạch,
ngài đến Cao Xá, tỉnh Hưng Yên, rồi tới nơi Đức cha Hermosilla Liêm và cha
Almato Bình trú ẩn. Được ít lâu, ngài đã tìm được nơi trú ẩn mới trong vườn nhà
anh Thăng, làng Hương La, xử Tử Nê (Bắc Ninh). Gia chủ đã đào cho ngài một hầm
trú ẩn khá an toàn. Chính tại hầm này, vị "Giám mục hầm Trú" đã thành
lập tòa Giám mục trong gần trọn đời Giám mục của ngài.
Khi nghe tin Đức cha Xuyên
tử đạo, dầu kiên nhẫn và bình tĩnh, Đức cha Vinh đã phải phát biểu nửa đùa nửa
thật rằng : "Đức Giám mục khả kính Sampedro Xuyên để lại cho tôi một gánh
quá nặng. Ngày nào tôi nhoai đến thiên cung, tôi sẽ tố cáo ngài".
Trong thư gửi cho một linh
mục bạn, ngài viết : "Tôi còng lưng gánh một gánh mà tôi sợ, rất sợ, sợ đổ
vỡ dọc đường…". Sau đó, Đức cha tìm mọi cách trở về với giáo phận, nhưng
không thể được, vì cơn bách hại tại giáo phận Trung qua khắc nghiệt.
Theo cha M. Gispert, có một
lần duy nhất trong đời Giám mục, Đức cha Vinh về xứ Kẻ Mèn, thuộc giáo phận
Trung. Nơi đây, cùng với cha Riano Hòa, hai vị tuyên thệ xây cất một Thánh đường
dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm, và nhận người làm bổn mạng của giáo phận, nếu Chúa
ban cho Giáo Hội thoát khỏi cơn bách hại và hưởng thái bình. Lời tuyên thệ này
về sau khi cha Hòa làm Giám mục đã thực hiện. Đó là thánh đường sau ba lần tái
thiết, nay là một thánh đường kiểu Gothique nguy nga dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm
tại Phú Nhai.
Trở lại vị Giám mục hầm
trú tại Hương La. Sáu tháng đầu, ngài sống chung với Đức cha Alcazar Hy, Đức
cha phó giáo phận Đông, cho đến khi vị này phải rời xứ truyền giáo tạm lánh qua
Macao. Chính tại hầm trú này, Đức cha điều hành giáo phận gần trọn ba năm. Nơi
đây, ngài sống như một ẩn sĩ, nhưng vẫn là linh hồn của giáo phận Trung. Sinh
hoạt thường ngày của ngài là cầu nguyện, hy sinh, viết thư cho các linh mục và
các giáo xứ bên giáo phận. Hỗ trợ Đức cha có bốn địa chủng sinh và ông lang
Thư, người Cao Xá, trong việc sao chép thư luân lưu, cũng như việc liên lạc.
Thật đáng khâm phục, trong
cảnh dầu sôi lửa bỏng như thế, Đức cha vẫn hướng về ánh sáng cuối đường hầm, vẫn
nhìn trời xanh qua kẽ lá, vẫn chuẩn bị cho Giáo Hội tương lai trong hòan cảnh
tưởng như tuyệt vọng này. Trong hầm trú, ngài vẫn tiếp tục hướng dẫn, dạy thần
học cho một chủng sinh, huấn luyện các linh mục tương lai. Để ôn thêm và để việc
huấn luyện được đầy đủ, giữa khung cảnh bão táp ấy, ngài viết thư cho cha quản
lý ở Macao, xin gởi cho cha bộ Tổng Luận thần học, bộ Contra Gentiles của thánh
Tôma và nhất là bộ Giáo Luật.
Ba năm trải qua như thế. Tất
cả ở dưới hầm trú, trừ đôi lần giữa đêm, ngài ra khỏi đó để thăm và xưng tội với
Đức cha Liêm, hoặc đi giúp các bệnh nhân, nhưng không vượt ra khỏi ranh giới
hai làng Đức Trai và Tử Nê. Một vài lần, ngài phải cuốn gói chạy trốn qua một hầm
khác để tiếp tục ẩn nấp. Thực tả sao cho xiết nỗi cơ cực và nỗi khổ ngài chịu.
Cơ cực vì hầm chật chội, ngột ngạt, ăn uống thiếu thốn … Khổ tâm vì không thể về
với giáo phận mình, trong khi cơn bách hại ngày càng gia tăng. Các hung tin được
loan báo tới tấp : Một, hai … rồi 18 linh mục tử đạo, các thày giảng và biết
bao giáo hữu bị ngã gục vì đức tin chân chính. Trong một thư gửi cho Thánh Bộ
Truyền Giáo, cha viết:
"Rất có thể trong ít
tháng nữa, giáo phận của tôi chẳng còn thừa sai, chẳng còn linh mục, không chủng
sinh, không thày giảng và không biết còn nên nói thêm chăng, không còn bổn đạo"
(Thư 93).
Tuy sống gian khổ như thế,
Đức cha Vinh đã không một lời rên rỉ, không một tiếng thở than. Cái
"chương trình" thánh thiện trong vui tươi của anh chủng sinh vừa học
vừa làm thời niên thiếu, giờ dây ngài vẫn trung thành thực hiện. Ta có thể thấy
điều đó trong một thư gửi cho thân mẫu vào tháng 08.1860 :
"Mẹ chí yêu lòng con,
"Mẹ hỏi con sống thế
nào, ăn uống làm sao ? Mẹ quý mến của con ơi ! Con sống tươi lắm, con làm Giám
mục cơ mà ! Còn thức ăn ngày nào cũng có. Đừng lo mẹ ạ, chúng con chẳng đói
đâu. Nhưng mẹ tưởng hễ làm Giám mục là phải ngồi ngựa à ? Không, chúng con tuột
giầy ra giữa đêm hôm tăm tối, nhoài hết chỗ lội này đến quãng lội khác, vậy mà
cứ vui thôi. Một hôm, con lội sáu dặm đường, trên mưa tuôn, dưới bùn trơn, con
ngã soành soạch không biết bao nhiêu lần. Tuy là Giám mục, con cũng ướt như chuột
và lấm bùn be bét. Nhưng giáo hữu ở đây tốt lắm, về tới nhà đã thấy họ đổ nước
cho con tắm rửa sạch sẽ để chuẩn bị dâng lễ…
"Ồ có lẽ mẹ bảo :
Vinh nhỏ của mẹ ơi, sống thế xìu lắm ! Không, chả buồn chả xìu chút nào mẹ ạ. Ở
đây người ta sống mạnh, sống tươi, nhanh nhẹn lắm. Chúa an ủi chúng con trong
lao nhọc. Con tuy là "trai già" mà nhảy qua vũng lội vẫn lẹ như sóc ấy.
Mẹ ạ, Vinh trước đã là đứa con nhảy nhót qua núi đồi thì nay bộ mặt đầy râu của
nó, cũng sẽ làm những tên quỷ già nhất ở trong hỏa ngục phải run sợ…"(Thư
116).
Quả thực, phải có tâm hồn
tươi trẻ và siêu nhiên mới có được thái độ và lời lẽ như vậy, vừa dí dỏm vừa
tươi vui pha chút đùa bỡn nữa. Những lá thư như thế phản ảnh được sự bỏ mình và
nét tươi trẻ của vị Giám mục tử đạo 34 tuổi xuân này. Thực là cái vui của các vị
thánh, của những tâm hồn đầy Chúa. Chẳng bao lâu nữa, vẫn với niềm vui tươi và
tính đơn sơ phó thác ấy, ngài giơ đầu đón nhát gươm lý hình, và trên khuôn mặt
đẫm máu đào của ngài, còn ánh lên nét tươi vui.
Tháng 8.1861, chiếu chỉ
phân sáp của vua Tự Đức như một cơn hồng thủy tràn lan mọi thị xã cũng như thôn
quê. Làng Hương La cũng không thể yên ổn được nữa. Đức cha Vinh liền xuống thuyền
với linh mục Almato Bình, xuôi dòng xuống Hải Dương. Tại đây, may mắn hai vị gặp
Đức cha Liêm và thày Khang đang ở trên một thuyền khác trong bầu không khí thân
mật và cảm động. Nhưng sau đó, thuyền ngài lại phải tiếp tục cuộc hành trình.
Các giáo hữu giới thiệu hai vị trọ nhà một người ngoại giáo làm phó lý ở gần
đó. Không ngờ cháu ông này đi báo với quan, khiến hai vị bị bắt ngày 25.10.1861
và bị đóng cũi giải về Hải Dương. Tại đây, hai vị gặp Đức cha Liêm trong một
cũi khác, ngài đã bị bắt trước đó năm ngày.
Ngày 01.11.1861, ba vị thừa
sai cùng bị đem đi xử. Quân lính áp giải đông như đi rước. Cũi Đức cha Vinh đi
giữa hai vị kia. Ngài bình tĩnh ngồi cầu nguyện như thói quen, nét mặt tươi tỉnh
khiến mọi người phải ngạc nhiên. Tại pháp trường Năm Mẫu, sau ít phút cầu nguyện,
lý hình đã chém đầu các ngài theo hiệu chiêng trống. Thi thể ba vị tử đạo được
chôn tại đó, sau được cải về Thọ Ninh, rồi Kẻ Mốt. Đến đời Đức cha Hiển, thi thể
Đức cha Vinh được gởi về Macao, và sau cùng được đem về quê hương của ngài.
Đức Piô X đã suy tôn Giám
mục Valentino Berrio Ochoa Vinh lên bậc Chân Phước ngày 20.05.1906. Ngày
19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.
Nguồn từ thư viện Đa Minh
Trường Thi Tử Đạo
Valentinô Vinh sinh năm
Ðinh Hợi (1827)
Tại Elorricô tên gọi (Tây)
Ban Nha
Ðịa phận Vich là quê cha
Con ông thợ mộc như là
(Chúa) Giêsu
Từ thủa nhỏ thích tu, ham
học
Nhà lại nghèo làm mộc sinh
nhai
Cậu Vinh nài nỉ một hai
Xin vào Chủng viện tương
lai huy hoàng
Cậu tình nguyện vừa làm vừa
học
Sau năm năm hết bậc phổ
thông
Cậu được cha mẹ bằng lòng
Cho vào Chủng viện thuộc
dòng Logromo
Học hành giỏi điểm tô đức
hạnh
Với mọi người bên cạnh
thân thương
Ðức Cha Giáo phận địa
phương
Ðến thăm quê cậu đoán đường
về sau
Tương lai cậu (Vinh) tiến
mau Giám mục
Vì tinh thông vượt bực Chủng
sinh
Mẹ nghe lòng cũng đinh
ninh
Nhà quê nào biết con mình
giỏi giang
Sau ba năm bậc thang Triết
học
Về trông thấy mệt nhọc của
cha
Tuổi cao vất vả thân già
Cậu xin ngoại trú việc nhà
đảm đương
Ba mươi tháng hồi hương tạm
trú
Cậu học hành chăm chú hơn
ai
Ðức Cha nhận rõ biệt tài
Ban phép cắt tóc một vài
tháng sau
Làm linh hướng tiến mau dự
khuyết
Chức vụ này đặc biệt các
cha
Thầy Vinh phúc lộc chan
hoà
Chịu chức linh mục hoan ca
tưng bừng
Hơn hai năm lẫy lừng linh
hướng
Xin Ðức Cha đổi xuống (dòng)
Ðaminh
Thực hiện ý định của mình
Muốn sang giảng đạo cảm
tình Việt Nam
Ðường đi lại gian nan cách
trở
Chặng đi đầu tạm ở nước
Phi
Vài tuần sau có chuyến đi
Con tàu Phi Việt gặp khi tốt
trời
Ðến Việt Nam ôi thôi mừng
quá
Ðiều ước mơ nay đã tới liền
Ðến trình diện với Ðức Cha
Xuyên
Cha con gặp gỡ ở miền Kiên
Lao
Lệnh cấm đạo gắt gao hơn
trước
Ở bên nhau chỉ được mấy
ngày
Cha con lại phải chia tay
Mỗi người một ngã tránh bầy
sói lang
Tuy phải trốn ngài càng nổ
lực
Thăm giáo dân khổ cực ban
đêm
Thánh Thần phù hộ ngài
thêm
Ðức Cha Xuyên muốn cha lên
thay ngài
Ðoán trước được tương lai
giáo phận
Khuyên cha Vinh nên nhận lời
mời
Mừng lo khó nói nên lời
Chén đó con sợ không rời ý
cha
Lễ tấn phong ban ra Mậu Ngọ
(1858)
Tại nhà ông trùm họ Minh
Cường
Kể ra thì rất thảm thương
Gậy tre mũ giấy thánh đường
nhà dân
Sau chịu chức trú chân Quần
Cống
Ðược vài ngày chiêng trống
bao vây
Bây giờ biết tính sao đây
Mỗi người một ngã đường
dây đi về
Ðức Cha Xuyên bốn bề vây bắt
Ðức Cha Vinh sắp đặt trong
ngoài
Bây giờ biết cậy vào ai
Trên mình gánh nặng một
hai sẵn sàng
Cuộc bách hại ngày càng
gay gắt
Ở quanh đây bị bắt như
chơi
Buộc lòng ngài phải xa rời
Hưng Yên, Cao Xá là nơi an
toàn
Một giáo hữu khôn ngoan
anh Thắng
Có thửa vườn thanh vắng của
nhà
Ðào hầm trú ẩn nuôi (Ðức)
Cha
Ở đây hoạt động được ba
năm trường
Việc Giáo phận đảm đương
phụ trách
Còn dạy cho đặc trách Chủng
sinh
Khi dâng lễ, lúc nguyện
kinh
Nơi Toà Giám Mục thu mình
hầm sâu
Lệnh phân sáp khổ đau ập đến
Ngài rời đây tới bến Hưng
Yên
Ðến đây ngài bị bắt liền
Ðem nộp quan huyện lãnh tiền
thưởng chơi
Ðức Cha Vinh được mời vào
củi
Tuy bị giam mặt mũi vẫn
tươi
Tử hình án đã phê rồi
Pháp trường Năm Mẫu là nơi
hành hình
Phúc tử đạo hiển vinh Ðinh
Hợi (1861)
Một chứng nhân quen gọi
cái tên
Ðức Cha hầm trú ngày đêm
Gậy tre mũ giấy là tên của
ngài
Năm Bính Ngọ (1906) bài
sai Toà Thánh
Ðược suy tôn danh tánh của
ngài
Lên bậc Chân phước không
sai
Ðời đời bên Chúa trần ai
phụng thờ
Lời bất hủ:
Các hung tin được loan báo tới tấp, một.hai rồi 18 linh mục tử đạo, các thầy giảng
và biết bao tín hữu bị ngã gục vì đức tin chân chính, trong bức thư gửi Thánh bộ
Truyền giáo Ðức Cha viết: "Rất có thể ít tháng nữa, địa phận của tôi chẳng
còn thừa sai, chẳng còn linh mục, không chủng sinh, không thầy giảng và không
biết còn nói thêm chăng.Không còn bổn đạo". (trích thư chung 93)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét