VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Phêrô Vũ Văn Truật,
thầy giảng
Ngày 18 tháng 12
Tin Mừng thánh Gioan 12,24-26
24 Thật, Thầy bảo thật
anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một
mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.25 Ai yêu quý mạng sống
mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại
được cho sự sống đời đời.26 Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu,
kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người
ấy."
25 Whoever loves his
life loses it, and whoever hates his life in this world will preserve it for
eternal life.
26 Whoever serves me
must follow me, and where I am, there also will my servant be. The Father will
honor whoever serves me.
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề của hình này là gì ?
………………………………………………….
* Bạn hãy viết câu Tin mừng thánh Gioan 12,26b
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ có thái
độ nào với người ấy ? (Ga 12,26)
a. Yêu thương
b. Quý trọng
c. Tha thứ
d. Chiều chuộng
a2. Hạt lúa được gieo vào đâu ? (Ga
12,24)
a. Đá sỏi
b. Bờ đê
c. Lòng đất
d. Bụi gai
a3. Ai coi thường mạng sống mình ở đời
này, thì sẽ giữ lại được cho điều gì ở đời đời ? (Ga 12,25)
a. Niềm vui
b. Ơn cứu độ
c. Sự sống
d. Linh hồn
a4. Ai coi thường điều gì của mình ở đời
này thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời ? (Ga 12,25)
a. Của cải
b. Con cái
c. Gia nghiệp
d. Mạng sống
a5. Ai phục vụ thầy thì làm gì ? (Ga
12,26)
a. Hãy theo thầy
b. Hãy tuân giữ các điều răn của thầy
c. Hãy vác thập giá mình theo thầy
d. Hãy vững tin, vì thầy đã thắng thế gian
B.
Thầy giảng Phêrô Vũ Văn Truật
b1. Thầy giảng Phêrô Vũ Văn Truật, Sinh năm 1816 tại Kẻ Thiếc, Hà
Nam, chịu tử đạo dưới triều vua nào ?
a. Vua Tự Đức (1847-1883)
b. Chúa Trịnh Sâm (1767-1782)
c. Vua Minh Mạng (1820-1841)
d. Vua Cảnh Thịnh (1782-1802)
b2. Thầy giảng Phêrô Vũ Văn Truật chịu tử đạo thế nào ?
a. Bị xử giảo
b. Bị xử trảm
c. Bị thiêu sống
d. Bị xử lăng trì
b3. Thầy giảng Phêrô Vũ Văn Truật chịu tử đạo tại Sơn Tây vào
năm nào ?
a. Năm 1773
b. Năm 1838
c. Năm 1859
d. Năm 1862
b4. Thầy giảng Phêrô Vũ Văn Truật được Giáo hoàng nào tôn phong lên
bậc chân phước (1900) ?
a. Đức Giáo hoàng Piô X
b. Đức Giáo hoàng Lêô XIII
c. Đức Giáo hoàng Piô XII
d. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII
b5. Thánh Phêrô
Vũ Văn Truật được mừng kính vào ngày nào ?
a. Ngày 18 tháng 12
b. Ngày 24 tháng 11
c. Ngày 17 tháng 09
d. Ngày 26 tháng 05
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Cái
gì được gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình ? (Ga
12,24)
02. Ai
phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ có thái độ nào với người ấy ? (Ga 12,26)
03. Hạt
lúa được gieo vào đâu ? (Ga 12,24)
04. Ai
yếu quý điều gì của mình thì sẽ mất? (Ga 12,25)
05. Ai
coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho điều gì ở đời đời
? (Ga 12,25)
Hàng
dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC
THUỘC LÒNG
“Ai
phục vụ Thầy,
Cha của Thầy sẽ quý trọng
người ấy.”
Tin Mừng thánh Gioan 12,26b
Lời giải đáp VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Phêrô Vũ Văn Truật,
thầy giảng
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề
Thánh Phêrô
Vũ Văn Truật
* Tin mừng thánh Gioan 12,26b
“Ai
phục vụ Thầy,
Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.”
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. b. Quý trọng (Ga 12,26)
a2. c. Lòng đất (Ga 12,24)
a3. c. Sự sống (Ga 12,25)
a4. d.
Mạng sống (Ga 12,25)
a5. a.
Hãy theo thầy (Ga 12,26)
B.
Thầy giảng Phêrô Vũ Văn Truật
b1. c. Vua Minh Mạng (1820-1841)
b2. a. Bị xử giảo
b3. b. Năm 1838
b4. b. Đức Giáo hoàng Lêô XIII
b5. a. Ngày 18 tháng 12
III. Ô CHỮ
01. Hạt lúa (Ga
12,24)
02. Quý trọng (Ga
12,26)
03. Lòng đất (Ga
12,24)
04. Mạng sống (Ga
12,25)
05. Sự sống (Ga
12,25)
Hàng dọc : Tử Đạo
Gb.
Nguyễn Thái Hùng
XIN XEM THÊM TẠI ĐÂY
+++++++++++++++++++++++++++++++
Phêrô Vũ Văn Truật (1817 – 1838)
Phêrô Vũ Văn Truật, Sinh
năm 1817 tại Kẻ Thiếc, Hà Nam, Thầy giảng, bị xử giảo ngày 18/12/1838 tại Sơn
Tây dưới đời vua Minh Mạng, Đức Lêô XIII suy tôn lên bậc chân phước ngày
27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển
thánh. Lễ kính vào ngày 18/12.
Ba thày giảng cùng bị bắt
một ngày, cùng bị giam một nơi, cùng tử đạo một giờ, cùng được suy tôn Chân Phước
và Hiển Thánh một lượt là các thày: Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, 40 tuổi; Phêrô Trương
Văn Đường, 30 tuổi và Phêrô Vũ Truật, 21 tuổi.
Thánh Phaolô NGUYỄN VĂN MỸ
- Thày giảng - (1798 – 1838)
Là người lớn tuổi nhất,
thày Phaolô Mỹ như người anh cả, và là chỗ dựa cho hai thày giảng cùng bị giam
chung. Trong một lá thư gửi cho thừa sai Marette, thày Đường viết : "… Từ
ngày được diễm phúc chịu khó vì đức tin, thày Mỹ thay chúng con vẫn viết thư
cho cha. Vì chúng con coi thày như thay mặt cha ở giữa chúng con…"
Phaolô Nguyễn Văn Mỹ chào
đời năm 1798 ở làng Kẻ Non, còn gọi là Sơn Nga, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
Tên thật của cậu là Nguyễn Văn Hữu. Năm 13 tuổi, được phép cha mẹ, cậu Mỹ theo
giúp việc Đức cha Giacôbê Longer Gia rồi sau giúp cha Luật xứ Kẻ Đầm bốn năm. Đến
năm 19 tuổi, cậu theo học tại chủng viện Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị).
Khi làm thày giảng thực thụ,
thày Mỹ được gửi đến giúp thừa sai Marette. Ít lâu sau, Đức cha Harvard Du giám
quản giáo phận Tây Đàng Ngoài, đã chọn thày phụ giúp linh mục Cornay Tân, xứ Bầu
Nọ, tỉnh Sơn Tây. Nhiều kinh nghiệm và khả năng, thày Mỹ đã hỗ trợ đắc lực cho
vị thừa sai trẻ tuổi nhiệt thành, nhưng thường đau ốm nặng nề này. thày Mỹ luôn
hoàn thành công tác mục vụ một cách chu đáo: Từ giảng lý tân tòng và trẻ em, đến
khuyên bảo tội nhân hối cải. Khi tình hình cấm đạo lên cao độ, thày là vị tông
đồ nhiệt thành và hữu hiệu, đi thăm từng gia đình để khích lệ các tín hữu sống
đức tin, và còn hơn thế, được nhiều người ngoại giáo về đón nhận niềm tin Kitô
giáo.
Thánh Phêrô TRƯƠNG VĂN ĐƯỜNG
- Thày giảng - (1808 – 1838)
"Nhất định chúng tôi
không đạp lên ảnh chuộc tội, vì như vậy là chọn cái chết đời đời cả linh hồn lẫn
xác".
Lời nói trên cho ta thấy
tâm tình của thánh Phêrô Đường, vị thày giảng đã hơn 20 năm dâng mình cho Chúa,
để tìm kiếm hạnh phúc đích thực cho chính mình và ta nhân.
Sinh năm 1808 ở làng Kẻ Sở,
xã Ninh Phú, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Gia đình Phêrô Đường tuy nghèo
nhưng nổi tiếng thánh thiện. Được cậu là linh mục Trương Văn Thi phụ trách xứ
Sông Chảy đỡ đầu, nên ngay khi chú Đường mới 9 tuổi, cha Phương xứ Yên Tập đã
nhận khai tâm cho chú vào đời sống tu trì. 15 tuổi, anh Phêrô Đường đã được gủi
đến giúp xứ Bầu Nọ dưới quyền thừa sai Marette. Với sự khích lệ của cha, anh
chuyên tâm học chữ Hán và Latinh để chuẩn bị cho tương lai.
Khả năng và nhân cách của
anh Phêrô đường được xác nhận ngay năm sau. Anh được Đức cha Havard Du nhận vào
bậc thày giảng dù mới 16 tuổi, thày giảng trẻ tuổi nhất. Thày tiếp tục giúp xứ
Bầu Nọ thời cha Cornay Tân, cho đến ngày bị bắt. Tính tình vui tươi, hiền lành,
thày được mọi người trong xứ mến chuộng.
Thánh Phêrô VŨ TRUẬT -
Thày giảng - (1817 – 1838)
Thày Phêrô Vũ Truật, 21 tuổi,
đáng lưu danh muôn thuở cho câu nói bất hủ, trả lời lại những viên quan chê dại
dột lãng phí tuổi thanh xuân : "Chưa chắc là tôi dại. Ai khôn mới biết hiến
mình cho chân lý, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời".
Phêrô Vũ Truật sinh năm
1817 ở làng Hà Thạch, họ Kẻ Thiếc, huyện Sơn Vy, trấn Sơn Tây. Gia đình anh rất
nghèo, cha chết sớm, vốn liếng lại chẳng có, mẹ anh phải đầu tắt mặt tối suốt
ngày,để nuôi ba con dại, nên Phêrô Truật không được đi học và gầy yếu xanh xao.
Tuy nhiên, anh Truật có
lòng đạo đức, thường lui tới nhà thờ kinh lễ, nên được cha Tân chánh xứ Bầu Nọ
chọn vào phục vụ những việc nhẹ trong xứ và tạo điều kiện cho ăn học. Dầu thế mặc
lòng, anh Truật cũng chẳng bằng ai, phần trí khôn hơi chậm, phần hay bị đau ốm
luôn, anh chỉ có thể biết đọc biết viết sơ sơ. Bù lại, anh rất thuộc kinh, nên
đặc trách việc dạy kinh truyền khẩu cho các thiếu nhi nhỏ tuổi.
Mãi đến khi bị bắt giam
trong ngục tù rồi, Đức cha Havard Du mới chứng nhận anh là thày giảng, vừa để
lòng tin làm chứng cho đức tin. Thày Truật tuy không còn cơ hội để giảng bằng lời
nói, nhưng thái độ kiên tín của thày chính là lời giảng có sức thuyết phục hơn
nhiều.
Ba tấm lòng vàng
Ở Bầu Nọ có người ngoại
giáo tên Đức cầm đầu một băng cướp đã bị bắt. Để nhẹ tội, y nói với vợ là Yến
vu oan cho cha Cornay Tân tội tổ chức phản loạn. Chị ta liền giả vờ đến xin học
đạo để dò xét những nơi cha thường trú ẩn. Khi biết được, chị ta liền giấu vũ
khí trong vườn nhà cha, rồi đi mật báo cho các quan tỉnh Sơn Tây.
Ngày 20-6-1837, quan Sơn
Tây phái 1500 quân lính đến làng Bầu Nọ, bắt linh mục Tân. Hai thày Mỹ và Đường
cũng như anh Truật ngồi lẫn vào đám đông dân chúng bị tập trung nơi đình làng.
Lính lục soát từ sáng tới trưa vẫn không thấy cha Tân đâu cả. Bà Yến liền bày
cho họ bắt anh Truật và hai thày Mỹ, Đường, là những người thân thiết với cha xứ
để tra hỏi.
Chiều hôm đó, lính phát hiện
được cha đang ẩn trong bụi rậm. Nhưng để có thêm nhân chứng ghép tội cha, ba vị
phụ tá này cũng bị áp giải với ngài hơn sáu dặm đường, về nhà lao tỉnh Sơn Tây.
Tại công đường, ba vị đã khéo léo minh chứng cha xứ không theo giặc nổi loạn,
và giải thích những lời đồn đại sai về đạo. Thí dụ quan hỏi : "Sao các ông
móc mắt người chết để luyện bùa phép ?" Thày Mỹ trả lời : "Không lẽ
quan tin những lời đồn đãi vô lý đó sao ? Bởi nếu chúng tôi làm như thế, cha mẹ
vợ con họ đâu để cho chúng tôi yên. Vậy mà chúng tôi vẫn ra vào nhà họ, gặp gỡ
thân ái và vui vẻ"
Các cuộc thẩm vấn thường
đi liền với những tra tấn dã man. Đây là chứng thư của thày Mỹ: "Lính lột
áo chúng tôi ra, bắt chúng tôi nằm xuống lấy dây thừng cột tay chân, rồi kéo
căng cột vào bốn góc, nguyên sự căng nọc cũng làm chúng tôi đau đớn vô cùng, thế
rồi họ bắt đầu đánh đòn… Cuối cùng họ không đánh bằng một chiếc roi nữa mà là cả
bó. Mỗi lần đánh hằng trăm đầu roi mây in lằn trên da thịt chúng tôi, tạo nên
nhiều vết thương đẫm máu…"
Riêng thày Truật vì ốm yếu
nên được đeo gông nhẹ hơn và bị ít đòn hơn. Nhưng sau mỗi kỳ tra tấn cả ba người
đều bị kiệt sức, phải khiêng về ngục thất. Ngày 20-9, lính canh tù loan tin cha
Tân đã bị trảm quyết, và khuyên các thày bỏ đạo cả ba vị cùng nói : "Chúng
tôi mừng vì thày chúng tôi được tử đạo, chúng tôi nguyện theo gương Ngài."
Giai đoạn này thày Mỹ ghi
lại một lá thư : "Suốt bốn tháng liền chúng tôi bị gông cùm xiềng xích, chịu
lính canh ngược đãi, phòng giam ẩm thấp hôi hám, ruồi muỗi tự do hoành hành,
trên người thì đầy những vết thương bị tra tấn."
Tháng 10 bản án tỉnh Sơn
Tây tâu vua Minh Mạng được chuẩn phê và gởi về. Nhưng thay vì giết ngay bản án
quyết định "giam hậu" nghĩa là khoan xử chờ quyết định mới, bề ngoài
có vẻ nhân đạo, nhưng thật ra bên trong rất thâm độc. Với thời gian nhiệt tình
ban đầu có nguy cơ phai nhạt, vì tử tội luôn bị ám ảnh đến chuyện phải ngồi tù
không biết đến bao giờ. Đàng khác sự chịu đựng con người có hạn, quá khổ đau,
quá mòn mỏi, quá thất vọng, con người dễ bị lung lạc và dễ bị thay đổi ý định.
Thực tế ba thày giảng phải chờ thêm 14 tháng, vị chi tất cả là một năm rưỡi bị
giam cầm. Nhưng suốt thời gian bị giam cầm thử thách lâu dài đó, ba thày vẫn gắn
bó với nhau trong nhẫn nại, can đảm và giữ mãi phúc tử đạo, mỗi sáng cũng như mỗi
tối, các thày lớn tiếng đọc kinh Mân Côi chung, cầu nguyện chung, các đồ ăn thức
uống, thuốc men nhận được ba vị chia sẻ cho lính canh, ai đến thăm đều được
khuyên nhủ : "Anh em hãy sống hòa thuận với mọi người trong gia đình, làng
nước, hãy là giáo hữu nhiệt thành, vì đời sống trần gian chẳng là bao. Chúng
tôi đã vâng theo ý Chúa định đoạt, hy vọng mai này chúng ta sẽ đoàn tụ trên Nước
trời"
Cha Triệu giả làm thường
dân mang Mình Thánh Chúa cho các thày, đó quả là hồng phúc lớn lao. Ta thử đọc
tâm sự của thày Đường gởi cho cha Marette trong thư : "Hôm nay là ngày trọng
đại chúng con được rước Mình Thánh Chúa. Xin tạ ơn Chúa đã viếng thăm và làm
vơi nhẹ những xiềng xích của chúng con… cửa Thiên Đàng đã gần kề, nghĩ đến hạnh
phúc đang chờ đợi, chúng con chẳng còn ước ao sự gì khác nữa…"
Cùng Chiến Thắng Vinh
Quang
Năm 1838, triều đình duyệt
lại bản án và chỉ thị cho quan tỉnh Sơn Tây thi hành. Ngày 18-12 ba chứng nhân
anh dũng bị điệu ra pháp trường ở Gò Vôi làng Mông Phụ, tỉnh Sơn Tây. Mỗi người
mang trên ngực tấm thẻ ghi tên họ, nguyên quán, tội theo đạo Giatô, đã thú nhận,
truyền xử trảm. Trên đường đến nơi hành quyết, như đã hẹn trước ba thày cùng
làm dấu khi thấy cha Triệu đứng giữa dân chúng ban phép lành tha tội. Một người
lính cho các Ngài uống rượu, ba vị cám ơn, uống nước trà và nói : "Thày giảng
chúng tôi kiêng rượu như kiêng sắc dục và kiêng phản bội."
Đến nơi xử, ba thày nằm
dài trên chiếu, quân lính quây thành một vòng tròn lớn, để ngăn cản dân chúng.
Từng vị một bị trói chân vào cột và trói chéo tay ra sau lưng. Dây thừng tròng
sẵn vào cổ. Giữa tiếng chiêng trống vang rền, theo lệnh quan mỗi tên lính nắm
chặt đầu dây xiết thật căng, chờ tới khi tất cả tắt thở, máu ứa ra miệng. Sau
đó lấy lửa đốt gan bàn chân để xác nhận các tử tội đã chết thật rồi. Cha
Marette và giáo dân đưa thi hài ba thày về họ Kẻ Măng gần đấy tẩm liệm. Ngài
dâng lễ cầu hồn tạ ơn Chúa đã cho các bậc tôi trung thắng trận khải hoàn.
Đức Lêô XIII suy tôn ba
thày Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Phêrô Trương Văn Đường và Phêrô Vũ Truật lên bậc
chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các
ngài lên bậc Hiển thánh.
Nguồn từ thư viện Đa Minh
Trường thi tử Đạo.
Thầy giảng Phêrô Vũ Truật
Sinh Bính Tý (1817) quê thật
Hà Nam
Bị bắt tra tấn dã man
Vẫn trung thành chịu chẳng
than chẳng buồn
Trước đau khổ thầy luôn
tin tưởng
Vững một lòng theo hướng
Chúa đi
Mồ côi cha muốn tu trì
Mẹ chiều chấp thuận đưa đi
nhà thờ
Vào Cha Tốn xin nhờ giúp đỡ
Ðược ngài thương cho ở học
hành
Thân hình ốm yếu xanh xanh
Không làm việc nặng hiền
lành khôn ngoan
Hay đau yếu bỏ ngang việc
học
Mẹ đón về săn sóc dưỡng
nuôi
Buồn lòng đây đó ngược
xuôi
Cha Tốn thương hại nhận
nuôi giúp ngài
Học giáo lý và sai việc nhẹ
Dạy bổn kinh lanh lẹ theo
Cha
Cha Tốn ngài đổi đi xa
Cố Phan trao lại ngài đà
nhận ngay
Ngài nuôi dưỡng tiếp tay
giúp việc
Lính quân quan khắp miệt bổ
vây
Chú Truật bị bắt nơi này
Hiên ngang xưng đạo trình
bày với quan
Ðức Cha Tabud phong làm Thầy
giảng
Tuổi nhỏ thôi nói phản lại
quan
Xác thân ốm yếu làng nhàng
Ðòn roi sao chịu khỏi mang
gông cùm
Thấy gầy ốm thấp lùn quan
dọa
Quá khóa mau ta thả cho về
Lời quan nói thật u mê
Mẹ cha quan dám dễ bề bước
qua
Cây Thập giá giường Cha trời
đất
Ngài là Ðấng chân thật tôn
thờ
Bước qua tôi chẳng bao giờ
Thà rằng chịu chết sẵn chờ
đầu bay
Quan tức giận hẹn ngày đem
xử
Ở trong tù Thầy cứ truyền
rao
Hồng ân tử đạo tự hào
Cha Triệu thăm viếng ban
trao Máu Mình
Mẹ của Thầy một mình thăm
viếng
Nhủ khuyên con hai tiếng
kiên trì
Mặc dù bão táp hiểm nguy
Mẹ mong con mẹ hãy thì giảng
rao
Hãy vững chí chớ đừng khuất
phục
Mẹ yên tâm, tiếp tục tuyên
xưng
Hiên ngang rao giảng Tin mừng
Con không ân hận, không ngừng
nguyện xin
Sau bão táp ong tìm về tổ
Vững lòng tin Chúa đổ ơn
lành
Ngày mai Giáo hội tươi
xanh
Quê hương Nước Việt vinh
danh Chúa Trời
Sao lại bảo dở hơi dại dột
Chết vì Ngài ngu dốt hay
sao
Hy sinh tuôn đổ máu đào
Chứng nhân cho Chúa Trời
cao hộ phù
Hưởng nhan Chúa thiên thu
vĩnh cửu
Ngài giáng trần để cứu chuộc
ta
Con xin dõi bước theo Cha
Vác cây Thập Giá để mà hy
sinh
Rồi sau đó lý hình dẫn giải
Cả ba Thầy đều phải nằm
xoài
Sợi giây thắt cổ khá dài
Chôn hai cột lớn quan sai
lính cầm
Vị quan xử trung tâm ngồi
giữa
Lệnh truyền ra sắp sửa thi
hành
Hai đầu giây xiết thật
nhanh
Cả ba tử tội trở thành cố
nhân
Các giáo dân lo phần mai
táng
Công việc nhiều gần sáng mới
chôn
Giữa nhà bà Tín trong thôn
Kẻ May giáo xứ sớm hôm
nguyện cầu
Năm Mậu Tuất (1838) ngõ hầu
tử đạo
Thật dã man tàn bạo quân
quan
Canh Tý (1900) Toà Thánh lệnh
ban
Suy tôn Chân phước liên
hoan Thiên đàng
Lời bất hủ:
Quan tra hỏi và chê bai thầy là dại dột lãng phí tuổi thanh xuân, thầy trả lời:
"Chưa chắc là tôi dại. Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý, để chiếm hữu
phần gia nghiệp muôn đời".
http://tinmung.net/CACTHANH/118ThanhTDVN/INDEX.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét