Gia Đình Công Giáo
Không định chế nào lâu đời bằng gia đình. Căn cứ vào Kinh Thánh, con người xuất hiện trên trái đất lúc nào thì gia đình xuất hiện lúc ấy. Bởi trong dự tính của Thiên Chúa, gia đình xuất hiện cùng một lúc với việc sáng tạo ra con người: “Người dựng nên họ có nam có nữ… và phán với họ: hãy sinh sôi nẩy nở cho tràn mặt đất” (St 1:27-28).
Chỉ cần đọc câu trên ta cũng thấy gia đình ít nhất gồm 2 yếu tố: kết hợp nam nữ và sinh con cái. Nhưng con người thời nay không những không kiêng nể tính thánh thiêng của nó, bởi lẽ họ không tin nguồn gốc thần thánh của nó, mà còn đang coi thường cả tính lâu đời đáng nể của nó nữa, một tính lâu đời có mặt cùng khắp các nền văn hóa và tôn giáo thế giới.
Quả thế, người thời nay đang tìm cách xóa nhòa đặc điểm “nam nữ” vốn tạo ra yếu tính của nó và là một điều không thể không có của việc sinh sản con cái.
Tuy nhiên, xét cho cùng, há dự án tàn phá nói trên, một phần, không do chính những người bước chân vào cuộc sống gia đình tạo nên đó sao. Bởi vì chính những người này đã phá vỡ hình ảnh tươi đẹp của gia đình khiến những người “nhát đảm” không còn dám bước vào hành trình gia đình đúng nghĩa như Kinh Thánh đã xác định nữa. Trái lại đang cố gắng hủ hóa hành trình này theo một hướng khác hẳn, ngược với dự tính của Đấng Hóa Công, để biện minh cho tác phong lệch lạc của họ.
Chính vì thế, khi vừa lên ngôi Giáo Hoàng, Đức Phanxicô đã dồn hết tâm trí của ngài vào việc phục hồi vẻ đẹp rạng rỡ của gia đình theo dự tính ban đầu của Thiên Chúa. Liên tiếp trong hai năm 2014 và 2015, qua hai Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Gia Đình, ngài đã mời gọi toàn thể Giáo Hội Công Giáo và những người thiện chí khắp thế giới cùng suy niệm và tái tạo hình ảnh nguyên thủy của gia đình, không hẳn để đưa ra một chủ trương mới, một đề án mới, một lý thuyết mới mà là một cách sống mới nói lên vẻ đẹp tinh khôi của gia đình.
Trong chiều hướng ấy, chúng tôi sẽ lần lượt trình bầy một số khía cạnh của mục vụ gia đình. Nói đến mục vụ gia đình, dĩ nhiên nói tới khía cạnh thực hành lý tưởng gia đình. Ngoại trừ một vài thông tin nền ra, chúng tôi chỉ tập chú vào khía cạnh thực hành này mà thôi. Hạn từ gia đình ở đây cũng có nghĩa giới hạn: đó là hình thức gia đình truyền thống, gồm cha mẹ và con cái (nếu có), chứ không đề cập tới các hình thức “gia đình” đa dạng hiện nay theo cái hiểu của truyền thông thế tục.
1. Sự tương đồng liên tôn về gia đình
Trước khi đi vào mục vụ gia đình nói chung, tưởng cũng nên nói qua về gia đình truyền thống Việt Nam nói riêng. Gia đình truyền thống này, xét chung, không xa ý niệm Kinh Thánh bao nhiêu, nhất là các yếu tố cấu thành ra nó. Thực vậy, theo nhà tâm lý học Ngô Công Hoàn, gia đình này bao gồm 6 yếu tố sau đây:
- Là một nhóm xã hội có từ 2 người trở lên
- Trong gia đình, phải có giới tính (nam, nữ)
- Quan hệ trong gia đình phải là quan hệ ruột thịt huyết thống nghĩa là có quan hệ tái sản xuất con người.
- Các thành viên trong gia đình phải gắn bó với nhau về đặc điểm tâm sinh lý.
- Gia đình phải có ngân sách chung.
- Gia đình phải sống chung một nhà.
Sáu đặc điểm trên hiện vẫn còn trong tâm thức người Việt Nam. Hiện tượng ở Hoa Kỳ với 45% người dân coi một đôi không cần kết hôn nhưng chỉ sống chung với nhau vẫn được coi là một gia đình thực thụ, 33% người dân coi các đôi cùng giới tính có nuôi nấng con cái cũng là gia đình… không được người Việt Nam chấp nhận. Nếu ở Âu Tây, gia đình chỉ là một nhóm xã hội, thì ở Việt Nam, gia đình là một tế bào xã hội có tính sinh sản với đầy đủ các yếu tố cấu thành của nó như vợ – chồng – con cái.
Chính vì thế, người Việt Nam nói chung thừa nhận câu định nghĩa sau về gia đình: Gia đình là một tổ chức đặc biệt trong xã hội bao gồm các thành viên có mối quan hệ hôn nhân, huyết thống và những mối quan hệ đặc biệt khác được pháp luật hoặc cộng đồng công nhận, gắn bó với nhau bằng tình thương và trách nhiệm trong suốt cả cuộc đời, thực hiện chức năng thiêng liêng duy trì và phát triển nòi giống”.
Hiểu như trên, gia đình là tế bào căn bản của xã hội, của quốc gia. Có người cho rằng, quan điểm này chịu ảnh hưởng nặng nề của Nho Giáo. Thực vậy, Nho Giáo căn cứ vào gia đình để hình dung thế giới: gia đình êm ấm, xã hội lý tưởng.
Minh Anh, trên Tạp Chí Triết Học số 10, năm 2005, cho rằng “gia đình có vị trí quan trọng trong sự ổn định của xã hội. Vì vậy, những hành vi ứng xử và giao tiếp của mỗi thành viên trong gia đình được Nho giáo quy định chặt chẽ, phụ thuộc vào danh phận mỗi người. Những quy định này, nếu loại bỏ những yếu tố bảo thủ, mất dân chủ thì cho đến nay, vẫn còn có giá trị”.
Nho Giáo cho rằng “đã là gia đình thì phải có vợ - chồng, cha - con, anh - em. Trong gia đình thì vợ - chồng phải hòa thuận, phu xướng thì vợ phải tùy; là cha - con thì cha phải hiền từ biết thương yêu và nuôi dạy con cái, biết làm gương cho con cái học tập. Ngược lại, phận làm con phải biết ghi nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, biết hiếu thuận với cha mẹ. Đã là anh em thì phải biết đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau; là anh chị thì phải biết nhường nhịn, thương yêu; là em thì phải biết nghe lời và lễ phép với anh chị”.
Nho giáo cho rằng, “gia đình chính là một cái nước nhỏ. Vì thế, nếu ‘một nhà nhân hậu thì cả nước nhân hậu. Một nhà lễ nhượng thì cả nước ăn ở đều có lễ nhượng. Một người tham lam thì cả nước bị rối loạn’ (Đại học, chương 9). Do đó, một xã hội muốn thanh bình thì trước hết cần phải có những gia đình hòa thuận. Gia đình hòa thuận là gia đình mà mọi thành viên luôn quan tâm đến nhau, chăm lo cho nhau. Trong gia đình đó, vợ chồng sống hòa thuận thương yêu nhau, cùng nhau chăm lo nuôi dưỡng dạy dỗ con cái nên người. Cha mẹ phải luôn giữ gìn lời ăn tiếng nói cũng như tác phong làm việc của mình để làm tấm gương cho con cái noi theo. Ngược lại, con cái phải luôn hiếu kính với ông bà, cha mẹ; biết phụng dưỡng chăm sóc ông bà, cha mẹ; biết làm cho ông bà, cha mẹ được rạng rỡ và không làm việc gì khiến cho ông bà, cha mẹ phải tủi hổ với hàng xóm láng giềng. Một gia đình hoà thuận còn là một gia đình mà anh em biết bảo ban nhau cùng tiến bộ, biết thương yêu đùm bọc lẫn nhau; biết em ngã thì chị nâng”.
Đã đành lý tưởng gia đình của Nho Giáo không tránh khỏi một số thiếu sót khi quá nhấn mạnh tới khía cạnh tôn ti trật tự và nghĩa vụ sinh sản con cái, khiến tạo ra tác phong “phu xướng phụ tùy” và nếu người vợ không có con thì một là bị bỏ hai là phải cưới vợ lẽ cho chồng để có người nối dõi tông đường. Tuy nhiên, trên thực tế, cả hai điều này nay đều không còn nữa. Nhưng các yếu tố tích cực của Nho Giáo thì vẫn còn đó. Và đây là một vốn liếng vô cùng giá trị cho tất cả mọi người Việt Nam chúng ta. Vốn liếng này hoàn toàn phản ảnh các giá trị Kitô Giáo.
Thực vậy, Công Đồng Vatican II đã tóm tắt tất cả các điều trên trong đoạn 11 của hiến chế về Giáo Hội, Gaudium et Spes, “Do sự kết hợp vợ chồng mà gia đình được hình thành, từ đó sinh ra những công dân của xã hội loài người; những con người ấy nhờ ơn của Thánh Thần được trở nên con cái của Chúa qua bí tích rửa tội ngõ hầu bành trướng Dân Chúa trải qua dòng thời gian. Ở trong gia đình, tựa như trong một Giáo hội gia thất (velut Ecclesia domestica), cha mẹ phải là những người tiên phong rao giảng đức tin, bằng lời nói cũng như bằng gương lành; cha mẹ cần phải cổ võ ơn gọi riêng của mỗi người con, đặc biệt là ơn gọi tận hiến".
Yếu tố nam nữ để sinh ra con cái đã được nhấn mạnh ngay từ đầu. Mối liên hệ giữa các chủ thể này được tóm gọn trong hình ảnh “giáo hội tại gia”. Ngoài ý nghĩa một tế bào của Giáo Hội, nơi giúp cho Giáo hội được tăng trưởng và cũng là nơi hình thành Giáo hội qua việc rao truyền đức tin, giáo hội tại gia còn nhắc ta nhớ tới “thần học gia đình” của các giáo phụ, khi các vị không ngừng khuyên nhủ các đôi bạn hãy tiếp tục cố gắng duy trì nhà mình, nghĩa là gia đình thành một "Giáo hội", bởi vì gia đình là… nơi thể hiện tình yêu của đức Kitô đối với Hội thánh, nơi biểu hiện tình yêu thông hiệp giữa ba ngôi Thiên Chúa, nơi mà đức Kitô hiện diện khi có hai ba người ý hợp tâm đồng, nơi mà các thành viên thực thi bác ái không những giữa các phần tử trong nhà mà còn mở rộng tới đối với người ngoài nữa.
Theo linh mục Giuse Phan Tấn Thành, O.P., Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh tới các điểm trên trong bài giảng với các gia đình hành hương đến từ 75 quốc gia trên thế giới; một sự kiện trong khuôn khổ năm Thánh Đức Tin. Trước 150 ngàn tín hữu hôm đó, Đức Thánh Cha nói rằng: "Niềm vui chân thực mà ta nếm hưởng trong gia đình không phải là một cái gì hời hợt, không đến từ sự vật, từ những hoàn cảnh thuận tiện. Niềm vui chân thực đến từ một sự hòa hợp sâu xa giữa con ngừơi, mà mọi người đều cảm thấy trong tâm hồn, nâng đỡ nhau trên con đường đời. Nhưng ở căn cội tâm tình vui mừng sâu xa ấy có sự hiện diện của Thiên Chúa trong gia đình, có tình thương đón tiếp, của Ngài, tình yêu từ bi, tôn trọng mọi người. Và nhất là một tình yêu kiên nhẫn: kiên nhẫn là một đức tính của Thiên Chúa và Chúa dạy rằng trong gia đình phải có tình yêu kiên nhẫn như thế, mỗi người đối với nhau. Chỉ mình Thiên Chúa biết kiến tạo sự hòa hợp giữa những khác biệt. Nếu thiếu tình thương của Thiên Chúa, thì cả gia đình cũng mất đi sự hòa hợp, và thái độ duy cá nhân chủ nghĩa sẽ trổi vượt, và niềm vui bị tắt lịm. Trái lại, gia đình nào sống niềm vui đức tin thì tự nhiên cũng thông truyền, là muối đất và là ánh sáng thế gian, là men cho xã hội".
Thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2013 cũng nhắc nhở ý nghĩa của gia đình như giáo hội tại gia, khi nhấn mạnh rằng gia đình là cộng đoàn yêu thương bằng tình yêu hợp nhất thủy chung; và gia đình là cộng đoàn phục vụ sự sống…
Khía cạnh sống chung, tuy mặc nhiên đã được bao hàm trong hạn từ “kết hợp” và cả trong hạn từ “giáo hội tại gia”, nhưng vẫn đã được minh nhiên hóa trong một thuật ngữ khác của Bộ Giáo Luật năm 1983. Thực thế, Bộ Luật này đã không dùng các kiểu nói cổ điển như communio vitae, coniunctio vitae, mà chọn kiểu nói consortium vitae (GL đ. 1055 §1; 1096 §1; 1098; 1135).
Theo nguyên ngữ, “consortium” (con + sors) có nghĩa là chia sẻ một số phận, do đó có thể bao gồm một nội dung rất phong phú. Nói rằng hôn nhân là “consortium vitae” có nghĩa là một cộng đồng năng động với quyền lợi và nghĩa vụ hỗ tương giữa vợ chồng. Nó bao gồm: a) việc hai người chung sống với nhau, đùm bọc che chở nhau (communio vitae, mutuum adiutorium); b) việc thông hiệp với nhau cả hồn (yêu thương) cả xác (sự giao hợp hướng tới sự truyền sinh) một cách trường tồn và độc hữu.
Theo Đức Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc (Mầu Nhiệm Ba Ngôi, Nền Tảng Của Thần Học Về Gia Đình, tgpsaigon.net), Đức Gioan Phaolô II, với bức tâm thư gửi các gia đình năm 1994, đã đào sâu hơn nền thần học gia đình khi sử dụng hạn từ hiệp thông để nói lên mối tương quan giữa các thành viên trong gia đình: “gia đình được coi như cộng đồng những ngôi vị kết hiệp với nhau trong tình yêu (Hiệp Thông các ngôi vị). Cách hiện hữu và cách sống chung của những người trong gia đình là hiệp thông, quy chiếu về khuôn mẫu “chúng ta Thần Linh”. Chỉ các ngôi vị mới có thể sống hiệp thông… Sự hiệp thông đôi bạn làm nảy sinh cộng đồng gia đình. Chính vì thế, cộng đồng này phải thấm nhuần tình yêu hiệp thông”.
Như thế, đủ hiểu ta có thể phong phú hóa nền mục vụ gia đình của ta bằng cách thánh hóa và hội nhập một số yếu tố tích cực trong quan niệm mở rộng của truyền thống gia đình Việt Nam.
Thiển nghĩ, một trong các yếu tố đó là tinh thần gia tộc. Thực vậy, truyền thống gia đình Việt Nam coi trọng tinh thần gia tộc này, chứ không chỉ thu mình vào ý niệm gia đình hạt nhân như ở Tây Phương. Đã đành các yếu tố kinh tế xã hội hiện nay mỗi ngày mỗi ảnh hưởng xấu tới tinh thần này, nhưng nó vẫn được đại đa số các gia đình Việt Nam coi như một gia tài qúy giá nói lên tình liên đới giữa những người cùng sinh ra từ một ông tổ, gần nhất, là từ một ông bà: “Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì’; “nó lú chú nó khôn”…
Một yếu tố tích cực khác cần được hội nhập và thánh hóa là sự nối kết chặt chẽ giữa các thế hệ trong gia đình, khiến các thế hệ này luôn nghĩ tới nhau, khích lệ nhau, thậm chí còn quên mình hy sinh cho nhau. “Đời cha ăn mặn đời con khát nước”; “cây xanh thì lá cũng xanh, cha mẹ hiền lành để đức cho con”…Cụ Đào Duy Anh, trong Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, cho rằng “Người Việt Nam có cái kiến giải tầm thường và chắc chắn hơn, chỉ trông cậy vào con cháu để lưu truyền nòi giống và tiếp nối sự nghiệp của tổ tiên. Người ta đã có quan niệm ấy thì sở dĩ làm điều thiện ở đời, sở dĩ có lúc hy sinh, không phải cốt cầu vinh nhục, cũng không mong giải thoát khỏi vòng luân hồi, mà chỉ cốt lưu chút phúc ấm cho con cháu đời sau. Người có lòng ác cũng không sợ ngày thẩm phán cuối cùng hoặc ở hình phạt địa ngục mà chỉ sợ con cháu bị ác báo mà thôi”.
Ai cũng biết, Nho Giáo đã gần như “thần tượng hóa” cha mẹ khi các ngài đã qua đời và những vị “thần” này, với quyền phù hộ mạnh mẽ, vẫn quanh quẩn bên con cháu trong mọi bước đường đời của chúng. Cốt lõi của triết lý này tức mối liên kết giữa mọi thành phần của gia đình, cả sống lẫn chết, thiển nghĩ không xa lạ gì với mầu nhiệm hiệp thông các thánh của người Công Giáo.
Kỳ sau: 2. Kinh Thánh dạy gì về gia đình?
VietCatholic News
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét