GIÁO LÝ VỀ CẦU NGUYỆN CỦA ĐỨC BÊNÊĐICTÔ XVI - BÀI 45: LỜI CẦU NGUYỆN TRONG SÁCH KHẢI HUYỀN PHẦN THỨ HAI (KH 4,1-22,21)
WHĐ (12.07.2024) – Trong buổi Tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 12.09.2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI tiếp tục trình bày loạt bài giáo lý về cầu nguyện với bài thứ 43: Lời cầu nguyện trong sách Khải Huyền phần thứ hai (Kh 4,1-22,21). Sau đây là toàn văn bài giáo lý của Đức Thánh Cha.
ĐỨC BÊNÊĐICTÔ XVI
Quảng trường Thánh Phêrô
Thứ Tư, 12 tháng 09 năm 2012
Trong chương trước, tôi đã nói về cầu nguyện trong Sách Khải Huyền, phần thứ nhất. Bây giờ chúng ta bước sang phần thứ hai. Trong phần thứ nhất, lời cầu nguyện hướng về đời sống bên trong Giáo hội, thì phần thứ hai sự chú ý này đã tới toàn thể thế giới. Quả thật, Giáo hội bước đi trong lịch sử, và là một phần của lịch sử theo chương trình của Thiên Chúa. Cộng đoàn lắng nghe sứ điệp của thánh Gioan được người đọc trình bày, đã tái khám phá ra nhiệm vụ của mình là cộng tác vào sự phát triển của Nước Chúa như “các tư tế của Thiên Chúa và của Đức Kitô” (Kh 20,6; x. 1,5; 5,10), và nó mở ra cho thế giới của loài người. Ở đây, có hai cách sống trái nghịch với nhau. Cách sống thứ nhất có thể được gọi là “hệ thống của Đức Kitô”, mà cộng đoàn vui sướng thuộc về, và cách sống thứ hai là “hệ thống của thế gian, phản Nước Trời và phản Giao ước (anti-Kingdom and anti-Covenant), dưới sự ảnh hưởng của Thần Dữ”, là tên lừa dối con người, muốn xây dựng một thế giới trái nghịch với thế giới mà Đức Kitô và Thiên Chúa muốn [cf. Pontifical Biblical Commission, Bibbia e Morale. Radici bibliche dell’agire cristiano, 70]. Vì thế, cộng đoàn phải có khả năng giải thích trong chiều sâu lịch sử mà mình đang sống, qua việc biết phân định các biến cố xảy ra với con mắt đức tin, để cộng tác vào việc phát triển Nước Chúa. Việc giải thích và phân định, cũng như hoạt động này cần phải được kèm theo với việc cầu nguyện.
Trước hết, sau lời kêu gọi kiên trì của Đức Kitô đã nói bảy lần trong phần thứ nhất của Sách Khải Huyền rằng: “Ai có tai thì hãy nghe điều Thần khí nói với Giáo hội” (x. Kh 2,7,11,17,29; 3,6,13,22), cộng đoàn được mời hướng lên trời để nhìn xem thực tại với con mắt của Thiên Chúa; và ở đây chúng ta tìm thấy ba biểu tượng tham chiếu giúp đọc hiểu lịch sử: đó là ngai của Thiên Chúa, Chiên Con, và cuốn sách (x. Kh 4,1-5,14).
Biểu tượng thứ nhất là cái ngai có Đấng đang ngự trên đó, mà thánh Gioan không diễn tả nổi, bởi vì Người siêu việt, vượt quá mọi cách diễn tả của loài người. Thánh nhân chỉ có thể gợi lên ý nghĩa về vẻ đẹp và niềm vui mà mình cảm nếm trước sự hiện diện của Người. Đấng bí ẩn này là Thiên Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, không còn đóng kín trên trời, nhưng đã đến gần con người, bước vào trong giao ước với con người. Thiên Chúa làm cho chúng ta cảm thấy Người trong lịch sử một cách nhiệm mầu nhưng xác thực, tiếng Chúa được biểu tượng bằng sấm sét. Chung quanh ngai có 24 vị Kỳ mục và 4 con vật, không ngừng chúc tụng Chúa của lịch sử. Như vậy biểu tượng thứ nhất là cái ngai.
Biểu tượng thứ hai là cuốn sách, chứa đựng chương trình của Thiên Chúa liên quan tới các biến cố và cho loài người. Nó được niêm phong bằng bảy ấn, và không ai có thể đọc được nó. Trước sự bất lực của loài người trong việc tìm biết kế hoạch của Thiên Chúa, thánh Gioan cảm thấy một nỗi buồn sâu sắc, đến nỗi thánh nhân đã khóc. Nhưng có một cách khắc phục sự mất tinh thần của con người trước sự huyền bí của lịch sử: có một người có thể mở cuốn sách và tiết lộ nó.
Và đây là biểu tượng thứ ba xuất hiện: Đức Kitô, Chiên Con đã bị sát tế trong hy lễ Thập giá, nhưng đang đứng, như một dấu chỉ về sự Phục Sinh của Người. Và chính Chiên Con, là Đức Kitô đã chết và sống lại, từ từ mở ấn niêm phong và tiết lộ kế hoạch của Thiên Chúa, ý nghĩa sâu xa của lịch sử.
Các biểu tượng này cho chúng ta biết những gì? Chúng nhắc cho chúng ta về cách thức phải biết giải thích những sự kiện bủa lịch sử và của cuộc đời mình ra sao. Bằng cách ngước mắt nhìn lên thiên đàng của Thiên Chúa, trong một quan hệ thường xuyên với Đức Kitô, bằng cách mở lòng trí mình ra cho Ngài trong lời cầu nguyện riêng và chung, chúng ta học nhìn vào những sự vật một cách mới mẻ và hiểu được ý nghĩa chân chính nhất của chúng. Cầu nguyện giống như một cửa sổ mở ra cho phép ta luôn hướng đôi mắt về Thiên Chúa, không những chỉ để nhắc nhở chúng ta về mục tiêu mà ta đang hướng đến, mà còn để cho thánh ý Thiên Chúa soi sáng cuộc hành trình dương gian của ta, và giúp chúng ta sống với lòng nhiệt thành và quyết tâm.
Chúa hướng dẫn cộng đoàn Kitô hữu đọc một cách sâu sắc hơn về lịch sử như thế nào? Trước hết và trên hết, qua việc mời gọi cộng đoàn để tâm một cách hiện thực đến giây phút hiện tại mà chúng ta đang sống. Vì thế Chiên Con mở bốn ấn đầu tiên của cuốn sách và Giáo hội nhìn thấy thế giới, mà trong đó nó được đưa vào, một thế giới có nhiều yếu tố tiêu cực. Có những sự dữ mà con người vi phạm, như bạo lực, nảy sinh từ ước muốn chiếm hữu, tranh dành ưu thế với nhau, đến nỗi giết nhau (ấn thứ hai); hay bất công, vì con người không tôn trọng luật pháp được ban hành cho họ (ấn thứ ba). Sau đó, thêm vào những sự dữ ấy là những sự dữ khác mà con người phải chịu, như sự chết, nạn đói, bệnh tật (ấn thứ tư). Phải đương đầu với những thực tại, thường là bi đát, cộng đoàn Giáo hội được mời gọi không bao giờ đánh mất hy vọng, và tin chắc rằng sự toàn năng bề ngoài của Thần Dữ va chạm với sự toàn năng đích thực, là sự toàn năng của Thiên Chúa.
Và ấn thứ nhất mà Chiên Con mở ra chứa đựng chính thông điệp này. Thánh Gioan nói với chúng ta rằng: “Và tôi đã thấy, kìa một con ngựa trắng, và người cỡi ngựa mang cung. Người ấy được tặng một triều thiên và ra đi như người thắng trận, để chiến thắng” (Kh 6,2). Quyền năng của Thiên Chúa đã bước vào trong lịch sử loài người, một quyền năng không những chỉ có khả năng vô hiệu hóa sự dữ, nhưng thậm chí còn chinh phục nó. Màu trắng nhắc đến biến cố Phục Sinh: Thiên Chúa đã trở thành quá gần gũi với chúng ta đến nỗi Người đi xuống bóng tối của sự chết để chiếu sáng nó bằng ánh sáng huy hoàng của sự sống thần linh của Người: Người đã gánh lấy sự dữ của thế gian trên chính mình, để thanh tẩy nó bằng ngọn lửa tình yêu của Người.
Chúng ta lớn lên trong sự hiểu biết về thực tại này của Kitô giáo như thế nào? Sách Khải Huyền cho chúng ta biết rằng cầu nguyện nuôi dưỡng cái nhìn về ánh sáng và niềm hy vọng sâu xa này trong mỗi người chúng ta và trong các cộng đoàn của chúng ta: nó mời gọi chúng ta đừng để cho sự dữ khắc phục mình, nhưng thắng vượt sự dữ bằng điều lành, nhìn lên Đức Kitô Chịu Đóng Đinh và Phục Sinh, là Đấng kết hợp chúng ta trong chiến thắng của Người. Giáo hội sống trong lịch sử, không khép kín mình; nhưng can đảm đối diện với cuộc hành trình của mình giữa những khó khăn và đau khổ, bằng cách dứt khoát quả quyết rằng, chung cuộc sự dữ không chiến thắng được sự tốt lành, và bóng tối không làm lu mờ đi vinh quang rạng ngời của Thiên Chúa. Đây là một điểm quan trọng đối với chúng ta; như những Kitô hữu, chúng ta không bao giờ có quyền bi quan; chúng ta biết rõ rằng dọc theo cuộc hành trình của cuộc đời, chúng ta thường gặp bạo lực, dối trá, thù hận và khủng bố, nhưng những điều đó không làm chúng ta nản chí. Trên hết, lời cầu nguyện này dạy chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa, của sự hiện diện và hành động của Người; vì thế, chúng ta hãy trở thành những ánh sáng của sự thiện nơi chính chúng ta, quang tỏa niềm hy vọng và bày tỏ sự chiến thắng của Thiên Chúa.
Quan điểm này dẫn chúng ta đến việc dâng lời tạ ơn và chúc tụng Thiên Chúa và Chiên Con: 24 vị kỳ mục và bốn con vật cùng hát “bài ca mới” mừng công trình của Đức Kitô, của Chiên Con, Đấng “đổi mới mọi sự” (Kh 21,5). Nhưng sự đổi mới này trước hết và trên hết, là một ân huệ mà chúng ta phải cầu xin. Và ở đây chúng ta tìm thấy một yếu tố khác, đó là nét đặc thù của cầu nguyện: sự tha thiết cầu xin cho Nước Chúa trị đến, và xin cho con người có trái tim biết vâng phục chủ quyền của Thiên Chúa, xin cho thánh ý Người định hướng cuộc đời chúng ta và cuộc sống của thế giới.
Trong thị kiến chứa đựng trong Sách Khải Huyền, lời cầu xin này được đại diện bởi một chi tiết quan trọng: “24 vị kỳ mục” và “bốn con vật” cầm trong tay, cùng với cây đàn hạc đi kèm với bài hát của họ, “tay nâng chén vàng đầy hương thơm” (Kh 5,8a), như được giải thích, “tức là những lời cầu nguyện của dân thánh” (Kh 5,8b); nghĩa là, nói về những người đã được lên với Thiên Chúa, còn tất cả chúng ta là những người đang lữ hành.
Và trước ngai Thiên Chúa, chúng ta thấy một thiên sứ đang cầm một bình hương bằng vàng, trong đó thiên sứ liên tục bỏ vào những hạt hương, như những lời cầu nguyện của chúng ta, mà hương thơm ngạt ngào được dâng cùng với những lời cầu nguyện lên trước nhan Thiên Chúa (x. Kh 8,1-4). Đó là một biểu tượng cho chúng ta biết rằng tất cả những lời cầu nguyện của chúng ta, với tất cả những giới hạn, khó khăn, nghèo khổ, khô khan, yếu điểm mà chúng có thể có, được thanh lọc và lên đến tận trái tim của Thiên Chúa. Cho nên, chúng ta phải tin chắc rằng không có lời cầu nguyện nào là không cần thiết và vô dụng; không lời nào bị mất đi. Và chúng sẽ được trả lời, ngay cả thường bí ẩn, bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu và Lòng Thương Xót vô biên. Thánh Gioan viết rằng Thiên sứ “cầm bình hương, lấy lửa trên bàn thờ bỏ đầy vào và ném xuống đất. Liền có tiếng sấm, tiếng sét, ánh chớp và động đất” (Kh 8,5).
Hình ảnh này có nghĩa là Thiên Chúa không coi thường lời cầu nguyện của chúng ta. Ngài can thiệp và làm cho người ta cảm thấy quyền lực của Ngài và nghe được tiếng nói của Ngài trên trái đất, Ngài làm cho hệ thống của Sự Dữ bị rung chuyển và phá vỡ chúng. Thông thường thi khi chạm trán với sự dữ, chúng ta cảm thấy bất lực, nhưng cầu nguyện là phản ứng đầu tiên và hiệu quả nhất mà chúng ta có thể dâng lên và điếu ấy củng cố quyết tâm truyền bá sự tốt lành hàng ngày của chúng ta. Quyền năng của Thiên Chúa làm cho sự yếu đuối của chúng ta thành hiệu quả (x. Rm 8,26-27).
Tôi muốn kết luận bằng cách nhắc đến cuộc đối thoại cuối cùng (x. Kh 22,6-21). Đức Giêsu lặp lại nhiều lần: “Đây, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến” (Kh 22,7.12). Lời tuyên bố ấy không những chỉ cho thấy viễn cảnh tương lai của thời sau hết; nhưng còn chỉ về hiện tại: Đức Giêsu đến, Người thiết lập nơi cư ngụ của Người trong những ai tin vào Người và đón nhận Người. Sau đó cộng đoàn được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, lặp đi lặp lại cho Đức Giêsu lời mời khẩn cấp xin Người đến gần hơn, “xin hãy đến” (Kh 22,17). Như “tân nương” (Kh 22,17) đang nóng lòng mong đợi sự viên mãn của cuộc hôn nhân. Lần thứ ba lời cầu xin được nhắc lại: “Amen, lạy Đức Giêsu, xin ngự đến!” (22,20b), và người đọc kết thúc bằng một cụm từ chứng tỏ ý nghĩa của sự hiện diện này: “Chúc mọi người được đầy ân sủng của Đức Giêsu” (Kh 22,21).
Sách Khải Huyền, bất chấp sự phức tạp của các biểu tượng, lôi cuốn chúng ta vào một kinh nguyện rất phong phú. Vì thế, chúng ta cũng được nghe, ngợi khen, cảm tạ, và chiêm ngắm Chúa, cùng cầu xin ơn tha thứ. Cấu trúc của nó như một kinh nguyện phụng vụ cộng đoàn cao cả, cũng là một lời nhắc nhở hùng hồn để tái khám phá sự phi thường và quyền năng biến đổi của bí tích Thánh Thể. Tôi muốn đặc biệt khuyến khích anh chị em hãy trung thành tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, ngày của Chúa, là trọng tâm và trái tim đích thực của tuần lễ! Sự phong phú của lời cầu nguyện trong Sách Khải Huyền cho chúng ta nghĩ về một viên kim cương, trong đó có hàng loạt những góc cạnh hấp dẫn, nhưng sự quý báu của nó nằm ở độ tinh khiết nơi cốt lõi của nó. Như thế, các hình thức gợi ý của cầu nguyện mà chúng ta gặp trong Sách Khải Huyền làm cho sự cao quý độc đáo, không thể diễn tả nổi của Đức Giêsu Kitô được quang tỏa.
Trích từ: Tác phẩm "Cầu nguyện" của Đức Bênêđictô XVI
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét