VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Tôma Nguyễn Văn Ðệ, giáo dân
Ngày 19 tháng 12
Tin mừng Máccô 8,34-38
Những điều kiện để theo Đức Giê-su
34 Rồi Đức
Giê-su gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: "Ai
muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.35
Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình
vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.36 Vì được cả
thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì?37
Quả thật, người ta lấy gì mà đổi lại mạng sống mình?38 Giữa thế hệ
ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì tôi và những lời tôi dạy, thì Con
Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên
thần, trong vinh quang của Cha Người."
34 He summoned the crowd with his disciples and said 8 to them,
"Whoever wishes to come after me must deny himself, take up his cross, and
follow me.
35 For whoever wishes to save his life will lose it, but whoever
loses his life for my sake and that of the gospel 9 will save it.
36 What profit is there for one to gain the whole world and
forfeit his life?37 What could one give in exchange for his life?38 Whoever is
ashamed of me and of my words in this faithless and sinful generation, the Son
of Man will be ashamed of when he comes in his Father's glory with the holy
angels."
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề của hình này là gì ?
………………………………………………….
* Bạn hãy viết câu Tin mừng thánh Máccô 8,34b
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. Giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì tôi và những lời tôi
dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với ai,
trong vinh quang của Cha Người ?(Mc 8,38)
a. Chúa Thánh Thần
b. Các thánh thiên thần
c. Các thánh tông đồ
d. Các thánh của Người
a2. Giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì tôi và những lời tôi
dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các
thánh thiên thần, trong điều gì của Cha Người ? (Mc 8,38)
a. Yêu thương
b. Vinh quang
c. Tha thứ
d. Ngày Quang lâm
a3. Giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì tôi và những lời tôi
dạy, thì Con Người cũng sẽ có thái độ thế nào vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng
với các thánh thiên thần, trong vinh quang của Cha Người ?(Mc 8,38)
a. Từ chối
b. Khinh miệt
c. Hổ thẹn
d. Tha thứ
a4. Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất sự gì, thì người ta nào có lợi gì ?
(Mc 8,36)
a.
Gia đình
b.
Mạng sống
c.
Tình yêu
d.
Của cải
a5. Đức Giêsu nói ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác cái gì của mình
mà theo? (Mc 8,34)
a.
Đau khổ
b.
Thập giá
c.
Gánh nặng
d.
Thập hình
B.
Giáo dân Tôma Nguyễn Văn Ðệ
b1. Giáo dân Tôma Nguyễn Văn Ðệ, Sinh năm 1810 tại Bồ Trang, Nam Ðịnh,
dòng ba Ða Minh, chịu tử đạo dưới triều vua nào ?
a. Vua Tự Đức (1847-1883)
b. Chúa Trịnh Sâm (1767-1782)
c. Vua Minh Mạng (1820-1841)
d. Vua Cảnh Thịnh (1782-1802)
b2. Giáo dân Tôma Nguyễn Văn Ðệ chịu tử đạo thế nào ?
a. Bị xử giảo
b. Bị xử trảm
c. Bị thiêu sống
d. Bị xử lăng trì
b3. Giáo dân Tôma Nguyễn Văn Ðệ chịu tử đạo tại Cổ Mê vào
năm nào ?
a. Năm 1773
b. Năm 1839
c. Năm 1859
d. Năm 1862
.
b4. Giáo dân Tôma Nguyễn Văn Ðệ được Giáo hoàng nào tôn phong lên bậc
chân phước (1900) ?
a. Đức Giáo hoàng Piô X
b. Đức Giáo hoàng Lêô XIII
c. Đức Giáo hoàng Piô XII
d. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII
b5. Thánh Tôma
Nguyễn Văn Ðệ được mừng kính vào ngày nào ?
a. Ngày 19 tháng 12
b. Ngày 11 tháng 10
c. Ngày 05 tháng 09
d. Ngày 26 tháng 05
III.
Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Giữa thế hệ
ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì tôi và những lời gì, thì Con Người
cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên thần,
trong vinh quang của Cha Người ? (Mc 8,36)
02. Vì được cả điều gì mà phải thiệt mất
mạng sống, thì người ta nào có lợi gì ? (Mc 8,36)
03. Đức Giêsu nói ai muốn theo tôi, phải
làm gì với chính mình, vác thập giá mình mà theo? (Mc 8,34)
04. "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ
chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Đây là lời của ai ? (Mc 8,34)
05. Đức Giêsu nói ai muốn theo tôi, phải
từ bỏ chính mình, vác cái gì của mình mà theo? (Mc 8,34)
06. Giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, ai có thái độ gì vì tôi và những
lời tôi dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với
các thánh thiên thần, trong vinh quang của Cha Người ? (Mc 8,38)
07. Ai muốn cứu sự gì của mình, thì sẽ
mất ? (Mc 8,35)
08. Đức Giêsu nói, ai muốn cứu mạng sống
mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì điều gì, thì sẽ
cứu được mạng sống ấy ? (Mc 8,35)
Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì ?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
"Ai muốn theo tôi,
phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình
mà theo.”
Tin mừng thánh Máccô 8,34b
Lời giải đáp VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Tôma Nguyễn Văn Ðệ, Giáo dân
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề
Thánh Tôma Nguyễn Văn Ðệ
* Tin mừng thánh Máccô 8,34b
"Ai muốn theo tôi,
phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.”
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. b. Các thánh thiên thần (Mc 8,38)
a2. b. Vinh quang (Mc 8,38)
a3. c. Hổ thẹn (Mc 8,38)
a4. b. Mạng sống (Mc 8,36)
a5. b. Thập giá (Mc 8,34)
B.
Giáo dân Tôma Nguyễn Văn Ðệ
b1. c. Vua Minh Mạng (1820-1841)
b2. a. Bị xử giảo
b3. b. Năm 1839
b4. b. Đức Giáo hoàng Lêô XIII
b5. a. Ngày 19 tháng 12
III.
Ô CHỮ
01. Tôi dạy
(Mc 8,36)
02. Thế giới (Mc 8,36)
03. Từ bỏ (Mc 8,34)
04. Đức Giêsu (Mc 8,34)
05. Thập giá (Mc 8,34)
06. Hổ thẹn (Mc 8,38)
07. Mạng sống (Mc 8,35)
08. Tin mừng (Mc 8,35)
Hàng dọc : Yêu Giêsu
Gb. Nguyễn Thái Hùng
XIN XEM THÊM TẠI ĐÂY
++++++++++++++++++++++++++++++++
Tôma Nguyễn Văn Ðệ (1810-1839)
Tôma Nguyễn Văn Ðệ, thợ may, Dòng Ba Ða Minh; sinh
năm 1810, tại Bồ Trang, Nam Ðịnh, chết 19/12/1839, tại Cổ Mễ dưới đời vua Minh
Mạng. Ngài bị xử giảo (thắt cổ) chết cùng với bốn người khác, trong đóa có
Ðaminh Uy, Phanxicô Xaviê Mầu, Stêphanô Vinh và một người khác vì che dấu các vị
thừa sai. 27.5.1900, Đức Giáo Hoàng Lêo XIII đã suy tôn năm vị anh hung tử đạo:
Phanxicô Xavie Hà trọng Mậu, Đaminh Bùi văn Úy, Augustinô Nguyễn văn Mới, Tôma
Nguyễn văn Đệ và Stêphanô Nguyễn văn Vinh lên bậc Chân Phước. Ngày 19.6.1988 Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong các vị lên bậc hiển thánh. Ngày Lễ kính 19
tháng 12.
Chứng Tá Tập Thể Trong Lao Tù
Đọc truyện các Thánh Tử đạo Việt Nam, không ai có thể
quên được một chứng tá tập thể của hai thầy giảng, ba giáo dân ở trong tù. Năm
vị cùng bị giam chung với cha Tự và ông trùm Cảnh, nhưng hai vị này tử đạo trước
(5.9.1838). Dù sống trong ngược đãi, dù bị kiểm soát gắt gao, năm vị đã gắn bó
với nhau trong tình anh em tha thiết, cùng sống đức tin kiên vững và nỗ lực làm
chứng cho Thiên Chúa bằng lời nói, gương sáng và bằng chính mạng sống mình.
1. Thánh Phanxicô Xavie HÀ TRỌNG MẬU, Thầy giảng
dòng ba Đaminh (1790-1839)
Thầy giảng Phanxicô Xavie Mậu không những phải chọn
lựa giữa cái chết và cuộc sống, thầy còn phải chọn lựa giữa cái chết và việc
làm quan triều đình. Không một chút lưỡng lự, thầy trả lời vị tổng đốc:
"Tôi không ham quyền, tôi chỉ muốn chết vì đạo."
Phanxicô Xavie Hà Trọng Mậu cất tiếng chào đời năm
1790 tại làng Kẻ Diền, tỉnh Thái Bình. Cậu được cha mẹ cho đi tu, trở thành thầy
giảng và đi giúp nhiều giáo xứ. Khi cha Phêrô Tự bị bắt, thầy Mậu đang coi họ Nội,
thuộc xứ Kẻ Mốt. Được tin cha và thầy Úy bị đưa về Lương Tài, thầy liền đến đó
nghe ngóng tin tức. Giáo hữu gửi thầy trọ ở nhà một lương dân phía bên kia
sông, vì nghĩ rằng lính sẽ không khám xét đến. Ai ngờ, chính người chủ nhà đi
báo cho quan kiếm tiền thưởng, thế là thầy bị bắt.
Thầy bị dẫn đến dinh quan Lương Tài. Có mặt cha Tự ở
đó. Quan hỏi thầy là ai, thầy đáp: "Thưa quan, tôi là một môn đệ thân tín
của cha đây". Cha Tự ra dấu nhắc thầy đừng khai rõ, may ra có thể chuộc về
được chăng, nhưng thầy nói nhỏ với cha: "Xin cha thương nhận con là môn
sinh, để con cũng được tử đạo với cha."
Kể từ ngày cha Tự và ông trùm Cảnh bị đem đi xử trảm,
thầy Mậu trở thành cột trụ nâng đỡ bốn người còn sót lại, là thầy Úy, các anh Mới,
Vinh và Đệ. Thầy nhắc anh em sống huynh đệ, an ủi giúp đỡ nhau. Thầy đại diện
anh em viết thơ ra ngoài, hoặc trả lời với các quan. Đặc biệt thầy động viên
anh em hăng hái làm việc tông đồ ngay trong nhà tù. Trong hồ sơ phong thánh,
cha Huấn đã dựa vào các thơ của thầy làm chứng rằng: "Thầy Mậu vẫn dạy
giáo lý cho các tù nhân, và rửa tội được bốn mươi bốn người. Trong đó có một tử
tội tên Hưng mới học đạo một tháng thì đến ngày xử, anh xin quan hoãn lại ít giờ
để rửa tội, sau đó vui vẻ tiến ra pháp trường...".
Khi quan nói: "Kẻ nào chết vì không chịu bước
qua thập giá là ngu dại, không biết thương cha mẹ già." Thầy giải thích:
"Thưa quan, cha mẹ sinh chúng tôi, nhưng ngay cha mẹ chúng tôi có ở trên đời,
cũng là nhờ quyền năng của Chúa." Khi quan tuyên đọc bản án xử tử, thầy
bình tĩnh đáp lại: "Thưa quan, chúng tôi mong ước về với Chúa, như nai
mong tìm thấy suối vậy. Xin quan cứ thi hành án lệnh của Đức vua."
2. Thánh Đaminh BÙI VĂN ÚY Thầy giảng dòng ba Đaminh
(1812-1839)
"Nếu tôi cả gan bước lên thánh giá, thì tôi xúc
phạm đến Chúa và bất hiếu với cha mẹ. Vì song thân sinh ra tôi, đã dạy tôi
trung thành với niềm tin cho đến chết."
Thầy Đaminh Úy đã đặt trọn niềm tin của mình trong truyền
thống tiên tổ. Không biết cha mẹ căn dặn thầy trung kiên dù phải tử đạo vào lúc
nào, khi mới có bách hại hay khi vào thăm trong tù? Nhưng rõ rệt là với thầy,
phản bội đức tin là phản lại những người đã nhọc công vun trồng niềm tin cho
mình.
Đaminh Bùi văn Úy sinh năm 1812 tại họ Tiền Môn,
làng Kẻ Rèm, tỉnh Thái Bình. Từ bé cậu đã được gia đình gửi vào nhà xứ sống với
cha Tự. Sau khi học thành thầy giảng thầy luôn hoạt động bên cha tại giáo xứ Kẻ
Đanh rồi Kẻ Mốt (Bắc Ninh), thì bị bắt, lúc đó thầy mới 26 tuổi. Bất cứ ai gặp
thầy Úy đều công nhận thầy hiền lành, có lòng yêu mến Chúa đặc biệt và là người
trợ thủ đắc lực của cha Tự trong công tác, nhất là khi cuộc bách hại của vua
Minh Mạng bùng nổ. Ước mơ lớn nhất của thầy là được đóng vai "Lê Lai thế mạng"
để cha Tự khỏi bị bắt. Khi đào hang trú ẩn, thầy làm hai ngăn rồi tình nguyện ở
ngăn bên ngoài. Thầy nói với mọi người: "Nếu các quan đến truy lùng, tôi sẽ
ra trước nộp mình để cha khỏi bị bắt, hầu cha có thể giúp anh chị em."
Ngày 29.6.1838, lính đến vây làng Kẻ Mốt, đã bắt thầy
Úy chung với cha Tự. Cha dự định khai thầy chỉ là giáo hữu vào làm bếp để đỡ
nguy hiểm, nhưng thầy nói: "Xin cha cứ nói con là thầy giảng, may ra cùng
được phúc tử đạo với cha"
Rồi thầy xin xưng tội để chuẩn bị tâm hồn. Một lần
tương kế tựu kế, quan nói dối thầy: "Cha Tự xuất giáo rồi, sao anh còn cố
chấp thế?" Thầy bình tĩnh trả lời: "Vô lý, cha tôi không bao giờ làm
vậy, mà dù có thực như thế, tôi cũng không chịu xuất giáo đâu."
Lần khác, quan như muốn dạy khôn thầy: "Anh còn
trẻ, hãy nghĩ lại và khôn hơn một chút, ta chỉ yêu cầu anh bước qua một khúc gỗ
mà." Thầy Úy đáp: "Đúng là khúc gỗ, thưa quan, nhưng khúc gỗ đó lại
tượng trưng cho Chúa tôi thờ. Quan nghĩ sao nếu tôi giày đạp lên ảnh vẽ hình
cha mẹ tôi?" Hôm khác, khi bị dụ dỗ bước qua thánh giá, thầy khẳng khái
nói: "Thưa quan, quan có dám bước qua mặt đức vua không, mà lại bảo tôi bước
qua mặt Chúa tôi? Nhưng dù quan có bước qua mặt vua, thì tôi cũng không bước
qua mặt Chúa tôi được."
Quan nghiêm nghị phán: “Tên phạm thượng, ta sẽ chém
đầu mi." Người chiến sĩ đức tin vui vẻ reo lên:
"Anh em ơi, tôi sắp được chém rồi".
Nhưng phúc trường sinh đến với thầy không quá sớm
như vậy.
3. Thánh Augustinô NGUYỄN VĂN MỚI Nông dân dòng ba
Đaminh (1806-1839)
Tuy là một tân tòng mới theo đạo, anh Augustinô Mới
đã biểu lộ một đức tin kiên cường, không thua kém gì những Kitô hữu vững tin nhất.
Augustinô Nguyễn văn Mới sinh năm 1806 tại làng Bồ
Trang tỉnh Thái Bình, trong một gia đình nông dân ngoại giáo. Đến tuổi trưởng
thành, anh đến làng Đức Trai, xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) để làm thuê làm mướn. Tiếp
xúc với giáo hữu ở đây, càng ngày càng thấy mến đạo, và xin theo học giáo lý.
Năm 31 tuổi, anh được cha Tự rửa tội và đặt tên thánh bổn mạng là Augustinô.
Mấy năm sau, cha Tự cũng chủ sự lễ thành hôn cho anh
với một thiếu nữ trong xứ. Theo các lời chứng trong hồ sơ phong thánh, anh
Augustinô Mới sống đạo rất tốt, đặc biệt là đọc kinh Mân Côi mỗi tối. Dù có
ngày lao động vất vả đến mãi khuya mới về, anh cũng không quên kinh Mân Côi
kính Đức Mẹ.
Ngày 29-6-1838, khi quân lính bao vây làng Kẻ Mốt và
bắt cha Tự, họ buộc toàn dân phải ra đình điểm danh, rồi bước qua thánh giá. Một
số tín hữu nhanh chân lẫn tránh được, một số nhát gan thực hiện lời yêu cầu của
lính. Các anh Mới, Vinh và Đệ cương quyết không chịu đạp lên thánh giá, nên bị
bắt và áp giải chung với cha Tự, ông trùm Cảnh và hai thầy Úy và Mậu lên giam tại
Bắc Ninh.
4. Thánh Tôma NGUYỄN VĂN ĐỆ Thợ may dòng ba Đaminh
(1811-1839)
Hai mươi tám tuổi đời, một người vợ ba người con, đó
là mối ưu tư trắc trở của anh Tôma Đệ trong những ngày bị giam cầm. Không thể bỏ
đức tin, nhưng tương lai của người vợ trẻ và đàn con dại sẽ ra sao? Trong nhiều
ngày anh suy nghĩ và tha thiết cầu nguyện xin Chúa soi sáng. Cuối cùng anh tìm
được an bình trong tâm hồn, phó thác tất cả trong bàn tay Chúa quan phòng. Anh
nói với người vợ đến thăm:
"Đừng khóc mình ạ. Mình về dạy dỗ các con nên
người, dạy chúng thờ phượng Chúa. Tôi đã dâng mình và các con cho Ngài. Nhớ cầu
xin Chúa cho tôi thêm sức mạnh để nhẫn nại đến cùng."
Ra đời trong một gia đình Công giáo tại làng Bồ
Trang, tỉnh Thái Bình năm 1811, Tôma Nguyễn văn Đệ vì lý do sinh kế, theo cha mẹ
về xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) và ở ngay gần nhà thờ. Lớn lên anh theo nghề thợ may và
được mọi người yêu chuộng. Anh rất nhiệt tình với việc trong xứ trong họ. Hầu hết
cờ quạt, đồ trang hoàng trong nhà thờ và nhà xứ đều nhờ đến bàn tay khéo léo và
sáng tạo của anh. Khi kinh tế gia đình ổn định, anh lập gia đình, ra ở riêng và
sinh hạ được ba người con.
Ngày 29.6.1838, quân lính vây làng Kẻ Mốt, và ép buộc
mọi người trên 18 tuổi phải đạp lên thánh giá. Anh lẩn trốn ra phía sau nhà. Đến
khi quân lính xồng xộc vào nhà lùng bắt, anh biết mình không thể tránh được nữa,
liền giã từ vợ, dặn đưa con về bên ngoại, ôm hôn từng đứa rồi ra trình diện. Đến
trước thánh giá, anh Đệ quỳ xuống cầu nguyện lớn rằng: "Lạy Chúa, sẽ không
bao giờ con bước qua mặt ngài."
Quân lính áp giải anh Tôma Đệ cùng với cha Tự ông
trùm Cảnh, hai thầy Úy, Mậu và các anh Mới và Vinh về giam tại Bắc Ninh.
5. Thánh Stêphanô NGUYỄN VĂN VINH Tá điền dòng ba
Đaminh (1813-1839)
Thánh Stêphanô Vinh là một trường hợp hy hữu, trong
danh mục các thánh tử đạo Việt Nam. Khi bị bắt, anh mới chỉ là dự tòng chưa được
rửa tội. Nhưng với những hiểu biết ít ỏi về đạo, anh đã kiên trì làm chứng cho
chân lý. Mặc dù khi vô tù anh mới chính thức gia nhập đạo, rồi thành hội viên
dòng ba Đaminh, nhưng anh không thua kém ai về lòng can đảm tuyên xưng niềm tin
vào Thiên Chúa.
Stêphanô Nguyễn văn Vinh sinh năm 1813 tại làng Bồ
Trang tỉnh Thái Bình. Sống trong một gia đình ngoại giáo rất nghèo, một miếng đất
cũng không có, anh Vinh quanh năm phải làm thuê làm mướn cho các gia đình Kẻ Mốt
(Bắc Ninh). Trường học duy nhất anh ham thích và theo được là các lớp giáo lý,
nơi anh tập đánh vần và học truyền khẩu. Đặc biệt anh đem các điều học ở đó ra
thực hành trong cuộc sống. Có điều là người ta không biết vì sao anh chưa được
rửa tội. Mọi người đều mến thương anh vì anh đơn sơ, chất phác, khỏe mạnh và thật
thà. Trong công việc anh không bao giờ làm cho qua loa chiếu lệ, ai thuê việc
gì, anh cũng chu toàn tốt đẹp không cần kiểm soát, không có gì để chê trách.
Cho đến khi bị bắt (lúc 26 tuổi) anh vẫn sống độc thân chưa lập gia đình.
Ngày 29.6.1838, khi quan quân vây bắt cha Tự ở Kẻ Mốt,
và bắt mọi người phải đạp qua thánh giá, chàng thanh niên 25 tuổi này đã anh
dũng nói thẳng với họ rằng: "Tôi thà chết chứ không bao giờ chịu đạp lên
thánh giá, vì tôi biết đạo Chúa Giêsu là đạo thật."
Vì lời nói này, quan quân tưởng anh là người trong đạo,
thế là họ bắt anh Vinh và áp giải về trại giam Bắc Ninh chung với cha Tự, ông
trùm Cảnh, thầy Úy, thầy Mậu, anh Mới và anh Đệ. Chính tại đây, anh Vinh được
diễm phúc làm người Kitô hữu, được hân hạnh làm con Cha Thánh Đaminh. Suốt hành
trình tử đạo, anh là một nhân chứng trầm lặng, chỉ đồng tình với các vị khác,
nhưng gông cùm, xiềng xích và tra tấn không lần nào có thể làm anh sa ngã hay
thối chí. Chọn quan thầy Stêphanô trong tù, anh cương quyết noi theo vị tử đạo
tiên khởi của Giáo hội đến hơi thở cuối cùng.
Lời An Ủi Ấm Lòng
Sau một tháng dọa nạt tra khảo bảy chiến sĩ đức tin
nhưng vô hiệu, ngày 27.7.1838, quan tỉnh Bắc Ninh đệ án vào triều xin xử giáo
cha Tự và ông trùm Cảnh, còn năm vị kia quan cho là nhẹ dạ tin theo, nên xin
đánh mỗi người một trăm roi rồi phát lưu vào Bình Định. Luật vua thời đó xử giảo
các phù thủy, đồng cốt, còn những kẻ a dua chỉ bị đánh đòn và phát lưu ba trăm
dặm. Thế nhưng vua Minh Mạng cho rằng tội theo đạo Gia-tô thuộc loại nặng hơn,
nên quyết định xử chém hai vị trên ngay tức khắc, còn tất cả sẽ bị xử giảo sau
một năm nếu không chịu thay đổi ý kiến.
Ngày 5.9.1838, khi biết tin cha Phêrô Tự và ông trùm
Cảnh đã bị chém tại pháp trường Kinh Bắc, năm vị trong ngục buồn bã nhớ thương.
Thầy Mậu kêu gọi anh em ngồi lại bên nhau cùng đọc kinh, vừa khích lệ nhau, vừa
ôn lại những lời khuyên của cha mình. Sau đó ba buổi tối, như chính các vị thuật
lại, trong lúc họ đang cầu nguyện, thì bất ngờ tất cả đều thấy như cha Tự hiện
ra ngay bên an ủi họ: "Các con đừng buồn, chắc chắn các con sẽ còn được chết
vì đạo. Tuy nhiên, các con sẽ còn phải qua một thời gian thử thách nữa, để xứng
đáng với phúc trọng này." Có thể đó chỉ là giấc mơ chứ không phải sự thật,
cũng có thể đó là lời nhắn nhủ cuối cùng của vị linh mục, nhưng kể từ ngày đó họ
hết sầu buồn, tìm lại được can đảm để nêu gương ngay trong cảnh quẫn bách ở
trong trại giam.
Tuyên Khấn Trong Ngục Tù
Ấn tượng ghi nét sâu đậm vào lòng năm vị chứng nhân
là lời cha Tự trong ngày lãnh phúc tử đạo. Cha mặc áo dòng và nói với mọi người
về chiếc áo đó. Trước đây bốn vị, đến khi vào tù có thêm anh Vinh, đã mặc áo
dòng ba Thánh Đaminh, nhưng chưa ai khấn cả. Thầy Mậu liền viết thơ cho cha Huấn
dòng Đaminh để bày tỏ niềm ước nguyện được hiệp thông với dòng cách trọn vẹn.
Thầy viết:
"Chúng con tất cả là năm tập sinh của dòng ba
Đaminh, nhưng chúng con không thể giữ chay đủ các ngày thứ Hai, thứ Tư, thứ Sáu
và thứ Bảy được, nên chúng con xin cha thương rộng phép chuẩn chước cho sự thiếu
sót đó. Qua thơ này, chúng con xin tuyên khấn trọn đời. Vì chúng con không thể
đọc lời tuyên khấn trong tay cha được, nên bằng những dòng viết này chúng con
coi như thực sự tuyên khấn trước mặt cha vậy, xin cha cho phép."
"Để tôn vinh và ngợi khen Thiên chúa toàn năng,
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng con là Phanxicô, Đaminh,
Augustinô, Tôma và Stêphanô, trước mặt cha Huấn, đại diện cha Hermosilla, giám
đốc dòng ba hãm mình Thánh Đaminh chúng con xin hứa và ước ao giữ lề luật và tập
tục của dòng cho đến chết."
Những chữ "cho đến chết" trong ngục tù khi
đó chắc hẳn phải có âm vang đặc biệt đối với các vị. Được nối kết với truyền thống
hơn sáu trăm năm truyền giáo của Thánh Phụ và một dòng tu lớn trong Giáo hội, từ
nay năm anh em tích cực hơn với việc tông đồ. Dưới sự điều hành của thầy Mậu,
năm hội viên dòng ba chia nhau tiếp xúc gặp gỡ các bạn tù, giới thiệu với họ về
Thiên Chúa, cắt nghĩa giáo lý, rồi dẫn họ đến thầy Mậu lãnh nhận bí tích rửa tội.
Ít ra các vị đã rửa tội được bốn mươi bốn người. Ngục tù giờ đây trở thành nguyện
đường, hằng ngày vang lên những lời chúc tụng Thiên Chúa, lời cầu nguyện cho
Giáo hội và cho mọi người, mọi giới được đầy tràn ơn lành của Ngài.
Làm Chứng Trước Quan Quyền
Thấm thoát hơn một năm đã trôi quan, triều đình quyết
định lại việc xử giảo cả năm người. Ngày 19.8.1839 quan cho điệu tất cả ra tòa,
vẫn để thánh giá một bên, bên kia là dụng cụ tra tấn. Quan nói: "Các anh bị
giam cầm đã lâu ngày, chịu khổ cũng đã nhiều, vậy bỏ đạo đi, ta tha về với vợ
con." Thầy Mậu đại diện anh em trả lời: "Chúng tôi đã quyết tâm trung
thành với Chúa, nếu quan ra lệnh chém đầu hay giết cách nào khác, chúng tôi đều
sẵn sàng."
Rồi cả năm vị quỳ xuống bái lạy thánh giá và cầu
nguyện: "Lạy Chúa, xin cứu chúng con, con xin phó thác hồn con trong tay
Chúa."
Thất vọng, quan cho lính đưa tất cả về ngục và thốt
lên: "Bọn này không thể tha thứ được, mà chúng có thèm được tha đâu."
Ngày 24.11, năm vị phải ra toà một lần nữa. Quang cảnh
vẫn như lần trước, và các tôi tớ Chúa vẫn một mực cương quyết không chối đạo.
Thầy Mậu thay mặt anh em nói với quan: "Chúng tôi chỉ tôn thờ một Thiên
Chúa là Cha chung muôn loài, là Vua trên hết các vua, là Đấng chúng tôi mong được
đổ máu ra để chứng tỏ lòng trung thành và yêu mến."
Như Nai Rừng Mong Mỏi Tìm Về Suối Nước Trong Ngày
19.12.1839, trước khi đi xử, quan cho năm vị một cơ hội cuối cùng. Ông nói:
"Chỉ cần đi ngang qua phía chân tượng, ta cũng tha." Sau ông lại nói:
"Chỉ cần đi vòng quanh tượng ta cũng tha." Nhưng các vị chứng nhân đức
tin không dễ bị mắc lừa, họ bảo nhau quỳ xuống đọc kinh Kính Danh Chúa Giêsu.
Có lẽ do ảnh hưởng những lời kinh Giáo hội trong mùa Vọng, đón chờ Chúa giáng
sinh, thầy Mậu nói với quan những lời kinh Thánh vịnh 41 (c 1-2): Thưa quan,
chúng tôi ước mong về Chúa như nai mong tìm thấy suối vậy. Xin quan cứ thi hành
án lệnh của nhà vua."
Biết không thể làm nao núng ý chí sắt đá của những
con người này được nữa, quan liền truyền đem đi xử với bản án như sau: "Bọn
gian ác theo Gia-tô tả đạo, mặc dầu đã khuyên răn sửa phạt, vẫn ngoan cố không
chịu bước qua thập giá, nay chúng bị xử giảo"
Trên đường ra pháp trường, thầy Mậu rảo chân bước đi
trước, các anh khác bước theo sau, tất cả đều tỏ ra hân hoan kiên cường. Dân
chúng hiếu kỳ đi xem rất đông và xì xào với nhau là các vị này bị giết oan.
Theo gương thầy Mậu, các chứng nhân tươi cười với mọi ngườỉ: "Anh em chúng
tôi đang tiến về thiên đàng đây." Khi tới nơi xử, mỗi vị bị trói vào một cọc
đã chôn sẵn. Rồi cùng một lúc, lý hình xiết cổ các vị bằng giây thừng cho đến
lúc tắt thở. Các tín hữu đem thi thể các vị về an táng ở họ đạo mình. Thánh Mậu
ở Kẻ La, Thánh Úy ở Đồng Tiến, Thánh Mới ở Phượng Vĩ, Thánh Đệ ở Phong Cốc và
Thánh Vinh ở Hương La, tất cả đều thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Ngày 27.5.1900, Đức Giáo Hoàng Lêo XIII đã suy tôn
năm vị anh hung tử đạo: Phanxicô Xavie Hà trọng Mậu, Đaminh Bùi văn Úy, Augustinô
Nguyễn văn Mới, Tôma Nguyễn văn Đệ và Stêphanô Nguyễn văn Vinh lên bậc Chân Phước.
Ngày 19.6.1988 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn
phong các vị lên bậc hiển thánh.
Lễ Nhớ: Ngày 19 tháng 12
(ST)
Trường
thi tử đạo
Năm Tân Mùi (1811) sinh anh Nguyễn Ðệ
Tại Bồ Trang quan hệ Thái Bình
Kẻ Mốt là nơi mưu sinh
Thợ may anh rất nhiệt tình giỏi giang
May cờ lọng tân trang xứ đạo
Bàn tay anh kiến tạo thêm xinh
Lớn khôn anh lập gia đình
Ðời sống kinh tế thực tình ấm no
Mấy năm sau trời cho con cái
Sinh một trai hai gái xinh ngoan
Vợ anh người khéo lo toan
Gia đình đạo đức bình an trong ngoài
Thợ may anh vừa tài vừa khéo
Cứ từng ngày lôi kéo khách hàng
Vậy nên trong họ ngoài làng
Ðến may tấp nập ngày càng thêm đông
Ðang hạnh phúc thật không ngờ được
Giữa đêm khuya sau trước bủa vây
Tập trung dân sống ở đây
Từ mười tám tuổi đứng đầy một sân
Ông đội trưởng giậm chân tuyên bố
Lệnh nhà vua ban bố thi hành
Gia tô tả đạo bỏ nhanh
Bước qua Thập giá các anh trở về
Nguyễn Văn Ðệ đến kề Thánh giá
Anh ôm hôn miệng há nguyện cầu
Con không bỏ Chúa được đâu
Dù phải tra tấn rơi đầu cũng không
Tôma Ðệ lãnh gông vào cổ
Giải về giam khốn khổ Bắc Ninh
Anh cầu nguyện Chúa Chí Linh
Xin ban sức mạnh để mình vượt qua
Người vợ trẻ theo ra thăm hỏi
Anh nhủ khuyên trăn trối việc nhà
Dạy con tử tế nết na
Sống thờ phượng Chúa rồi ra thương người
Tôi đã khấn trọn đời theo Chúa
Giữ đức tin tuyên hứa với Ngài
Không bao giờ tôi lạt phai
Ðời này phải chết ngày mai khải hoàn
Phúc tử đạo huy hoàng Kỷ Hợi (1839)
Ðây là điều mong đợi của anh
Canh Tý (1900) Toà Thánh tôn vinh
Lên hàng Chân phước thực tình ngợi khen
Lời
bất hủ: Anh Toma Ðệ nói với người vợ trẻ lần cuối cùng rằng:
"Ðừng khóc mình ạ, mình hãy về dạy dỗ các con nên người, dạy chúng thờ phượng
Chúa. Anh đã dâng mình và các con cho Ngài. Nhớ cầu xin Chúa cho anh được thêm
sức mạnh để nhẫn nại đến cùng nhé".
http://tinmung.net/CACTHANH/118ThanhTDVN/INDEX.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét