KHÔN NGOAN TRONG KINH THÁNH
Thời
sự Thần học – Số 96, tháng 05/2022, tr. 17-51.
_Nuria
Calduch-Benages_
Nữ tu dòng Thừa sai Thánh
gia Nazareth, giáo sư đại học Gregoriana, Roma, thư ký Ủy ban Giáo hoàng về
Kinh Thánh. Nguồn: “Sapienziali, Libri”, in: R. Penna - G. Perego - G. Ravasi
(eds.), Temi teologici della Bibbia (Dizionari San Paolo; San Paolo, Cinisello
Balsamo [Milano] 2010) 1250-1267.
I. Dẫn
nhập.
II. Các sách Khôn ngoan trong Kinh Thánh.
III. Văn chương khôn ngoan ở vùng Cận đông.
IV. Các hình thức văn chương khôn ngoan.
V. Việc quy gán cho vua Salômôn.
VI. Thế giới theo các nhà hiền sĩ.
VII. Chủ đề khôn ngoan.
VIII. Khôn ngoan như một nhân vật.
IX. Các sách Khôn ngoan trong Tân Ước: 1) Đức Giêsu với sự khôn ngoan. 2) Những
trích dẫn.
X. Các sách Khôn ngoan và văn hóa thời nay.
I.
DẪN NHẬP
Trong quá khứ, các cuộc nghiên cứu Kinh Thánh ít quan tâm đến các sách Khôn
ngoan, bởi vì người ta thường tập trung vào Ngũ thư và các Ngôn sứ, là những
tác phẩm nêu bật đặc trưng lịch sử của mặc khải Kitô giáo. Mãi đến thập niên 70
của thế kỷ XX, người ta mới chứng kiến một sự hồi sinh của “Ngũ thư khôn
ngoan”, nhờ việc xuất bản tác phẩm “Sự khôn ngoan của Israel” của Gerhard von
Rad[1]. Các học giả bắt đầu chú ý đến quan niệm đầy tính nhân bản của các tác
phẩm này.
II.
CÁC SÁCH KHÔN NGOAN TRONG KINH THÁNH
Trong bộ Kinh Thánh Híp-ri, trong nhóm dành cho “các trước tác” (ketubim),
người ta thấy có ba sách khôn ngoan: Châm ngôn, Gióp, Giảng viên. Kể từ bộ Kinh
Thánh Masoret, Giảng viên được đặt trong hàng “năm cuộn” (megillot): Diễm ca,
Rút, Ai ca, Giảng viên, Ester; thứ tự này có lẽ dựa theo lý do phụng vụ. Bản
dịch LXX còn thêm hai cuốn sách Khôn ngoan nữa: Huấn ca (Ben Sira, từ năm 1896,
người ta tìm được phần lớn nguyên bản Híp-ri trong nhiều thủ bản) và sách Khôn
ngoan (hoặc “Khôn ngoan của vua Salômôn”). Về tính quy điển của hai tác phẩm
này, không có sự nhất trí giữa các Kitô hữu. Chúng được nhìn nhận là được linh
hứng (“hậu quy điển” về phía Công giáo và Chính thống), và bị coi là “ngụy thư”
(không thuộc quy điển) về phía Tin lành và Anh giáo. Dĩ nhiên là chúng không
được nhận vào quy thư của Do-thái, bởi vì sách Khôn ngoan được viết bằng tiếng
Hy-lạp, còn sách Huấn ca thì không hiểu vì lý do gì. Mặc dù bị Rabbi Aqiba
(+135 sau CN) bác bỏ, nhưng sách Huấn ca được các rabbi sau đó trân trọng (x.
Các trưng dẫn trong sách Talmud).
Năm cuốn sách được biên soạn trong một quãng cách thời gian khá dài, đi từ thế
kỷ VIII tCN (các bộ sưu tập cổ xưa nhất của sách Châm ngôn) cho đến thế kỷ I
CN(biên soạn sách Khôn ngoan ở Alexandria). Phần cốt yếu của sách Gióp có lẽ
bắt nguồn từ thế kỷ V tCN (thời kỳ Ba-tư); sách Giảng viên vào giữa thế kỷ III
tCN (thời đô hộ của nhà Ptolomei bên Ai Cập), sách Huấn ca vào thế kỷ II tCN
(khi vùng Palestina được chuyển từ tay vương triều Ptolomei sang triều Seleucia
ở Syria).
Công cuộc thu thập bộ các sách Khôn ngoan thì rất khác với các bộ khác trong
Kinh Thánh. Không phải vô tình mà trong lời tựa sách Huấn ca, chúng được gọi
bằng tên khái quát, như là “những văn phẩm khác”, “những sách khác của cha
ông”, “các sách còn lại”. Chúng họp thành một nhóm đặc biệt, với những thành
phần khá lỏng lẻo. Chúng không giống với Ngũ thư và các sách Lịch sử bởi vì
không phải là tác phẩm thuật chuyện, tuy dù đôi khi cũng có đả động xa gần đến
các đề tài Xuất hành (x. Hc 3,16; 44,23; Kn 11–19) hay Đệ nhị luật (x. Hc
2,15-17; 17,13-19; 30,1-
13), hoặc đọc lại lịch sử Israel (x. Hc 44–50). Chúng khác với những bộ luật
trong Xuất hành, Lê-vi, Đệ nhị luật, bởi vì chúng chẳng mấy quan tâm đến luật
pháp như là quyền bính bởi trời hay bởi nhà cầm quyền. Tuy vậy chúng cũng nhắc
đến hoặc giải thích một vài khoản luật cụ thể (x. Cn 19,26 với Xh 21,17; Hc
28,7 với Lv 19,17-18). Sau cùng, chúng cũng khác xa các bản văn ngôn sứ, bởi vì
thay vì cảnh cáo hay tố giác, chúng sử dụng một ngôn ngữ khuyến khích, kêu mời
tìm kiếm sự khôn ngoan hoặc cảnh giác những nguy cơ. Dù vậy, xem ra giọng điệu
ngôn sứ cũng phảng phất nơi vài đoạn văn (x. Diễn từ của Bà Khôn ngoan trong Cn
1,20-33; lời cầu cho Israel trong Hc 36,1-17; hoặc diễn từ của vua Salômôn
trong Kn 6). Mặc dù thấm nhuần tinh thần khôn ngoan, nhưng hai sách Tôbia và
Ester thuộc về loại thuật chuyện khuyến dụ của loại văn chương giả tưởng chứ
không thuộc về văn chương khôn ngoan. Điều này cũng có thể nói về một vài Thánh
vịnh, mang tên là Thánh vịnh khôn ngoan (chẳng hạn 1; 19; 37; 49; 90; 119),
được coi như là những lời nguyện chứ không phải là tác phẩm khôn ngoan. Ngay cả
sách Diễm tình ca, tuy mang tính cách khôn ngoan và giống với vài đoạn của Châm
ngôn và Huấn ca, cũng không thuộc văn chương khôn ngoan, bởi vì nó là bài thơ
tình yêu. Ngoài những tác phẩm vừa kể trên, các đề tài khôn ngoan cũng được gặp
thấy trong các trình thuật Sáng thế 2–3, trong tiểu sử ông Giuse (x. St 37–50),
trong các lưu truyền pháp lý của Xuất hành và Dân số, trong câu chuyện kế ngôi
(x. 2Sm 9–20; 1V 1–2) hoặc các lưu truyền ngôn sử của Amos, Isaia và Giêrêmia,
cũng như trong sách Đaniel.
Các sách “Ngũ thư khôn ngoan” không chỉ khác với những sách khác trong Kinh
Thánh, nhưng còn khác biệt với nhau nữa. Các sách Châm ngôn và Huấn ca nổi bật
bởi sự khôn ngoan lạc quan, bởi chiều kích sư phạm giáo dục, bởi hình thức văn
chương truyền đạt sự hiểu biết của cha ông. Hai sách Gióp và Giảng viên thì gặp
nhau ở đặc tính suy tư và tranh biện, đả kích vài quan niệm cổ truyền, chẳng
hạn như thuyết báo ứng (Thiên Chúa thưởng những hành vi tốt và phạt những hành
vi xấu) – và xét lại vấn đề Thiên Chúa một cách triệt để và bi đát. Sau cùng,
sách Khôn ngoan đương đầu với quan niệm Hy-lạp về sự khôn ngoan đang lan truyền
giữa các kiều bào Do-thái ở Alexandria.
Mặc dầu có nhiều sự khác biệt xét về hình thức và nội dung, nhưng chúng ta có
thể nói đến một “khối” sách khôn ngoan, vì nhiều lý do. Tất cả năm quyển đều
bàn về sự khôn ngoan và vạch ra cho những ai tìm kiếm con đường gặp gỡ nó. Ở
một cấp độ cao, chúng suy tư về hình ảnh huyền bí và hấp dẫn của Bà Khôn ngoan,
được xuất hiện trong bộ sưu tập thứ nhất của sách Châm ngôn (x. Các chương
1–9), trong bài thơ của Gióp 28, trong phần thứ nhất của Huấn ca (x. Hc 1-24),
trong Kn 7–9 và ngay cả trong Br 3,9–4,4. Khác với các tác giả Ngũ thư, các
sách Lịch sử và bản văn Ngôn sứ, các nhà hiền triết Israel vượt xa viễn ảnh
lịch sử, để đặt mình trong một chân trời phổ quát, bén nhạy với thực tế sinh
sống hằng ngày của đời người. Các tác giả này không quan tâm đến việc kể lại những
chuyện quá khứ, công bố những luật lệ cho dân chúng, nói tiên tri nhân danh
Thiên Chúa, và cũng chẳng nghĩ đến việc chúc tụng Người trong những buổi cử
hành phụng tự. Thái độ của họ khi đối diện với thực tế được dựa trên việc tìm
kiếm sự khôn ngoan đích thựcc, sự khôn ngoan dẫn đến cuộc sống sung mãn, và tìm
thấy lời giải đáp cuối cùng nơi Thiên Chúa. Các nhà hiền triết Israel truyền
đạt cho các thế hệ mai sau kinh nghiệm, kiến thức, lòng đạo của mình trong một
ngôn ngữ biết tôn trọng tự do con người, nghĩa là nhờ những quan sát, nhận
định, đề nghị. Tóm lại, đây là một giáo huấn nhân bản, dạy cách sống và cách
làm việc, đặt trong khung cảnh của luân lý và tôn giáo.
III.
VĂN CHƯƠNG KHÔN NGOAN Ở VÙNG CẬN ĐÔNG
Nhờ những khám phá bắt đầu
từ thế kỷ XIX, chúng ta biết được rằng sự khôn ngoan của Israel không phải là
cổ xưa nhất của nhân loại. Nó được phát sinh và khai triển trong khung cảnh văn
hóa vùng Cận Đông, cái nôi cổ nhất của nhân loại. Trong thiên niên kỷ III tCN,
các nhà hiền triết của Ai Cập và Mesopotamia đã viết lại những giáo huấn của
mình thành các bản danh sách, giảng huấn, thi ca, thuật chuyện, đối thoại và
nhiều tác phẩm khác nữa; tất cả những tài liệu này đều có ảnh hưởng lớn trong
tư tưởng khôn ngoan của Kinh Thánh.
Một thể loại khôn ngoan rất phổ biến bên Ai Cập là những lời dạy hay giáo huấn
của một nhà vua cho hoàng tử, của một quân sư cho con cái hoặc của một văn nhân
cho người kế thừa. Các tác phẩm này nhằm hai mục tiêu: truyền thụ các giá trị,
và dạy cho các nhân viên hành chánh tương lai biết cách đọc và viết. Dù địa vị
xã hội thế nào đi nữa, người lãnh nhận những lời dạy này được gọi là “con”.
Người ta còn giữ được những tập giáo huấn sau đây, biên soạn vào khoảng những
năm 2700-2200 tCN: Giáo huấn dành cho Kaghemi, do một quân sư vô danh viết cho
người con của mình; Giáo huấn của Hergedef và Giáo huấn của Ptahhotep (bản văn
duy nhất của thời ấy còn được giữ nguyên vẹn, gồm 37 câu châm ngôn “của tiền
nhân” để lại); Giáo huấn dành cho Merikare và Giáo huấn của Amenemhet ra đời
muộn hơn (2200- 2060 tCN), còn Giáo huấn của Ani ra đời vào khoảng 1580-1320
tCN. Cách riêng Giáo huấn của Amenope (khoảng giữa 1000 và 600 tCN), do E.W.
Budge khám phá năm 1923, đáng được nhắc đến bởi vì đã được nhiều học giả tìm
hiểu vì thấy giống với sách Châm ngôn 22,17–24,22. Ngoài các tập giáo huấn ra,
cũng cần nêu bật những tác phẩm khác được viết vào đầu thiên niên kỷ thứ hai,
với luận điệu bi quan yếm thế đứng trước cuộc đời, xã hội và chính trị. Kẻ tự
sát hoặc Cuộc đối thoại của một người tuyệt vọng với linh hồn của mình khuyến
khích tự vẫn khi hoàn cảnh đã trở nên hoàn toàn tuyệt vọng. Câu chuyện của
người ốc đảo hùng hồn đòi hỏi công lý trước mặt một viên quan triều đình, bàn
về đề tài bất công xã hội. Bài ca của người gảy đàn là một bài thơ chua chát khi
đối diện với cái chết. Ngoài thể văn tranh luận, chúng ta cũng nên ghi nhận
Trào phúng về các nghề nghiệp (hay có khi được gọi là Giáo huấn của Khety hay
Các châm ngôn của Duaf), một tác phẩm nổi tiếng trong đó kinh sư được cho là
nghề cao quý nhất trong các công việc tay chân. Tư tưởng này sẽ được khai triển
trong sách Huấn ca 38,24-39. Trong những bản văn bình dân nổi tiếng nhất là
Giáo huấn của Onkhsheshonqy (thế kỷ V tCN), một tác phẩm châm biếm rất gần với
sách Châm ngôn.
Bên Mesopotamia văn chương khôn ngoan không được phong phú cho lắm. Trong các
bản văn bằng tiếng sumero, chúng ta có thể kể Các giáo huấn của Shuruppak,
tuyển tập các tục ngữ ra đời vào năm 2500 tCN, và một tác phẩm với nội dung
giống với sách Gióp (quen gọi là Gióp sumero, hoặc những lời than trách của một
người với Thiên Chúa của mình), ra đời khoảng năm 2000 tCN. Bài thơ trình bày
một người vô tội than van liên lỉ về cảnh khổ cực của mình gây ra bởi cơn giận
dữ không hiểu nổi của thần linh, cho đến khi chính vị này giải thích và biến
đổi đau khổ thành niềm vui. Trong các bản văn bằng tiếng Akkad, chúng ta thấy
Những lời khuyên của Đức Khôn ngoan (1500-1200 tCN), rất gần với các châm ngôn
Kinh Thánh. Cũng vào thời này là Bài thơ của chính nhân đau khổ, cũng được gọi
bằng những lời mở đầu: Ludlul bel nemeqi, “Tôi muốn ca ngợi vị thần khôn
ngoan”. Đây là một cuộc độc thoại, trong đó một người đau khổ ngỏ lời với thần
Marduk – “Chúa Khôn ngoan” của Babylon – để xin Người giải thoát khỏi những đau
khổ. Tuy rất giống với sách Gióp, nhưng bài thơ này không hề đặt vấn đề về mối
tương quan giữa đau khổ và tội lỗi (trả báo), cũng chẳng nghi ngờ gì về giải
đáp cho vấn đề đau khổ chỉ có thể đến từ các thần linh, mà loài người không thể
nào phê bình nhưng chỉ biết chấp nhận bằng cách tin tưởng vào lòng tốt của các
ngài. Cuốn Thần lý Babylon – soạn vào khoảng năm 1400 và 800 tCN, hoặc cũng gọi
là Cuộc đối thoại giữa một người đau khổ với bạn hữu của mình – đề cập vấn đề
giống như ông Gióp: đứng trước sự đau khổ bất công, đường lối của Thiên Chúa quả
là khó hiểu. Tuy nhiên, ngoài việc bênh vực “sự công minh của các thần linh”,
tác phẩm còn muốn bảo vệ các ngài trước lời tố cáo về sự bất công hoặc lãnh đạm
trước cảnh người công chính bị bách hại. Cuộc đối thoại giữa ông chủ với gia
nhân của mình, viết vào khoảng thiên niên kỷ thứ nhất tCN, cho thấy gia nhân
tuân hành chỉ thị của ông chủ, dù thế nào đi nữa.
Tiểu thuyết ông Achikar (thế kỷ VI-V tCN), rất nổi tiếng ở vùng Cận Đông, và
được trưng dẫn trong sách Tôbia (1,21-22; x 2,10; 11,19; 14,10). Theo lưu
truyền, Achikar là cố vấn của vua Sennàcherib (704-681 tCN) và của hoàng tử
Assarhàddon (681- 668 tCN). Vị này muốn giết Achikar do lời vu khống của Nadab,
người cháu mà ông đang chuẩn bị để kế thừa cho mình. Achikar đã giãi bày sự
thật, và được nhà vua khôi phục địa vị và Nadab bị kết án.
IV.
NHỮNG THỂ VĂN KHÔN NGOAN
Các nhà hiền triết Israel diễn tả kinh nghiệm của mình về thực tại và về vũ trụ
bằng nghệ thuật cao cấp. Dù có khác nhau về khung cảnh, diễn ngữ, nội dung đi
nữa, thì các sách Khôn ngoan vẫn mang đặc trưng chung là thể thơ, được diễn đạt
qua nhiều hình thức văn chương đa dạng. Hình thức phổ thông nhất là các châm
ngôn tục ngữ, masal. Tầm nguyên của từ này còn trong vòng tranh cãi, masal có
khi được dịch là “ví von” (có thể diễn tả thực chất), “lời có uy lực” (bởi vì
có khả năng truyền khiến), “lời có cánh” (bởi vì vượt lên trên thời gian). Tuy
masal thường được dịch là “châm ngôn” (hay tục ngữ) nhưng nguyên gốc từ ngữ
phong phú của nó bao gồm nhiều thể loại khác nhau: có thể là cách ngôn, giáo
huấn, khuyến dụ.
Vai trò sư phạm của châm ngôn có thể nhận thấy nơi các huấn dụ thường gặp trong
các chương 1–9 của sách Châm ngôn và trong sách Huấn ca (chẳng hạn 2,1-6;
3,17-24; 13,2-7; 29,1-13). Đặc trưng là lời kêu gọi “Con ơi” mở đầu, rồi đến
các lời truyền răn kèm theo những lý do, và những hậu quả tiêu cực dành cho
những ai không nghe theo lời khuyên của nhà hiền triết. Chiều kích sư phạm của
châm ngôn cũng hiện diện trong những lời “khuyên lơn”, tích cực hay tiêu cực
(x. Hc 6,18-37; 7,1-17), và đặc biệt là những “châm ngôn số”, giúp cho môn sinh
nhớ (chẳng hạn Cn 30,21-23; Hc 25,7-11; G 5,19-22). Khoảng phân nửa Cn 25–26
gồm bởi những “so sánh”, dùng hình ảnh để đánh giá những lối cư xử. Vài thí dụ
Cn 25,11: “Táo bằng vàng và đồ trang sức bằng bạc là một lời được nói đúng lúc”
và Cn 26,8: “Cũng như cột hòn đá vào ná thế nào, thì trao vinh quang cho đứa
ngu si cũng như thế”.
Khá gần với châm ngôn, và đặc biệt châm ngôn số, là “ẩn ý”: một lối chơi chữ
hàm hồ hàm chứa một chân lý sẽ được vạch ra ở cuối. Chúng ta lấy một ví dụ từ
Cn 26,4-5: “Đừng đáp lại kẻ ngu si theo sự ngu đần của nó, kẻo cả con, con cũng
nên giống như nó. Hãy đáp lại kẻ ngu si theo sự ngu đần của nó, để nó đừng nghĩ
là minh khôn ngoan”. Hai câu này xem ra mâu thuẫn với nhau, nhưng kỳ thực,
khuyên nhủ là hãy tùy hoàn cảnh mà hoặc là không tranh luận với kẻ ngu đần hoặc
là xử sự xứng đáng với nó. Trong cùng gia đình ẩn ý, ta có thể xếp các “ngụ
ngôn” và “ám dụ”, hai hình thức sử dụng ngôn ngữ bóng bảy hoặc ám hiệu. “Ngụ
ngôn” là một hình thức văn chương cổ xưa nhất của nhân loại (von Rad), mà mục đích
không nhất thiết là bài học luân lý, mà chỉ là sư phạm và đôi khi để chế giễu.
Trong Cựu Ước, hiếm khi gặp các ngụ ngôn, và chúng đều nằm ngoài khối các tác
phẩm Khôn ngoan: ngụ ngôn của ông Giotham trong Tl 9,8-15, ngụ ngôn mà ngôn sứ
Nathan kể cho vua Đavít ở 2Sm 12,1-4 và ngụ ngôn thuật lại cuộc đụng độ giữa
Amasia, vua nước Giuđa, và Gioas, vua Israel, ở 2V 14,9. Áp dụng vào các hoàn
cảnh chính trị cụ thể, ngụ ngôn theo dòng thời gian có thể trở thành ám dụ,
nghĩa là một bản văn với hai hay nhiều ẩn dụ để đối chiếu ý nghĩa. Chẳng hạn
như ám dụ về con chim phượng hoàng và cây bá hương (x. Ed 17,1-10) hoặc ngụ
ngôn về sư tử cái với các con của nó (x. Ed 19,1-14). Hai đoạn văn Cn 5,15-23
(về sự trung thành của bà vợ) và Gv 12,16 (về tuổi già) không phải là những ám
dụ theo đúng nghĩa nhưng là những bài thơ theo khuynh hướng ám dụ. Rất gần với
giáo huấn và ca tụng là “bài thơ giáo dục”, thường là mô tả chứ không truyền
khiến. Một thí dụ là chân dung của ác nhân ở G 27,13-23 (x. Cn 2,1-22;
24,30-34; Hc 1,11-20). Tuy vậy, rất khó xếp loại một vài bài thơ bởi vì nội
dung và hình thức khác biệt, chẳng hạn như Hc 16,24–17,14, có thể coi như một
bài thơ giáo dục, giáo huấn hay ca ngợi. Những thí dụ về “lời cầu nguyện”, của
cá nhân hay tập thể, được gặp thấy nơi sách Châm ngôn (x. Cn 30,7-9), Gióp (x.
G 7,7-21; 10,1-22; 13,20–14,22), Huấn ca (x. Hc 22,27–23,6;
36,1-17; 51,1-12) và Khôn ngoan (x. Kn 9,1-18; 11,23–12,2). Các bài “ca ngợi”
cũng không phải là hiếm: có khi là ca ngợi công trình Thiên Chúa trong vũ trụ (x.
Hc 42,15–43,33), có khi là ca ngợi nguồn gốc thần linh của đức khôn ngoan hoặc
sứ mệnh đức khôn ngoan trong thế giới (x. Cn 8,22-31; G 28; Hc 24,1-22; Kn
7,22–8,1). Khác với văn chương Ai Cập và Mesopotamia, Cựu Ước chỉ có một mẫu
“đối thoại” đó là sách ông Gióp: tuy rằng tác phẩm này mang nhiều thể văn khác
nhau, nhưng nổi bật hơn cả là sự đối thoại, một hình thức thích hợp để đương
đầu, khai triển và giải quyết một vấn đề.
Bắt nguồn từ Ai Cập, thể văn “tự thuật” cũng được các nhà hiền triết sử dụng như
một phương tiện sư phạm (x. Cn 4,3-9; Gv 1,12–2,26; Hc 24,30-34; 33,16-18;
51,13-30). Những danh sách
các tên tuổi, một thể văn rất phổ biến bên Ai Cập, thu thập mọi thứ dữ liệu:
động vật, thảo mộc, xứ sở, chủng tộc, vv.. Những danh sách bách khoa này đáp
ứng với ước muốn của con người muốn kiểm soát thực tại, đồng thời cũng hỗ trợ
cho việc thực tập chữ viết. Cuối cùng, ngoài những hình thức khôn ngoan vừa
nói, chúng ta có thể thêm một hình thức nữa ít được quan tâm và khảo sát, đó là
“giải đáp bỏ lửng” (x. Cn 5,15-19; 23,29-30; G 28). Các nhà hiền nhân sử dụng
phương pháp này để thu hút sự chú ý của các môn sinh, kích thích sự tò mò và
thúc đẩy sự tra cứu. Qua những câu hỏi hoặc hình ảnh bí hiểm, người nghe được
mời gọi hãy đi tìm câu trả lời, mà chỉ được hé lộ vào cuối đoạn văn.
V.
VIỆC QUY GÁN CHO VUA SALÔMÔN
Salômôn là con thứ hai của Đavít và Betsabê, ông là vị vua thứ ba của Israel
(972-932 tCN) và chắc hẳn là một nhà lãnh đạo lẫy lừng nhất. Dưới triều đại của
ông, Israel được hưởng một thời kỳ phong phú và phát triển về kinh tế. Nhờ
những cuộc kết hôn với những phụ nữ ngoại quốc, vua đã tạo ra nhiều bang giao
tốt đẹp, làm tăng cường nền thương mại, văn hóa và an ninh quốc gia. Đối nội,
vua Salômôn tiếp tục khai triển hệ thống hành chính mà vua cha đã bắt đầu, hoàn
tất một số công trình xây cất (xây đền thờ, dinh nhà vua, các thành lũy, cất
nhiều thành phố và cả những đền miếu cho các thần linh của các bà vợ ngoại
quốc), tổ chức quân đội chuyên nghiệp thay cho các dân quân địa phương. Truyền
thống Kinh Thánh ca ngợi cách riêng tài sản và sự khôn ngoan của vua. Sau khi
vua Đavít băng hà, Salômôn đã cầu xin Thiên Chúa ban cho một “trái tim biết
phán đoán” để biết cách cai quản nhân dân trong công bình, và phân biệt điều
tốt điều xấu (1V 3,9). Nhờ đức khôn ngoan mà Chúa ban, ông đã vượt qua tất cả
các nhà hiền triết ở bên Đông và Ai Cập, và danh tiếng ông đồn thổi khắp các
nước lân cận (x. 1V 5,10-11). Salômôn tỏ ra tài giỏi trong việc phân xử (x. 1V
3,16-
28) và giải đáp các câu đố (x. 1V 10,2-4). Vua sáng tác ba ngàn châm ngôn và
một ngàn lẻ năm bài thơ (x. 1V 5,12), và vua còn tỏ ra sự khôn ngoan trong việc
quan sát các định luật tự nhiên của thế giới thảo mộc và động vật: “Vua đã bàn
luận về cây cối, từ cây hương bá trên núi Libano cho đến cành hương thảo mọc
nơi bờ tường; vua cũng bình giảng về động vật và chim trời, rắn rết và cá biển”
(1V 5,13). Mặc dù có nhiều bóng tối bao trùm lên vương triều của ông (bóc lột
nhân dân, xa hoa triều đình, bất tuân tôn giáo), ông đã được lịch sử ghi nhận
như là vị vua khôn ngoan bậc nhất.
Vì thế cũng như Ngũ thư được gán cho ông Mosê và các Thánh vịnh cho vua Đavít,
thì các sách Khôn ngoan (cộng thêm thánh vịnh 72 và 127) được gắn liền với tên
tuổi vua Salômôn. Quả vậy, tên vua Salômôn xuất hiện, cách minh nhiên hay mặc
nhiên, như là tác giả của các cuốn sách thuộc về phần thứ ba của Kinh Thánh
Híp-ri, tức là “những văn phẩm” (Châm ngôn, Diễm ca và Giảng viên). Bản dịch
LXX thêm một cuốn nữa: sách Khôn ngoan của Salômôn. Tất cả những sách này đều
được viết sau thời lưu đày, nghĩa là nhiều thế kỷ sau khi vua Salômôn lịch sử
đã qua đời. Như vậy, sự gán ghép cho vị đại vương này là một trường hợp rất
thịnh hành vào thời xưa được gọi là pseudepigrafia (ngụy danh), gán tác phẩm
cho một tác giả nổi tiếng để tăng thêm uy tín. Bằng cách này hay cách khác,
Salômôn hiện diện trong bốn tác phẩm vừa kể. Trong Huấn ca, tác phẩm duy nhất
không dùng đến tục lệ pseudepigrafia (ngược lại, là tác phẩm duy nhất mang tên
soạn giả), Salômôn được nhắc đến trong một đoạn văn ca ngợi các tiền nhân (Hc
44–50).
Sách Châm ngôn được minh nhiên gán cho Salômôn ngay ở đầu Cn 1,1: “Các châm
ngôn của Salômôn, con ông Đavít, vua Israel”. Ngoài tựa đề cho toàn thể tác
phẩm, tên của vị vua này còn xuất hiện ở đầu của hai bộ sưu tập “các châm ngôn
của vua Salômôn” (x. Cn 10,1–22,16; 25,1–29,27). Trong Cn 10,1 chúng ta đọc
thấy như sau: “Những châm ngôn của Salômôn” và 25,1: “Đây cũng là những châm
ngôn của Salômôn, mà những người Êzekia, vua Giuđa, đã truyền lại”. Chúng ta
không rõ bộ tuyển tập này do Salômôn soạn hay không, nhưng rất có thể là các dữ
liệu này đã được các kinh sư và các nhà hiền triết biên soạn do lệnh của nhà
vua, xem ra dưới triều Edechia.
Cả sách Diễm ca cũng được gán cho vua Salômôn ngay ở lời tựa (x. Dc 1,1), nhưng
các học giả tranh luận không chắc có phải là tựa đề nguyên thủy không. Khác với
những sách khác, trong Diễm ca, vua Salômôn giữ một vai trò quan trọng tuy
không lúc nào cũng tích cực. Ngoài lời tựa, ông còn được nhắc đến 6 lần (x. Dc
1,5; 3,7.9.11; 8,11.12). Dc 1,5 có một lời ám chỉ nhà vua rất là tranh cãi.
Theo bản masoret và LXX, vẻ đẹp của người yêu được so sánh như “những màn
trướng của Salômôn”, nhưng các tác giả khác sửa lại bản văn và không nhắc gì
đến ông nữa: “như những màn trướng của Salma”. Dc 3,6-11, một khúc hát xen kẽ
(intermezzo) mô tả đám rước loan giá nhà vua được tập trung vào Salômôn, người
tình lý tưởng và chiếc kiệu để chở hôn thê. Trái lại, trong Dc 8,11-12, ông
tượng trưng cho một tình yêu sa sút mà tác giả tỏ ra thái độ dè dặt. Tóm lại,
hình ảnh hàm hồ của Salômôn cô đọng trong hai câu ngắn ngủi này tùy thuộc vào
việc giải thích toàn thể bài thơ.
Khác với Châm ngôn và Diễm ca, sách Giảng viên không được minh thị gán cho vua
Salômôn. Thật vậy, tên nhà vua không hề được nhắc đến. Tuy vậy, nhân vật được
nói ở Gv 1,1 “Những lời của Cô-he-lét, con Đavít, vua Giêrusalem” hẳn nhiên là
vua Salômôn (x. 1,12: “Tôi, Cô-he-lét, tôi đã là vua Israel ở Giêrusalem”). Có
lẽ vì bài thơ nổi tiếng về tuổi già (x. Gv 12,1- 8), truyền thống các rabbi
cũng như Kitô giáo đều đồng hóa Cô- he-lét bí ẩn với vua Salômôn. Rabbi Jonatan
nói như sau: “Salômôn viết sách Diễm ca khi còn trẻ, Châm ngôn khi trưởng thành
và Cô-he-lét khi đã già; bởi vì con người khi trẻ thì sáng tác các bài thơ, khi
lớn tuổi thì đưa ra những lời khuyên răn khôn ngoan, khi già thì nói đến thế sự
phù vân” (Midrash Rabba, Dc 1,10).
Tác giả Huấn ca dành 12 câu cho vua Salômôn (x. Hc 47,12-23). Gợi hứng từ quyển
I sách các vua, Ben Sira trình bày bức tranh của vua trong đó có điểm sáng và
điểm tối. Bên cạnh hòa bình trong xứ sở, xây dựng đền thờ, sáng tác văn chương,
sự sang trọng phú quý, tác giả nêu bật tình yêu lăng loàn với phụ nữ, và trách
nhiệm gây ra sự chia rẽ giữa 12 chi tộc. Nên lưu ý là Ben Sira không nhắc đến
giấc mơ Gabaon và lời cầu xin được ơn khôn ngoan, mặc dù ông biết điều đó (x.
Hc 39,6; 51,13-14). Hoàn toàn đối nghịch với thần học sách Sử biên niên, Ben
Sira trình bày một hình ảnh tương phản về Salômôn; điều này chỉ có thể giải
thích do hoàn cảnh tang thương của Israel dưới thời đô hội của các đế quốc
Ptolomei và Seleucia.
Trong sách Khôn ngoan, hoặc “Khôn ngoan của vua Salômôn” (tựa đề trong bản
LXX), danh tính nhà vua không hề được nhắc đến. Tuy nhiên, mọi người đều biết
là trong các chương 7–9, tác giả tự đồng hóa với vua Salômôn trong ánh quang
vinh trước khi phạm những sai lầm. Salômôn đọc một diễn từ dài trong đó, sau
khi trình bày nguồn gốc, bản chất và công trình của đức khôn ngoan, ông kể lại
cuộc gặp gỡ với nàng, qua hai chặng. Trước hết, ông nhìn lại quá khứ, khi còn
trẻ và trong giai đoạn đào tạo, ông ước ao thủ đắc đức khôn ngoan (Kn 7); kế đó
khi đến tuổi kết hôn, ông phải lựa chọn một người bạn trăm năm (Kn 8); sau
cùng, sau một thời gian chuẩn bị lâu dài, và gợi hứng từ 1V 3,69 và 2Sb 1,8-10,
Salômôn kể lại lời cầu nguyện xin ơn khôn ngoan vào lúc mới lên ngôi (Kn 9).
Việc bỏ qua danh tính của vị vua lừng danh có lẽ nằm trong dụng ý của tác giả:
ông muốn rằng kinh nghiệm của nhà vua có thể mở rộng cho hết mọi người, đặc
biệt là các bạn trẻ, cần phải biết lựa chọn những nguyên tắc chỉ đạo cho cả
cuộc đời.
VI.
THẾ GIỚI THEO CÁC NHÀ HIỀN TRIẾT
Quan niệm về thế giới theo các sách khôn ngoan được gắn liền với ý tưởng về
trật tự, theo đó thế giới (con người, thiên nhiên, vũ trụ) tuân theo những định
luật mà Thiên Chúa đã ấn định vào lúc tạo dựng. Trong trình thuật Sáng thế
chương 1, hành động của Thiên Chúa được biểu lộ qua việc tách rời và phân chia
các yếu tố và thiết lập một trật tự trong vạn vật. Thế nhưng, ý tưởng “trật tự
thế giới” không phải là quan điểm độc đáo của Israel nhưng thuộc về gia sản
khôn ngoan của vùng Cận Đông. Bên Ai Cập, nó được đồng hóa với Maat, con gái
của thần Ra và nhân cách hóa của chân lý, trật tự và công lý. Maat được hình
dung như một thiếu nữ đội trên đầu một triều thiên với một cái lông dài của con
đà điểu, tay cầm một cây thập tự có cán, biểu hiệu của sự sống; bà bảo đảm cho
trật tự hoàn vũ, sự hài hòa trong các mối tương quan xã hội và trong thế giới
thần linh. Trên thực tế, Maat còn hơn là một nữ thần, vì là một nguyên tắc mà
nếu thiếu nó thì thế giới sẽ trở về cảnh hỗn mang nguyên thủy. Ở Israel, Maat
được thay thế bởi sự hiện diện và những hành động của Thiên Chúa, hoặc bởi đức
khôn ngoan bao trùm khắp vũ trụ và thấm nhập mọi vật (x. Hc 1,9; Kn 1,7; 7,24).
Rất nhiều câu nói trong sách Châm ngôn nói đến trật tự trong vũ trụ, nhịp điệu
của thiên nhiên và thời gian (x. Cn 25,13-14: “Như cái lạnh của tuyết trong
ngày gặt [...] Mây và gió mà chẳng có mưa”; Cn 25,23: “Gió bấc sinh ra mưa”; Cn
25,25: “Nước trong cho họng khô”; Cn 26,1: “Như tuyết trong mùa hè và như mưa
trong mùa gặt”). Những ý tưởng ấy được diễn đạt lại một cách văn vẻ hơn trong
sách Giảng viên (1,4-11): “Một thế hệ đi, một thế hệ đến; nhưng đất đứng mãi.
Mặt trời mọc và mặt trời lặn, và nó vội vã về nơi của nó. Gió đi về hướng nam,
và xoay về hướng bắc: xoay xoay, nó đi; gió trở lại những vòng xoay của nó. Mọi
dòng sông đi ra biển, và biển không hề đầy; nơi các dòng sông đi tới, ở đó
chính chúng lại đi”. Các thế hệ qua đi, các vì sao di chuyển, dòng sông êm ả
trôi, tất cả cho thấy một thế giới có trật tự.
Sách Huấn ca cũng nói đến sự chính xác và thứ tự trong vạn vật trong đoạn văn
vọng lại những trang đầu sách Sáng thế: “Các công trình của Thiên Chúa đã có từ
lúc khởi đầu, và bởi việc làm ra chúng, Người đã phân chia các thành phần của chúng.
Người đã trang hoàng các công trình của Người đến muôn đời, và những lúc khởi
đầu của chúng cho đến các thế hệ của chúng. Chúng không đói cũng không lao
nhọc, và không bỏ các công việc của chúng. Mỗi vật không đụng vào vật gần bên
mình, và cho đến muôn đời, chúng sẽ không bất tuân lời của Người” (Hc 16,26-28:
xem thêm 42,21-25). Nhà hiền triết, nhờ lý trí và kinh nghiệm, cảm thấy mình có
khả năng hiểu biết và tôn trọng trật tự của loài thụ tạo. Tất cả giáo huấn của
ông đều nhằm vào việc bảo vệ và duy trì trật tự ấy. Vì thế mỗi người có bổn
phận tìm ra thời buổi thích hợp để thi hành công tác thích hợp. Tuân thủ trật
tự của vũ trụ, chấp nhận những giới hạn của sự khôn ngoan của con người thì
không những tránh khỏi làm điều xấu và đi vào con đường sự sống mà còn giúp cho
ta thể hiện chính mình. Dưới viễn tượng này, người công chính không chỉ là
người ngay lành, nhưng là kẻ tự nguyện tuân phục trật tự ấy. Trái lại, kẻ xấu
không chỉ là người thực hành những hành động đáng trách, mà còn là kẻ bất chấp
trật tự hoặc muốn phá hủy nó. Sự xác tín này được bảo đảm bởi học thuyết về sự
báo ứng, như sách Châm ngôn đã chứng tỏ. Vấn nạn được đặt ra khi thấy không có
sự tương xứng giữa hành động và kết quả: tại sao những người lành lại thất bại,
còn những kẻ độc ác lại thành công? Gióp và Giảng viên, mỗi người một cách, đã
làm nổ tung pháo đài mà các nhà hiền triết đề ra; họ cho thấy sự khủng hoảng
của công trình các nhà hiền triết Israel. Lời giải đáp cho cuộc khủng hoảng này
đến từ thần học và tóm lại trong bốn khía cạnh: tương quan giữa đức khôn ngoan
và lòng kính sợ Thiên Chúa (x. G 28; Hc 1), đức khôn ngoan được đồng hóa với
một nhân vật (x. dưới đây); đức khôn ngoan được gắn với lề luật (x. Hc 24) và
đức khôn ngoan nhập thể trong lịch sử Israel (x. Hc 44,1-50,21).
VII.
KHÔN NGOAN, CHỦ ĐỀ CHÍNH YẾU
Chủ đề chính yếu của các sách Khôn ngoan là đức khôn ngoan và cách thức đạt
được khôn ngoan. Trong tiếng Híp-ri, các từ hokmà, “khôn ngoan”, hakam, “người
khôn” (nhà hiền triết) – và các từ tương đương trong tiếng Hy-lạp, sophia và
sophós, được sử dụng nhiều nhất trong các sách Châm ngôn, Gióp, Giảng viên,
Huấn ca và Khôn ngoan. Ngoại trừ St 41,8 và Xh 7,11, nơi mà khôn ngoan được
liên kết với ma thuật và chiêm tinh, các từ ngữ nói trên ám chỉ sự hiểu biết
thực tế, tùy theo mạch văn có thể dịch là tài khéo, chuyên môn hay khôn khéo.
Theo nghĩa này, người khôn là người chứng tỏ một năng khiếu trong việc thi hành
một nghề nghiệp hay làm một công việc gì đó. Trong sách Xuất hành, chúng ta gặp
thấy những đoạn văn nói đến những người khôn ngoan trong việc xây cất đền thờ,
chẳng hạn các nhà điều khắc chạm trổ vàng bạc (x. Xh 31,1-6; 35,31.35), kể cả
các phụ nữ trong công tác thêu thùa (Xh 35,25-26). Nơi khác, sự khôn ngoan cũng
được áp dụng cho người thiết kế tàu bè (x. Kn 14,1-2), hoặc ký lục (x. Hc
38,24) hay chọn lựa một phương pháp thích ứng (x. Gv 1,13; 2,21; 7,23). Sự khôn
khéo thủ công đạt đến tột đỉnh khi áp dụng cho Thiên Chúa tạo dựng: “Thiên Chúa
đặt nền trái đất bằng sự khôn ngoan, thiết lập các tầng trời bằng sự hiểu biết”
(Cn 3,19; x. Gr 51,15). Trong lãnh vực tương quan xã hội, sự khôn ngoan có thể
trở thành sự lanh lợi, mưu lược, tinh thông. Ông Gióp đã mỉa mai đáp lại ông
Sofar rằng: “Quý vị thật là những người quan trọng, và sự khôn ngoan sẽ chết
theo quý vị!” (G 12,2). Các câu nói của các hiền nhân rất là đanh thép: “Chẳng
có sự khôn ngoan, thông minh hay ý kiến nào mà chống lại được Thiên Chúa” (Cn
21,30); hoặc: “Người khôn thì học rõ đường đi, còn kẻ dại thì lạc hướng” (Cn
14,8). Khía cạnh tiêu cực này xuất hiện nơi những đoạn văn nói đến những người
nghĩ rằng mình khôn nhưng hành động như kẻ khờ dại (x. G 5,13; 15,2; Cn 3,7;
26,12.16; 28,11; Hc 7,5;
37,20). Sau cùng, trong hai trường hợp, ông Gióp nói đến sự khôn ngoan của động
vật, nghĩa là bản năng tinh ranh của chúng: “Ai đã ban cho chim dang sự khôn
ngoan và ai đã cấp cho gà trống sự hiểu biết?” (G 38,36); còn con đà điểu vụng
về thì tác giả nói: “Thiên Chúa đã làm cho nó quên sự khôn ngoan và không chia
cho nó sự hiểu biết” (G 39,17). Ngay cả tác giả sách Châm ngôn cũng ca ngợi sự
khôn ngoan của vài động vật bé nhỏ: con kiến, thỏ, châu chấu và thằn lằn,
“chúng khôn ngoan hơn những kẻ khôn ngoan” (Cn 30,24).
Mặt khác, sự khôn ngoan thường được so sánh với sự hiểu biết, kiến thức, đạo
lý. Ngoài vua Salômôn, nổi tiếng về kiến thức bách khoa, vài nhân vật trong
lịch sử cũng được coi như hiền triết, chẳng hạn như Đavít (x. 2Sm 14,19),
Cô-he-lét (x. Gv 12,9), Đaniel và các đồng bạn (x. Đn 1,4.17.20).
Rất nhiều đoạn văn nói đến sự khôn ngoan như một điều tốt hay một giá trị, là
kết quả của một kinh nghiệm lâu dài của bản thân hay của tập thể (x. G 26,3; Gv
9,10.13). Vì thế các hiền nhân rất quý trọng sự khôn ngoan và không ngừng giới
thiệu cho các môn sinh (x. Cn 5,1). Nó được sánh với một kho tàng (x. G 28,18),
nhưng sẽ chẳng có ích lợi gì nếu cứ che giấu: “Nếu sự khôn ngoan mà giấu kín và
kho tàng trở nên vô hình thì có ích gì? Người che giấu sự dại dột của mình thì
tốt hơn người che giấu sự khôn ngoan rồi” (Hc 41,14-15). Sự khôn ngoan mang lại
phẩm giá cho người sở hữu nó (x. Hc 11,1) và làm cho họ được hạnh phúc (x. Cn
3,13; Hc 3,29; 14,20), còn người nào khinh thường nó sẽ bị khốn khổ (x. Kn
3,11). Tuy nhiên, con người không trở nên khôn ngoan từ khi mới sinh, nhưng cần
phải học nó (x. Cn 4,11; Hc 6,22) và phải gắng sức để thủ đắc (x. Cn 4,5). Cần
có nhiều nỗ lực thì mới trở thành khôn ngoan: “Con ơi, nếu muốn thì con có thể
giỏi dang, nếu dấn thân thì con sẽ trở nên tinh khôn” (Hc 6,32; x. Cn 6,6).
Tiến trình học tập đòi hỏi sự cố gắng cá nhân: “Không phải sống lâu năm mà trở
nên khôn ngoan, không phải cứ già đầu mà biết xét xử” (G 32,9). Trong một nền
văn hóa truyền khẩu, sự khôn ngoan được truyền thụ bằng lời nói. Vì thế điều
quan trọng là muốn và biết nghe: “Hãy lắng tai và nghe những lời của hiền nhân,
hãy chú tâm để hiểu” (Cv 22,17; x. Hc 6,33; G 15,17-18). Nhờ quen thân với
những người khôn nên ta cũng nên khôn (x. Cn 13,20; Hc 6,34), bởi vì “trong lời
nói của người khôn luôn có sự khôn ngoan” (Hc 27,11) và “miệng lưỡi người khôn
phát sinh điều khôn ngoan” (Cn 15,2).
Sự khôn ngoan có liên hệ chặt chẽ với thuật cai trị. Khi lâm chung, vua Đavít
đã trối lại những lời khuyên cho hoàng tử Salômôn. Đề cập đến Gioáp, kẻ đã lén
lút ám hại hai vị chỉ huy quân đội, vua nói: “Con hãy hành động khôn ngoan,
đừng để đầu bạc của nó xuống âm phủ bình an” (1V 2,6). Không lâu sau, di chúc
của vua cha đã được thi hành (x. 1V 2,28-34). Trong sách thánh, thuật cai trị
là một hồng ân mà Chúa ban cho những ai cầu xin. Điều này đã xảy ra cho vua
Salômôn, như đã nói trên đây. Trong sách Khôn ngoan, đức khôn ngoan chính trị
là một điều mà tác giả khẩn khoản yêu cầu các vị lãnh đạo các nước (x. Kn
6,9.20-21).
Trong lãnh vực luân lý, đức cao minh (sapientia) được đồng hóa với đức khôn
ngoan (prudentia), cương trực và công bình. Theo nghĩa này, khôn ngoan được
hiểu về một nhân đức, điều khiển đời sống và các hành động của con người. Người
khôn là người có khả năng quyết định hành động hợp với những nguyên tắc luân lý
trước mặt Thiên Chúa và thân nhân. Chiều kích luân lý này đồng hóa người khôn
ngoan với người công chính (đối lại với người dại dột và gian ác) rất thường
gặp nơi các Châm ngôn: “Hãy cho người khôn ngoan, nó sẽ khôn ngoan hơn nữa, hãy
làm cho người công chính biết, nó sẽ tăng thêm tri thức” (Cn 9,9); hoặc: “Hoa
trái người công chính là cây sự sống, và người khôn ngoan chinh phục các linh
hồn” (Cn 11,30).
Ngoài một nghệ thuật sống, một đường lối giáo dục toàn diện, một nhân đức rất
nhân bản, sự khôn ngoan trong Kinh Thánh còn được lồng trong khung cảnh tôn
giáo: đối với các hiền nhân Israel, sự khôn ngoan không phải là “sự hiểu biết
về những công chuyện thần linh và nhân sinh” mà, theo học thuyết khắc kỷ, ta có
thể thủ đắc nhờ học hỏi. Đối lại sự khôn ngoan thường được đồng hóa với lòng
đạo đức, kính sợ Thiên Chúa. Tuy dù khởi điểm của người khôn luôn luôn là kinh
nghiệm cuộc đời, nhưng họ biết rằng Thiên Chúa đã tạo dựng và cai quản thế
giới, vì thế họ ý thức giới hạn của mình bởi vì mình chỉ là một thụ tạo. Thiên
Chúa là nguồn gốc và căn nguyên của sự khôn ngoan (x. Hc 1,1.8); nhất là Thiên
Chúa là Đấng hành động khôn ngoan (x. Cn 3,19; Kn 1,9; 14,5); chính Thiên Chúa
ban ơn khôn ngoan cho những ai ước mong, tuân hành hành lề luật và cầu xin cho
bản thân hay cho người khác (x. Hc 6,37; 43,33; 50,23). Tóm lại, sự khôn ngoan
theo Kinh Thánh đâm rễ trong truyền thống một dân tộc tin vào Thiên Chúa là
Đấng dựng nên trời đất.
VIII.
ĐỨC KHÔN NGOAN ĐƯỢC ĐỒNG HÓA VỚI MỘT NHÂN VẬT
Ngoại trừ sách Giảng viên ra, tất cả các sách khôn ngoan đều có những đoạn dành
cho Bà Khôn ngoan, hình ảnh rất sống động trong Kinh Thánh Do-thái. Bà hiện
diện trong sách Châm ngôn (x. Cn 1,20-33; 8; 9,1-6), Gióp (x. G 28), Huấn ca
(x. Hc 1,1-10;
4,11-19; 6,18-37; 14,20-15,10; 24), Khôn ngoan (x. Kn 7–9), và kể cả Baruc (x.
Br 3,9–4,4) với những khuôn mặt rất khác nhau: một bé gái, người chị em, thiếu
nữ, bà chủ nhà, bà mẹ và cô giáo, hướng dẫn viên, cô gái đang tuổi cập kê, hôn
thê. Những khuôn mặt khác nhau nhưng luôn là hình ảnh phụ nữ. Nhiều giả thuyết
đã được đề ta để giải thích lý do. Có ý kiến cho rằng bởi vì danh từ hokma
tiếng Híp-ri và sophia tiếng Hy-lạp đều là giống cái. Ý kiến khác cho rằng hình
ảnh phụ nữ dễ quyến rũ các môn sinh toàn là nam giới; họ đến thụ giáo để học
biết cách đương đầu với cuộc sống tương lai. Ý kiến thứ ba lưu ý đến ảnh hưởng
của các nữ thần – Astarte ở Canan, Siduri-Sabitu ở Babylon, Ishtar ở Phenicia,
Maat ở Ai-cập, Isidis của Hy-lạp. Những ý kiến trên đây chưa giải thích thỏa
đáng câu hỏi. Một hướng đi khác cho rằng thay vì dừng lại ở hình thức văn
chương và từ ngữ, thì hãy mở rộng tầm nhìn đến việc nhân cách hóa trật tự vũ
trụ, hoặc là nhân cách hóa mặc khải Thiên Chúa.
Trong Cn 8, Bà Khôn ngoan lên tiếng cách long trọng trong một diễn từ công
khai, trong đó bà ca ngợi giáo huấn của mình và bản thân mình (x. Cn 1,20-32;
9,1-6). Bà Khôn ngoan tự nhận là một thụ tạo rất thông minh, không thể chê
trách về luân lý (chê ghét tính giả dối, kiêu căng, quanh co), và quen thân
những nhà lãnh đạo. Đặc biệt bà trổi vượt vì khả năng thiết lập những mối tương
quan, biết cư xử với những ai yêu mến và ước ao mình. Yếu tố nổi bật nhất trong
bài diễn từ này là mối tương quan ngay từ nguyên thủy giữa Thiên Chúa với đức
khôn ngoan, giữa Đấng Tạo thành với thụ tạo tiên khởi. Công trình tạo dựng của
Thiên Chúa có thể tóm tắt như sau: Thiên Chúa tạo dựng đức khôn ngoan và tạo
dựng vũ trụ. Như vậy đức khôn ngoan và vũ trụ đều là thụ tạo tùy thuộc vào
Thiên Chúa. Được Thiên Chúa tạo dựng trước vũ trụ, đức khôn ngoan đã chứng kiến
công trình của Người và làm cầu nối kết giữa Thiên Chúa và loài người. Đức khôn
ngoan mang tính thần linh nhưng không phải là Thiên Chúa, bởi vì do Thiên Chúa
tạo dựng. Đối lại, Thiên Chúa gắn bó chặt chẽ với đức khôn ngoan nhưng Người
không phải là đức khôn ngoan, bởi vì Người là đấng tạo dựng nó. Tuy vậy, Cn 8
xem ra muốn đồng hóa đức khôn ngoan với Thiên Chúa: cả hai ở gần nhau đến nỗi
dễ lẫn lộn: nói tiếng như nhau, ước mong truyền thông với loài người. Đức khôn
ngoan là mặc khải của Thiên Chúa, sự thông đạt của Thiên Chúa lan tràn khắp vũ
trụ, trong lịch sử và cho mọi người.
Chương 28 sách Gióp, tuy
được coi là được thêm vào sau, là một bài thơ ca ngợi đức khôn ngoan: có người
đặt trên miệng ông Gióp (x. G 27,1–28,28), có người cho là của tác giả cuốn
sách, hay một kẻ vô danh hay một ca đoàn (x. G 28,1-28). Cấu trúc của bài thơ
có nét đặc trưng là điệp khúc đặt lặp đi lặp lại nhiều lần: “Tìm đâu ra đức
khôn ngoan (sapientia), sự hiểu biết (prudentia) nằm ở chỗ nào?” (G 28,12.20).
Trong đoạn đầu tiên (câu 1-12), người công nhân, homo faber, có khả năng đi đào
khoáng sản đá quý trong lòng đất, nhưng không có khả năng tìm thấy đức khôn
ngoan. Đoạn thứ hai (câu 13-20) đề cao giá trị vô song của đức khôn ngoan: nó
quý hơn vàng, hơn đá quý và hơn tất cả mọi tài sản trên mặt đất. Trong đoạn ba,
tác giả thú nhận là không ai biết được đức khôn ngoan cư ngụ ở chỗ nào: “Duy
chỉ Thiên Chúa biết được nơi ở và con đường dẫn đến đó” (câu 23). Chỗ nào vậy?
Có thể đạt tới không? Những câu cuối cùng cho biết con đường: Khi Thiên Chúa
xếp đặt vũ trụ, Người đã thấy nó, đã dò xét nó, đã thiết lập nó (câu 27). Như
vậy đức khôn ngoan ở cùng với Thiên Chúa, tàng ẩn trong vũ trụ và loài người.
Trong Huấn ca chương 24, bà Khôn ngoan đọc một bài diễn từ mà thực sự là ca
ngợi chính mình. Cũng như lời tạo dựng của Thiên Chúa ở St 1, Đức Khôn ngoan
thoát ra khỏi miệng Đấng Tối cao và như sương mù, ngự trên đám mây, Bà khởi sự
một chuyến du hành khắp thế giới: trải qua bầu trời, vực thẳm, biển khơi và đất
liền, giống như Thiên Chúa. Mục tiêu của chuyến du hành là đi tìm một nơi để cư
ngụ. Thế nhưng quyết định lại là của Đấng Tạo hóa: “Hãy cắm lều nơi Giacóp và
hưởng phần sản nghiệp ở Israel” (24,8). Sau khi chấm dứt chuyến du hành, Đức
Khôn ngoan trở lại thời nguyên thủy và nhắm tới tương lai vô hạn. Khôn ngoan
muốn chia sẻ cuộc sống với loài người, chia sẻ hoa trái dồi dào với họ, trở nên
lương thực nuôi sống họ. Từ câu 22 cho đến hết chương, không còn nghe tiếng nói
của Đức Khôn ngoan nữa, và tác giả tiết lộ căn tính của Bà, được đồng hóa với
Torah, lề luật mà Thiên Chúa đã trao ban cho dân Israel nhờ ông Mosê.
Trong các chương 7–9 của Sách Khôn ngoan, chân dung của Bà Khôn ngoan được giải
thích qua rất nhiều hình ảnh. Trước đó, tác giả lấy danh nghĩa của Salômôn và
gợi lại quang cảnh Gabaon (x. 1V 3,4-15), vì muốn trình bày Đức Khôn ngoan như
kết quả của lời cầu xin; nó có giá trị hơn quyền lực, sức khỏe, sắc đẹp, ánh
sáng. Hơn thế nữa, đức khôn ngoan là mẹ và nguồn gốc của mọi điều thiện hảo, và
bảo đảm tình thân với Thiên Chúa (x. Kn 7,1-14). Cũng như trong 1V 5,9-14 tác
giả cầu khẩn Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan, bởi vì chính Người điều khiển và
hướng dẫn đức khôn ngoan; chính Người ban cho kẻ khôn ngoan được thông hiểu tất
cả mọi kỳ công của việc tạo dựng. Tuy nhiên, ở Kn 7,21, tác giả lại nói rằng
chính Đức khôn ngoan dạy dỗ hiền nhân về những thực tại kín đáo hay tỏ tường
trên thế giới, khôn ngoan là kẻ tác tạo muôn loài. Bản tính thần linh của Đức
khôn ngoan được làm sáng tỏ trong Kn 7,22-8,1, tột đỉnh của việc nhân cách hóa
Đức khôn ngoan, với 21 đặc tính, con số ám chỉ sự toàn thiện. Khôn ngoan hiện
diện khắp nơi, bắt nguồn từ Thiên Chúa và ra như đồng hóa với Người. Nhờ mối
liên kết chặt chẽ này, khôn ngoan mang trong mình tất cả những ưu phẩm của
Thiên Chúa: quyền năng, vinh quang, ánh sáng, hoạt động sáng tạo. Sau khi đã mô
tả các hoạt động của Đức khôn ngoan, tác giả trở lại kể chuyện đời tư của mình:
khi còn trẻ vua đã yêu chuộng khôn ngoan, đã ước mong và tìm kiếm như là bạn
đời (x. Kn 8,2); rồi đã cưới về để chung sống (x. Kn 8,9). Tất cả là vì yêu
chuộng nàng; nhưng chỉ nguyên việc ước muốn thì chưa đủ, bởi vì không do cố
gắng mà chiếm được nàng: đó là một ân huệ do Chúa ban; do đó cần phải cầu xin
như chính vua Salômôn đã làm trong 1V 3,6-9. Trong lời nguyện (Kn 9,1-18), Đức
khôn ngoan vượt trên Torah, và mang tầm mức hoàn vũ. Đức khôn ngoan được đồng
hóa với Thần khí Chúa, là sự hiện diện của Thiên Chúa trong vũ trụ và nhân
loại, đặc biệt là những ai ước ao, tìm kiếm và yêu mến bà.
Mầu nhiệm của khôn ngoan trong Cn 8 và G 28 – một thứ khôn ngoan bắt nguồn từ
Thiên Chúa nhưng không thể xác định căn tính và nơi chốn, thì biến mất trong Hc
24 và Br 3,9–4,4: Bà khôn ngoan không còn hình dáng phụ nữ nữa và trở thành To-
rah. Tuy nhiên, đừng quên rằng Đức Khôn ngoan-Torah này đã đến trần gian và
sống giữa loài người. Đó là ý tưởng đã nói trước đây ở Cn 8, Hc 24, và Kn 7. Sự
tiến triển của nhân vật khôn ngoan vẫn tiếp tục theo thời gian, chẳng hạn như
trong Sách các dụ ngôn (thế kỷ I sau CN), Đức khôn ngoan trở về trời bởi vì
không tìm được nơi cư ngụ ở trái đất. Thay vì sống với loài người, Đức khôn
ngoan sống với các thiên sứ (x. 1Hen 42,1-3).
IX.
TÂN ƯỚC VÀ CÁC SÁCH KHÔN NGOAN
1.
Chúa Giêsu và đức khôn ngoan
Các sách Khôn ngoan, cách riêng lưu truyền về đức khôn ngoan được nhân cách
hóa, đã để lại một vết sâu đậm trong nhiều đoạn sách Tân Ước. Tùy theo cách
thức riêng của mình, các thánh Phaolô, Mátthêu, Luca, Gioan, trình bày Đức
Giêsu dạy dỗ không chỉ qua việc sử dụng những văn thể của các nhà hiền triết
(x. các dụ ngôn, bài giảng trên núi, diễn từ về bánh hằng sống và nhiều châm
ngôn được Người trích dẫn), nhưng còn như chính đức khôn ngoan của Thiên Chúa.
Các tác giả ấy đã thích nghi các bản văn Cựu Ước ngõ hầu có thể áp dụng vào bản
thân Đức Giêsu.Vì thế họ gán cho Đức Giêsu những nét, những chức năng, những
diễn ngữ của đức khôn ngoan được nhân cách hóa. Thánh Phaolô nhấn mạnh đến chức
năng vũ trụ của Đức Kitô (x. 1 Cr 1,8-6.18-31; 2,6-8; Cl 1,15-20); còn các Tin
Mừng nhất lãm nhìn Đức Giêsu như bậc thầy ban những giáo huấn khôn ngoan (x. Mt
11,16–19.28-30; 12,38-42; 23,24-36 và song song). Thánh Gioan cho thấy căn tính
của Đức Giêsu được phản chiếu qua lộ trình mà đức khôn ngoan đã trải qua (x. Ga
1,1-18).
Ở đoạn khởi đầu thư thứ nhất gửi các tín hữu Corintô (x. 1Cr 1,18-31) thánh
Phaolô trình bày sự đối chọi giữa sự khôn ngoan giả hiệu và chân chính, nghĩa
là giữa sự khôn ngoan của thế gian (được hiểu là toàn thể những suy tư luận lý,
những lập luận hùng biện vô bổ) và sự khôn ngoan của Thiên Chúa (là chính Đức
Kitô Giêsu). Mối tương quan giữa Đức Kitô-Đức khôn ngoan được nhấn mạnh ở 1Cr
1,22-24, khi Đức Kitô chịu đóng đinh là hiện thân của đức khôn ngoan của Thiên
Chúa. Thay vì đồng hóa Đức Kitô với đức khôn ngoan, bản văn nêu bật sự nghịch
lý của thập giá Đức Kitô: vấp phạm và điên rồ đối với người này và công cụ cứu
độ đối với người kia. Ở 1Cr 1,30 thánh Phaolo không nói rằng Đức Kitô là đức
khôn ngoan, nhưng ơn cứu độ đạt đến nhờ Đức Kitô chịu đóng đinh. Dù sao đi nữa,
những nét của đức khôn ngoan được nhân cách hóa trở nên rõ rệt hơn trong những
đoạn khác của lá thư, chẳng hạn như 1Cr 2,6-8 khi thánh Phaolô mô tả đức khôn
ngoan của Thiên Chúa tác động nơi bản thân của Đức Kitô với những nét mà Cựu
Ước dành cho Bà Khôn ngoan (xem thêm 1Cr 8,6). Sau cùng, trong thánh thi Kitô
luận ở Cl 1,15-20, thánh Phaolô sử dụng ngôn ngữ và những khái niệm của truyền
thống khôn ngoan (đặc biệt là Kn 7-9) để trình bày Đức Kitô chiến thắng cái
chết và làm vua vũ trụ.
Trong Tin Mừng nhất lãm, từ “khôn ngoan” xuất hiện 10 lần, luôn luôn có liên
quan đến thân thế Đức Giêsu. Ngay từ buổi thiếu thời, Đức Giêsu đã trổi vượt về
đức khôn ngoan (x. Lc 2,40.52), tiếng tăm về bậc thầy khôn ngoan càng tăng
trong cuộc đời công khai. Dân làng ngạc nhiên về những lời dạy của Đức Giêsu,
nhưng không muốn nhìn nhận uy tín của Người vì nguồn gốc gia thế tầm thường:
“Từ đâu mà ông này biết những chuyện ấy? Ai đã ban cho ông sự khôn ngoan như
vậy? Các phép lạ do tay ông làm thật khác thưởng?” (Mc 6,2; x. Mt 13,54). Trong
vài đoạn văn của Mátthêu và Luca, thân thế Đức Giêsu gắn liền với đức khôn
ngoan trong Cựu Ước: dấu chỉ Giona (x. Mt 12,38-42; Lc 11,29-32), dụ ngôn ngắn
trong Mt 11,16-19 về các kinh sư và Pharisêu (x. Lc 7,31-35), Mt 11,28-30, khi
Đức Giêsu lên tiếng giống như nhà hiền triết của Hc 51,23-26 (“Hãy đến với
tôi...”), và sau cùng Mt 23,24-36 (x. Lc 11,49-51). Đối với nhất lãm, Đức Giêsu
Nazareth, tuy giảng dạy bằng châm ngôn, cách ngôn và ẩn ý, nhưng không chỉ là
một bậc thầy khôn ngoan theo lối các nhà hiền triết cổ xưa mà thôi, nhưng Người
còn là hiện thân của chính đức khôn ngoan của Thiên Chúa.
Trong các văn phẩm của thánh Gioan, những hạn từ “sự khôn ngoan” và “người khôn
ngoan” không hề xuất hiện, nhưng không thể phủ nhận sự hiện diện của đề tài
khôn ngoan trong Tin Mừng thứ bốn. Thực vậy tác giả đã sử dụng những từ ngữ,
biểu tượng và quan niệm thần học của truyền thống khôn ngoan để soạn thảo một
Kitô luận sâu sắc về cuộc nhập thể. Đây là điều khác biệt giữa Gioan với các
sách Tin Mừng khác. Tự ngôn của Tin Mừng thứ bốn (x. Ga 1,1-18), tuy không phải
là bằng chứng duy nhất của truyền thống khôn ngoan của Cựu Ước (x. phần còn lại
của Tin Mừng và các lá thư của Gioan) là một thí dụ điển hình. Tác giả mô tả
Logos với những nét khôn ngoan và gán cho Người những chức năng của đức khôn
ngoan. Ngoài ra, chuyển động văn chương và thần học của tự ngôn rất giống với
Hc 24,8. Trong cả hai trường hợp ta thấy một chuyển động từ trên xuống (vào hồi
nguyên thủy, Logos và Đức Khôn ngoan ở với Thiên Chúa trên trời, và sau đó
xuống đất); Ga 1,14 (Logos “cư ngụ giữa chúng ta” nghĩa là “cắm lều giữa chúng
ta”) là sự ám chỉ về Hc 24,8 (“Bấy giờ Đấng Tạo hóa [...] nói [với Đức Khôn
ngoan]: Hãy dựng lều ở Giacóp”). Như vậy tác giả sử dụng một từ ngữ trừu tượng
Logos thay cho tên riêng Giêsu; thực vậy tất cả đều muốn trình bày lịch sử của
Con Thiên Chúa, gợi lên hình ảnh của đức khôn ngoan được nhân cách hóa.
2.
Việc trích dẫn các sách Khôn ngoan trong Tân Ước
Sách Châm ngôn rất được các
thế hệ Kitô hữu đầu tiên quý trọng, như ta thấy qua những trích dẫn (khoảng 100
lần, tính cả những trích dẫn gián tiếp và ám chỉ) trong Tân Ước. Chúng tôi xin
kể vài thí dụ. Tác giả của lá thư thứ hai của thánh Phêrô quy chiếu về Cn 26,11
nói về các thầy giả hiệu: “Điều xảy ra cho họ thật đúng với câu ngạn ngữ sau
đây: Chó mửa ra, cho liền ăn lại và Heo tắm xong, heo nhảy vào bùn” (2Pr 2,22).
Nói chung, các thánh tông đồ sử dụng các châm ngôn để dạy dỗ các tín hữu biết
sống theo ý muốn của Thiên Chúa: quảng đại ban phát tùy theo khả năng của mình
(x. Cn 3,27 và 2Cr 8,12), giữ thái độ khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa và tha
nhân (x. Cn 3,34 và Gc 4,6; 1Pr 5,5), kính sợ Chúa và nhà vua (x. Cn 24,21 và
1Pr 2,17), uốn nắn những con đường quanh co (x. Cn 4,26 và Hr 12,13), cung cấp
lương thực cho kẻ thù địch đói khát (x. Cn 25,21-22 và Rm 12,20). Tác giả thư
Híp-ri nhắn nhủ các tín hữu của mình bằng lời khuyên của Cn: “Anh em đã quên
lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi
nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì
mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt” (Hr
12,5-6).
Trong Tân Ước, sách Gióp được trích khoảng 80 lần, tuy nhiên chính nhân vật ông
Gióp thì chỉ được đề cập một lần vào cuối thư của Giacôbê: “Anh em đã nghe nói
đến lòng kiên trì (hypomoné) của ông Gióp và đã thấy kết quả cuối cùng là công
trình của Chúa” (Gc 5,11). Lời khuyên của thánh tông đồ, thoạt tiên ra như củng
cố hình ảnh cổ truyền của ông Gióp nhẫn nại được Thiên Chúa ban thường, nhưng
được hiểu theo một nghĩa sâu xa hơn. Hạn từ tiếng Hy-lạp hypomoné gốc bởi động
từ hypoméno, có nghĩa là “đứng ở dưới”, tức là “chống đỡ, chịu đựng, bền chí”.
Vì thế, theo nhãn quan của thánh Giacôbê, ông Gióp trở thành một ngôn sứ đích
thực, một con người ở giữa vòng xoáy của thử thách và đau khổ đã biết khám phá
những dấu hiệu hiện diện của Thiên Chúa và mong chờ Người tỏ hiện.
Mặc dù sách Giảng viên không hề được trích dẫn minh thị trong Tân Ước, nhưng có
12 đoạn văn ám chỉ hoặc cho thấy có sự tiếp xúc, đáng được nghiên cứu sâu xa
hơn. Chúng tôi chỉ đưa ra ba thí dụ. Lời dạy của Đức Giêsu về việc cầu nguyện:
“Khi cầu nguyện, các con đừng rậm lời như dân ngoại” (Mt 6,7; x. Gc 1,19) nhắc
nhớ lời khuyên của Giảng viên về việc sử dụng lời lẽ ôn tồn khi bàn về tương
quan với Thiên Chúa trong đoạn văn duy nhất đề cập đến tôn giáo (x. Gv
4,17-5,6). Lời khuyên của thánh Giacôbê “Mỗi người hãy [...] chậm nóng giận”
(Gc 1,19) rất gần gũi với Gv 7,9: “Đừng dễ bực tức trong lòng, bởi vì sự bực
tức nằm trong lòng những kẻ ngu dại”. Những lời của ông nhà giàu khờ dại trong
dụ ngôn của Luca – “Tốt lắm, bây giờ ngươi có đủ lương thực dự trữ cho nhiều
năm. Hãy nghỉ ngơi, ăn uống và hưởng lạc đi” (Lc 12,19) – vọng lại những lời
của người khôn: “Thế rồi tôi đã tán dương sự vui mừng, bởi vì con người không
có gì tốt lành dưới mặt trời, ngoại trừ ăn uống và hưởng lạc” (Gv 8,15).
Trong Tân Ước không thấy chỗ nào trưng dẫn sách Huấn ca, cũng chẳng nhắc đến
tác giả hay tác phẩm. Tuy nhiên, không thể phủ nhận một vài điểm tương đồng về
từ ngữ và chủ đề. Ngoài các sách Tin Mừng Mátthêu và Luca, tự ngôn của thánh
Gioan, các thư của thánh Phaolô và thư gửi Híp-ri, thì thư của thánh Giacôbê là
văn phẩm Tân Ước gần gũi với Huấn ca hơn cả. Trong số nhiều lần tiếp xúc giữa
hai tác phẩm (khoảng chừng 10 lần) nổi bật nhất là sự gần gũi về văn chương,
chủ đề và khung cảnh nối kết Hc 2,1-18 và Gc 1,2-12, hai đoạn văn ra đời trong
những thời đại và hoàn cảnh khác nhau, nhưng cùng cho thấy một xã hội đang bị
khủng hoảng. Đoạn sách Huấn ca xem ra nói đến ảnh hưởng của văn hóa Hy-lạp đang
lan tràn giữa người Do-thái tại Giêrusalem, còn đoạn văn Giacôbê hướng đến các
Kitô hữu gốc Do-thái sống ở hải ngoại. Nơi cả hai đoạn văn, những thử thách cho
Chúa gửi đến có thể giúp cho người tín hữu trung tín giữ luật, như là phương
thế thanh luyện nội tâm, tăng trưởng đức tin và nguồn mạch cho niềm vui. Nên
ghi nhận một vài điểm chung giữa hai câu đầu tiên trong hai đoạn văn đang bàn:
cả hai đều là những lời khuyên, ở thể mệnh lệnh cũng như thuật ngữ peirasmós
(thử thách): “Con ơi, nếu muốn phụng sự Thiên Chúa, con hãy chuẩn bị đón nhận
thử thách” (Hc 2,1) và “Này anh em, hãy vui mừng khi gặp thử thách gian truân”
(Gc 1,2); cả hai đều là lời khuyên của một vị thầy luôn sẵn sàng giúp đỡ môn
sinh trong cảnh hoạn nạn.
Tuy không lần nào trích dẫn trực tiếp sách Khôn ngoan, nhưng xem ra không thể
chối được là Tân Ước, đặc biệt là thánh Gioan và thánh Phaolô, đều chịu ảnh
hưởng của nó khi đề cập đến vài chủ đề (chẳng hạn về sự xuất hành ở Gioan). Rất
có thể là vài tác giả Tân Ước đã đọc sách Khôn ngoan, bởi vì họ sử dụng bản
Kinh Thánh bằng tiếng Hy-lạp bắt nguồn từ Alexandria, nơi mà chắc chắn là sách
này được phổ biến. Án bản Tân Ước của Nestlé-Aland trưng dẫn đến gần 100 đoạn
văn liên hệ đến sách Khôn ngoan, trong đó ta có thể kể đến: Rm 5,12 (x. Kn
2,24), Hr 1,3 (x. Kn 7,25) và Mt 27,43 (x. Kn 2,18).
X.
CÁC SÁCH KHÔN NGOAN VÀ VĂN HÓA THỜI NAY
Thời nay, tầm quan trọng của một cuốn sách cổ xưa thường được đánh giá qua khả
năng mà nó còn tác dụng đến hiện tại. Theo nghĩa này, chắc hẳn các sách khôn
ngoan mang tính rất hiện đại. Những sách này đề cập những đề tài căn bản của
cuộc sống con người dưới nhiều phương diện mang tính cách hiện sinh, và đó là
một đặc trưng của văn hóa thời nay. Các sách khôn ngoan thâu nhận tất cả những
vấn đề của con người, vì thế có thể trở thành chiếc cầu dẫn đưa con người thời
nay vào Kinh Thánh, cho dù họ không tin vào Thiên Chúa đi nữa nhưng tin vào con
người (x. bài viết của Luca Mazzinghi kết thúc số báo này).
Các sách Châm ngôn, Gióp, Giảng viên, Huấn ca và Khôn ngoan, đều mời gọi, bằng
những đường lối khác nhau, hãy nhìn vào con người và thế giới của con người, trong
đó phản ánh Thiên Chúa. Các sách này khuyến khích hãy tìm kiếm đức khôn ngoan
như sự thiện tối cao, cảnh giác những khó khăn và thử thách trên hành trình ấy,
và mô tả cách thi vị cuộc gặp gỡ đức khôn ngoan, một cuộc gặp gỡ mang lại bình
an, hoan lạc, hạnh phúc sâu xa, và nói cho cùng, mang lại ý nghĩa cho cuộc
sống. Lời mời này được đặc biệt hướng đến các bạn trẻ, những người còn trong
giai đoạn đào tạo. Cuộc đời của họ vẫn còn là một công trường đang thi công,
một dự án còn đang hoàn thành, một hành trình vừa mới khởi đầu, vì thế họ cần
được học cách thức dự phòng và đương đầu với mọi điều có thể xảy ra. Đức khôn
ngoan của Kinh Thánh, được hiểu như một hành trình đào tạo, dạy cho ta biết hãy
giữ mối tương quan sâu xa với chính mình, một mối tương quan chiều ngang với
vạn vật và môi trường hoạt động, một mối tương quan 360 độ với tha nhân chung
quanh ta, và sau cùng, một tương quan chiều dọc với Thiên Chúa (De Carlo).
Ngoài chiều kích sư phạm và đào tạo, đức khôn ngoan của Kinh Thánh còn hiện đại
bởi vì là dụng cụ đối thoại cho phép gần gũi với những người thuộc các tín
ngưỡng khác nhau. Thoạt tiên, xem ra đức khôn ngoan nhìn đến vũ trụ, lý trí,
con người, đến những yếu tố chung của nhân loại, thì đối lại với đức tin, dựa
trên mặc khải và gắn liền với một lịch sử và truyền thống đặc thù (Milani). Tuy
nhiên, có thể kết hợp cả hai thực tại ấy mà không làm suy giảm đặc trưng của
mỗi bên, nếu ta biết đọc đức tin với cặp mắt của đức khôn ngoan. Các sách khôn
ngoan diễn tả ra những từ ngữ và phạm trù phổ quát những kinh nghiệm đặc thù
của đức tin, nhờ đó giúp cho cuộc đối thoại liên tôn, một công tác không chỉ
dành cho các cơ quan chuyên môn của Giáo hội hoặc các trung tâm thần học, nhưng
còn hướng đến
những người khác, cách riêng là các bạn trẻ, đang khát mong xây dựng một thế
giới tốt đẹp hơn, trong đó các giá trị phổ quát giữ ưu thế, bên trên những lợi
ích địa phương hoặc ý thức hệ. Tác giả sách Khôn ngoan có lý khi tuyên bố rằng:
“Thế giới được cứu vớt nhờ đông đảo những người khôn ngoan (nghĩa là những người
công chính” (Kn 6,24).
THƯ
MỤC
L. Alonso Schokel - J. Vilchez Lindez, Proverbi, Borla, Roma 1988 - J. Auneau
(ed.), I Salmi e gli altri Scritti, Boria, Roma 1991 – É. Beaucamp, I sapienti
d'Israele o il problema dell'impegno, Paoline, Milano 1991 - P. Beauchamp,
L'uno e l'altro Testamento. Saggio di lettura, Paideia, Brescia 1985, 123-155 -
D. Bergant, Israel's wisdom literature. A liberation-critical reading, Fortress
Press, Minneapolis 1997 - A. Bonora - M. Priotto, Libri sapienziali e altri
scritti, Elledici, Leumann (To) 1997 - D.K. Berry, An Introduction to Wisdom
and Poetry of the Old Testament, Broadman and Holman, Nashville (Tn) 1995 - N.
Calduch- Benages, Il profumo del Vangelo. Gesù incontra le donne, Paoline,
Milano 2007 - C.V. Camp, Wisdom and the Feminine in the Book of Proverbs, JSOT
Press, Sheffield 1985 - Ead., Woman Wisdom as Root Metaphor. A Theological
Consideration, in K. Hoglund e altri (ed.), The Listening Hean, JSOT Press,
Sheffield 1987, 45-76 - R.J. Clifford, The Wisdom Literature, Abingdon Press,
Nashville (TN) 1998 - J.L. Crenshaw (ed.), Studies in Ancient Israelite Wisdom,
KTAV, New York 1976 - Id., Old Testament Wisdom. An Introduction, SCM Press,
London 19982 - J. Day - R. Gordon - H. G.M. Williamson (ed.), Wisdom in Ancient
Israel, University Press, Cambridge 1997 - G. De Carlo, «Ti indico la via». La
ricerca della sapienza come itinerario formativo, Dehoniane, Bologna 2003 -
A.-M. Dubarle, Les Sages d'Israël, Cerf, Paris 1946 - J.G. Gammie e altri
(ed.), lsraelite Wisdom, Scholars Press, Missoula (MT) 1978 - J.G. Gammie -
L.G. Perdue (ed.), The Sage in Israel and in the Ancient Near East,
Eisenbrauns, Winona Lake (IN) 1990 - M. Gilbert (ed.), La Sagesse dans l'Ancien
Testament, Leuven University Press, Leuven 19902 - Id., La Sapienza del cielo.
Proverbi, Giópbe, Qohèlet, Siracide, Sapienza, San Paolo, Cinisello B. (Mi)
2005 - M. Gilbert - J.-N. Aletti, La sapienza e Gesù Cristo, Gribaudi, Torino
1981 - J. Leclant (ed.), Les Sagesses du proche-orient ancien, Presses Universitaires,
Parigi 1963 - M. Milani (ed.), La via "sapienziale" e il dialogo
interreligioso. Rischio e tensioni fra la singolarità della Rivelazione e la
sua universalizzazione, Dehoniane, Bologna 1996 - V. Moria Asensio, l libri
sapienziali, Paideia, Brescia 1997 - R.E. Murphy, Wisdom Literature. Job,
Proverbs, Ruth, Canticles, Ecclesiastes and Esther, Eerdmans, Grand Rapids (Mi)
1981 - Id., L'albero ddla vita. Una esplorazione della letteratura sapienziale
biblica, Queriniana, Brescia 1993 - A. Niccacci, La casa ddla sapienza. Voci e
volti della sapienza biblica, San Paolo, Cinisello
B. (Mi) 1994 - M. Noth - D. Thomas (ed.), Wisdom in Israel and in the Ancient
Near East, Brill, Leiden 1955 - L. G. Perdue (ed.), In Search of Wisdom,
Westrninster John Knox, Louisville (KY) 1993 - G. von Rad, La Sapienza in
Israele, Marietti, Genova 19953 - G.T. Sheppard, Wisdom as an Hermeneutical
Construct. A Study in the Sapientializing of the Old Testament, de Gruyter,
Berlin-New York 1980 - P.W. Skehan, Studies in Israelite Poetry and Wisdom,
Catholic Biblical Association, Washington 1971 - J. Trublet (ed.), La Sagesse
biblique. De l'Ancien au Nouveau Testament, Cerf, Parigi 1995 - A. Vanel et
al., Alle radici della sapienzia, Gribaudi, Torino 1978 - R.N. Wybray, The
Intellectual Tradition in the Old Testament, de Gruyter, Berlin-New York 1974.
[1] G. von Rad, Weisheit in Israel, Neukirchener Verlag,
Neukirchen-Vluyn, 1970. Tác phẩm này được dịch ra nhiều ngôn ngữ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét