Loan báo Tin Mừng cho
dòng họ - Chia sẻ 12
Lm TTT Võ Tá Khánh
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO NGƯỜI VIỆT XẾP THEO
DÒNG HỌ
Ở bài chia sẻ 05, chúng tôi đã nêu gợi ý chủ yếu
cho việc truyền giáo qua con đường dòng họ. Theo đó, mỗi dòng họ trong giáo xứ
có thể tổ chức một ngày truyền thống cho dòng họ mình. Nếu trong dòng họ có
những vị thánh, có thể lấy ngày lễ kính của một vị làm ngày truyền thống. Nếu
thiếu vị thánh đồng tộc, có thể chọn bất cứ vị thánh nào tại Việt Nam hoặc ở nước
ngoài làm bổn mạng.
Trong danh sách các thánh người Việt dưới đây,
- 69 vị thuộc 17 dòng họ: Bùi (2), Đặng (1),
Đinh (3), Đỗ (3), Đoàn (3), Hà (2), Hồ (1), Hoàng/Huỳnh (1), Lê (7), Nguyễn
(24), Phạm (5), Phan (3), Tạ (1), Tống (1), Trần (4), Trương (2), Vũ/Võ (6);
- 29 vị không rõ dòng họ.
Tên thánh
|
Họ và
|
Tên
|
Thành phần
|
Lễ kính
|
Nicôlas
|
Bùi Ðức
|
Binh sĩ
|
12.06
|
|
Ðaminh
|
Bùi Văn
|
Thày giảng TOP
|
19.12
|
|
Giuse
|
Đặng Ðình
|
Linh Mục
|
21.08
|
|
Ðaminh
|
Ðinh
|
Binh sĩ
|
18.07
|
|
Gioan B.
|
Ðinh Văn
|
Thày giảng
|
28.04
|
|
Tôma
|
Ðinh Viết
|
Linh Mục OP
|
26.11
|
|
Vinh Sơn
|
Đỗ
|
Linh Mục OP
|
30.06
|
|
Giacôbê
|
Đỗ Mai
|
Linh Mục
|
12.08
|
|
Phanxicô
|
Đỗ Văn
|
Thày giảng
|
26.06
|
|
Phêrô
|
Ðoàn Công
|
Linh Mục
|
31.07
|
|
Gioan
|
Ðoàn Trinh
|
Linh Mục
|
26.05
|
|
Phêrô
|
Ðoàn Văn
|
Thày giảng
|
25.05
|
|
Ðaminh
|
Hà Trọng
|
Linh Mục OP
|
05.11
|
|
Phanxicô X.
|
Hà Trọng
|
Thày giảng TOP
|
19.12
|
|
Micae
|
Hồ Ðình
|
Quan Thái bộc
|
22.05
|
|
Giuse
|
Hoàng Lương
|
Trùm họ TOP
|
05.09
|
|
Phêrô
|
Lê
|
Linh Mục
|
11.10
|
|
Phaolô
|
Lê Bảo
|
Linh Mục
|
06.04
|
|
Giuse
|
Lê Ðăng
|
Cai đội
|
24.10
|
|
Anê
|
Lê Thị (Bà Ðê)
|
Giáo dân
|
12.07
|
|
Matthêô
|
Lê Văn
|
Thuong gia
|
11.05
|
|
Phaolô
|
Lê Văn
|
Linh Mục
|
13.02
|
|
Emmanuel
|
Lê Văn
|
Trùm họ
|
31.07
|
|
Antôn
|
Nguyễn
|
Binh sĩ
|
12.08
|
|
Phaolô
|
Nguyễn
|
Linh Mục
|
08.11
|
|
Phêrô
|
Nguyễn Bá
|
Linh Mục
|
15.07
|
|
Giuse
|
Nguyễn Ðình
|
Linh Mục
|
08.11
|
|
Giuse
|
Nguyễn Ðình
|
Thày giảng TOP
|
04.07
|
|
Giuse
|
Nguyễn Duy
|
Thày giảng TOP
|
06.12
|
|
Antôn
|
Nguyễn Hữu
|
Binh sĩ
|
10.07
|
|
Micae
|
Nguyễn Huy
|
Lý trưởng
|
12.08
|
|
Phêrô
|
Nguyễn Khắc
|
Thày giảng.
|
10.07
|
|
Anrê
|
Nguyễn Kim
|
Trùm họ
|
15.07
|
|
Vinh Sơn
|
Nguyễn Thế
|
Linh Mục
|
24.11
|
|
Tôma
|
Nguyễn Văn
|
Thợ may
|
19.12
|
|
Ðaminh
|
Nguyễn Văn
|
Linh Mục OP
|
01.08
|
|
Phêrô
|
Nguyễn Văn
|
Thày giảng
|
28,04
|
|
Laurensô
|
Nguyễn Văn
|
Linh Mục
|
27.04
|
|
Giuse
|
Nguyễn Văn
|
Trùm họ
|
02.05
|
|
Phêrô
|
Nguyễn Văn
|
Linh Mục
|
07.04
|
|
Augustinô
|
Nguyễn Văn
|
Nông dân TOP
|
19.12
|
|
Phaolô
|
Nguyễn Văn
|
Thày giảng
|
18.12
|
|
Matthêô
|
Nguyễn Văn
|
Binh sĩ
|
26.05
|
|
Emmanuel
|
Nguyễn Văn
|
Linh Mục
|
17.09
|
|
Phêrô
|
Nguyễn Văn
|
Linh Mục OP
|
05.09
|
|
Stephanô
|
Nguyễn Văn
|
Nông dân TOP
|
19.12
|
|
Ðaminh
|
Nguyễn Văn
|
Linh Mục OP
|
26.11
|
|
Vinh-sơn
|
Phạm Hiếu
|
Linh Mục OP
|
07.11
|
|
Phaolô
|
Phạm Khắc
|
Linh Mục
|
28.04
|
|
Ðaminh
|
Phạm Trọng
|
Quan án TOP
|
13.01
|
|
Giuse
|
Phạm Trọng
|
Chánh Tổng
|
13.01
|
|
Luca
|
Phạm Trọng
|
Chánh Tổng
|
13.01
|
|
Simon
|
Phan Đức
|
Y sĩ
|
12.12
|
|
Philiphê
|
Phan Văn
|
Linh Mục
|
03.07
|
|
Augustinô
|
Phan Viết
|
Binh sĩ
|
12.06
|
|
Martinô
|
Tạ Đức
|
Linh Mục
|
08.11
|
|
Phaolô
|
Tống Viết
|
Quan thị vệ
|
23.10
|
|
Anrê
|
Trần An
|
Linh Mục
|
21.12
|
|
Tôma
|
Trần Văn
|
Chủng sinh
|
21.09
|
|
Anrê
|
Trần Văn
|
Binh sĩ
|
28.11
|
|
Phanxicô
|
Trần Văn
|
Cai đội.
|
06.10
|
|
Phêrô
|
Trương Văn
|
Thày giảng
|
18.12
|
|
Phêrô
|
Trương Văn
|
Linh Mục
|
21.12
|
|
Luca
|
Vũ Bá
|
Linh Mục
|
05.06
|
|
Phêrô
|
Vũ Ðăng
|
Linh Mục
|
24.11
|
|
Ðaminh
|
Vũ Ðình
|
Linh Mục OP
|
02.04
|
|
Phaolô
|
Vũ Văn
|
Thủ bạ
|
03.06
|
|
Bênadô
|
Vũ Văn
|
Linh Mục
|
01.08
|
|
Phêrô
|
Vũ Văn
|
Thày giảng.
|
18.12
|
29 vị không rõ dòng họ
Tên thánh
|
Họ và
|
Tên
|
Thành phần
|
Lễ kính
|
Anrê
|
|
Nông gia
|
16.06
|
|
Anrê
|
|
Thày Giảng
|
26.07
|
|
Ðaminh
|
|
Nông gia
|
16.06
|
|
Ðaminh
|
|
Chánh truong
|
16.06
|
|
Ðaminh
|
|
Nông gia
|
16.06
|
|
Ðaminh
|
|
Linh Mục OP
|
18.09
|
|
Ðaminh
|
|
Linh Mục TOP
|
11.03
|
|
Ðaminh
|
|
Nông dân
|
02.06
|
|
Ðaminh
|
|
Ngư phủ
|
05.06
|
|
Ðaminh
|
|
Ngư phủ
|
05.06
|
|
Gioan
|
|
Linh Mục
|
28.10
|
|
Gioan Baotixita
|
|
Lý trưởng
|
08.11
|
|
Giuse
|
|
Linh Mục OP
|
30.04
|
|
Giuse
|
|
Linh Mục
|
09.05
|
|
Giuse
|
|
Giáo dân
|
01.06
|
|
Giuse
|
|
Giáo dân
|
07.06
|
|
Laurensô
|
|
Nông dân
|
22.05
|
|
Martinô
|
|
Viên thuế
|
08.11
|
|
Phanxicô Xavie
|
|
Thày giảng
|
20.11
|
|
Phaolô
|
|
Giáo dân
|
28.05
|
|
Phêrô
|
|
Thư Mục
|
17.06
|
|
Phêrô
|
|
Linh Mục
|
12.07
|
|
Phêrô
|
|
Ngư phủ
|
06.06
|
|
Phêrô
|
|
Ngư phủ
|
06.06
|
|
Tôma
|
|
Thày giảng TOP
|
27.06
|
|
Tôma
|
|
Linh Mục TOP
|
30.01
|
|
Vinh-sơn
|
|
Chánh Tổng
|
16.06
|
|
Vinh-sơn
|
|
Giáo dân
|
06.06
|
Loan báo Tin Mừng cho
dòng họ - Chia sẻ 13
Lm TTT Võ Tá Khánh
ĐƯỜNG VỀ QUÊ HƯƠNG CÁC THÁNH
Hằng năm, tới ngày kỷ niệm các vị Tử đạo, tại
quê hương của từng vị vẫn có lễ hội của Giáo xứ và Giáo phận. Theo hướng loan
Tin mừng cho đồng tộc, ngoài thánh lễ, rước kiệu, nên có thêm những sinh hoạt
dành cho người cùng dòng họ với vị Thánh. Với sinh hoạt này, ngày kính vị Tử
đạo sẽ sớm thành lễ hội của Dòng họ và có khả năng lôi cuốn người đồng tộc,
giáo cũng như lương. Tại những nơi ở xa quê hương vị Thánh, nếu bà con đồng tộc
có điều kiện cũng nên xây dựng tượng đài hoặc đền thánh. Những nơi này cũng sẽ
có thể thành những điểm hành hương cho Dòng họ.
Ngày về viếng đền thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa tại
giáo xứ Thuận Nghĩa, Nghệ An, đứng trước tượng ngài, tôi chợt có cái ao ước gặp
gỡ hậu duệ của ngài đang sống quanh đó. Khi biên soạn quyển Về Với Cội Nguồn,
tới phần các vị thánh đồng tộc, tôi nghĩ cần cung cấp cho độc giả những thông
tin cần thiết để có thể thực hiện những cuộc hành hương lý thú, vừa về thăm quê
hương các thánh vừa giao lưu gặp gỡ với hậu duệ các ngài. Rất may, tôi đã gặp
được sự giúp đỡ nhiệt thành của ông bà Phanxicô Xaviê Phạm Vũ Hiệp, Hà Nội
(sđt: 0949-084-494). Hai vị đã đích thân hành hương đến quê quán sáu vị thánh
họ Vũ-Võ, kính viếng các đền thánh, chụp hình và đích thân liên lạc với hậu duệ
các vị thánh để có được những số liệu chính xác và sống động. Tôi xin được ghi
lại ở đây như một gợi hứng. Ước mong rằng hậu duệ các vị thánh thuộc những dòng
họ khác cũng cung cấp cho chúng tôi những thông tin tương tự để, khi có điều
kiện, chúng tôi có thể phổ biến lại cho đồng tộc của các ngài ở khắp nơi.
ĐƯỜNG VỀ QUẦN PHƯƠNG – QUÊ HƯƠNG THÁNH BÊNAĐÔ VŨ
VĂN DUỆ
Đền Thánh kính thánh tử vì đạo Bênađô Vũ Văn Duệ
tọa lạc tại làng Quần Phương, thị trấn Yên Định, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định,
thuộc giáo phận Bùi Chu, cách Hà nội khoảng 150 km. Yên Định là một thỊ trẤn
nhỏ, đẹp, rất gọn gàng, đặc biệt đường quê ngõ xóm rất sạch. Ở đây gần biển nên
không khí ấm áp, trong lành dễ chiụ. Người dân sống chủ yếu nhờ nông nghiệp.
Bánh nhãn là đặc sản địa phương rất ngon và thơm. Quần Phương là giáo xứ toàn
tòng công giáo. Nhà thờ chính xứ ở giữa thị trấn. Giáo xứ này là một trong ba
giáo điểm (Quần Phương Đông Cường, Trà Lũ Phú Nhai và Ninh Cường) trên quê
hương Việt Nam được đón nhận Tin Mừng sớm nhất, từ năm 1533. Đền Thánh Bênađô
nằm sau nhà thờ xứ, cách khoảng 200m, trong một khuôn viên rộng ước khoảng 2000
mét vuông. Ngoài tượng đài Cha Thánh rất lớn dựng ở bên ngoài, bên trong ngôi
nhà thờ rất cổ kính, khá bề thế đẹp, rất trang trọng và tôn nghiêm còn có bàn
thờ Cha Thánh. Phía trước tượng đài và cũng là trước đền thờ Cha Thánh còn có
một ngôi nhà 15m x 8m, cao chừng 5m, mái cong rất cổ, lợp ngói ta vừa được tu
sửa, quét mầu ghi sáng rất ấn tượng.
Chi tộc họ Vũ ở Quần Phương khá đông và hiện còn
giữ được gia phả lập ngày 15-11-1785. Cha Thánh Bênađô là chi thứ hai, con cụ
cố Vũ Hữu Quán. Trưởng tộc hậu duệ hiện nay của Cha Thánh là Ông Vũ Hữu Ninh,
70 tuổi (năm 2010 - sđt: 0350-377-5017). Ông cùng Ông Vũ Văn Đốc, 61 tuổi,
trông nom đền Cha Thánh (sđt: 0350-377-5577; 0169-980-188).
Hằng năm, Giáo xứ Quần Phương và hậu duệ Cha
Thánh tổ chức giỗ ngài vào ngày 1-8 dương lịch và giỗ chi tộc họ Vũ ở Đông
Cường – Quần Anh vào ngày 15-11 âm lịch.
ĐƯỜNG VỀ LÊ XÁ – QUÊ HƯƠNG THÁNH PHAOLÔ VŨ VĂN
ĐỔNG
Thánh tử vì đạo Phaolô Vũ Văn Đổng là người làng
Lê Xá. Vị thánh này có người con trưởng làm linh mục tên là Dương nên thường
gọi theo tên con là Thánh Dương..
Về mặt xã hội, Lê Xá xưa kia cùng với thôn Cao
Xá và thôn Bạn Lễ thuộc xã Vực Đường. Vào thời Hậu Lê, để tiện bề cai trị, vua
chia xã Vực Đường thành 3 xã có tên là: Lê Xá, Cao Xá và Bạn Lễ.
Về mặt tôn giáo, trước khi vua tách xã, Vực
Đường là một họ đạo thuộc xứ Cao Xá (nên hiểu Cao Xá này là tên của một xứ đạo
thuộc Hưng Yên, chứ không phải là thôn Cao Xá như mới nói ở trên). Giáo dân của
họ Vực Đường hầu hết sống ở thôn Lê Xá, nên sau khi tách xã, họ đạo Vực Đường
nằm gọn trong xã Lê Xá, còn lại hai xã kia chủ yếu là người lương. Vì thế nói
giáo họ Vực Đường hay giáo họ Lê Xá cũng là một. Vào năm 1915, giáo xứ Cao xá
được tách ra thành hai giáo xứ: Cao Xá và Đan Chàng. Lúc đó, họ đạo Lê Xá (Vực
Đường) thuộc vào xứ Đan Chàng. Năm 1947, họ đạo Lê Xá được nâng lên là giáo xứ
Lê Xá, và kể từ đây tên gọi họ đạo Vực Đường biến mất.
Năm 1954, hầu như toàn bộ giáo xứ Lê Xá di cư
vào Nam .
Sau đó có những gia đình gốc Lê Xá từ các vùng xung quanh quay về lại. Theo
niên giám 2004, hiện nay Lê Xá là một giáo xứ nhỏ, chỉ có 201 tín hữu, thuộc xã
Vũ Xá, huyện Kim Động (xưa là huyện Ân Thi), tỉnh Hưng Yên, thuộc giáo phận
Thái Bình – do cha xứ Ngọc Đồng quản nhiệm.
Đường về Lê Xá: Từ thành phố Phủ Lý, đi khoảng
10km về phía bắc sẽ tới thị trấn Đồng Văn, lên cầu vượt, vào đường đi Hưng Yên
và đi khoảng 8 km tới cầu Yên Lệnh , qua cầu là ngã tư Yên Lệnh, rẽ trái , đi
khoảng 7 km, qua cả TP Hưng Yên tới giữa trung tâm thị trấn huyện Kim Động gặp
ngã ba cây xăng, rẽ phải (về xã Vũ Xá và Giáo xứ Lê Xá) đi khoảng 5 km, nhìn
bên trái sẽ thấy nhà thờ Giáo xứ Lê Xá. Nếu đi xe buýt từ Hà Nội thì đón xe
buýt số 209 (Giáp Bát - Hưng Yên).
Khuôn viên Nhà thờ Giáo xứ không rộng lắm. Nhà
thờ trước kia lợp ngói. Cột, dầm và kèo đều được làm bằng gỗ tốt, chạm trổ công
phu và mỹ thuật, nhưng qua bao biến cố lịch sử, và không được coi sóc nhiều nên
đã xuống cấp trầm trọng và đã được tu sửa 2004, lợp tôn. Người chăm sóc nhà thờ
hiện nay là ông Vũ Văn Cường, sđt: 0321-3826-452).
Di cư vào Nam, phần đông giáo dân Lê Xá đến định
cư tại Lạc An, tỉnh Bình Dương, lập thành họ đạo Lê Xá thuộc giáo xứ Mỹ Vân
(Lạc An), giáo phận Phú Cường. Trên đường từ Hố Nai về Sài Gòn, đến giáo xứ Hà
Nội, theo đường Phát Triển, đi 12 km sẽ đến nhà nguyện họ Lê Xa tại ấp 1, xã
Lạc An, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Cuối nhà nguyện giáo họ có tượng đài
Thánh Phaolô Vũ Văn Đổng. Hằng năm, lễ mừng trọng thể được tổ chức cả ngoài Bắc
và trong Nam vào ngày 03-6, quy tụ bà con đồng hương khắp nơi về tham dự mừng
kính vị tử đạo này.
Hậu duệ Thánh Phaolô Vũ Văn Đổng:
Ô. Tôma Vũ Đức Tín, hiện ở Xuyên Mộc, sđt:
0643-877-663; 01627-101-314.
Ô. Tôma Vũ Trọng Tế, ở giáo xứ Thánh Tâm, Hố Nai,
sđt: 0613-885-590.
Lm Tôma Vũ Khắc Minh, ở giáo phận Kontum, sđt:
01679-984-138, 059-3864-399.
ĐƯỜNG VỀ THUẬN NGHĨA – QUÊ HƯƠNG THÁNH PHÊRÔ VŨ
ĐĂNG KHOA
Đền Thánh Khoa: Từ Hà Nội vào, qua khỏi km 405
gặp cầu Giát (thuộc thị trấn Cầu Giát), đi thêm khoảng 500 mét, gặp đường rẽ bê
tông phía tây, ranh giới giữa khối phố 7 và khối phố 8, đó đường vào nhà thờ
giáo xứ Thuận Nghĩa. Đền Thánh Khoa ở sát cạnh nhà thờ. Đền thờ Thánh Khoa hiện
nay được xây cất năm 1992. Hai bên đền thờ là hai khu đất nhỏ, nơi lưu giữ hài
cốt và chôn cất các linh mục đã phục vụ giáo xứ. Giữa cổng và Đền Thánh Khoa là
những hàng ghế để bà con giáo dân kính viếng Ngài
Lễ giỗ ngày 24-11 hằng năm tại Thuận Nghĩa được
tổ chức rất trọng thể, rước và diễu hành đi rất xa vài ba cây số. Tại miền Nam:
lễ giỗ được luân phiên tổ chức tại các xứ có đông người gốc Thuận Nghĩa; cứ
mười năm một lần bà con xa xứ lại quy tụ về quê hương Thuận Nghĩa một lần (năm
2010 là lần thứ hai).
Ông Vũ Đình Hòe, hậu duệ Cha Thánh năm nay 54
tuổi, hiện đang chăm sóc đền Thánh Khoa. sđt: 038-3770318; 01655403308. Cũng có
thể liên hệ với ông Vũ Văn Sâm, sđt: 01638-687-376.
Từ Thuận Nghĩa phát xuất rất đông linh mục và tu
sĩ nam nữ. Trong hàng hậu duệ của Thánh Khoa có Lm Vũ Văn Trí, phó xứ Hiệp Đức,
giáo phận Phan Thiết, sđt: 0933-163-556; cha Nguyễn Duy Lam ofm (họ ngoại),
sđt: 0937-893-885.
ĐƯỜNG VỀ CHUÔN TRUNG VÀ BÚT QUAI – QUÊ HƯƠNG
THÁNH LUCA VŨ BÁ LOAN
Thánh Luca Vũ Bá Loan sinh tại giáo họ Bút Quai,
giáo xứ Bút Đông và an táng tại thôn Chuôn Trung xã Chuyên Mỹ – Phú xuyên – Hà
nội (Hà Tây cũ). Tại đây có Đền và Nhà Thờ kính ngài.
Từ Hà Nội theo Quốc lộ số 1 xuôi về phía
nam, tới km 38 hoặc 40, (có ba lối) rẽ phải vào đường liên huyện, đi khoảng 6
km là tới đền Cha Thánh Luca.
Chuyên Mỹ là một xã nông nghiệp trù phú, nhộn
nhịp vì có nghề làm đồ gỗ giả cổ, chạm khảm lâu đời, rất uy tín. Dân toàn tòng
công giáo, mộ đạo và rất tôn kính Thánh Luca Vũ Bá Loan. Kẻ Chuôn gồm ba thôn
Thượng, Trung và Hạ cùng nằm ven sông Nhuệ. Trước khi Cha Luca chết, cả ba thôn
đều đòi xin xác cha về an táng. Cha đồng ý để cho Chuôn Trung lo. Họ chở xác
Cha từ Cầu Giấy về trên sông Nhuệ phải đi qua Chuôn Thượng. Đoán biết giáo dân
Chuôn Thượng sẽ giữ di hài cha lại để chôn, họ tổ chức đi hai thuyền. Con
thuyền trống dong cờ mở mang áo quan nhưng bên trong không có di hài Cha Thánh
đi trước, bị giữ lại ở Chuôn Thượng. Còn con thuyền nhỏ lặng lẽ đi sau đã đưa
di hài Cha Luca về tới Chuôn Trung an toàn. Chuôn Trung ở giữa nên cả hai thôn
Thượng và Hạ đều có thể đến mộ, không xa.
Đền và Nhà thờ kính thánh Luca Vũ Bá Loan ở
Chuôn Trung rất đẹp. Bàn thờ bằng gỗ quý, được chạm trổ và gắn ngọc trai hồng,
trang trọng và mỹ thuật. Sau nhà thờ, trên tháp cao có tượng vị thánh tử đạo
nhìn về hướng ngôi Đền kính ngài. Đền được dựng giữa một hồ nước đường kính
khoảng 60m, với cây cầu nối xinh xắn. Đền xây hình lục giác, hai tầng mái cong,
ở mỗi cạnh được mở bằng 04 cánh cửa gỗ. Tượng Thánh Luca Vũ Bá Loan được tạc
bằng đá quý.
Sinh quán cha thánh Luca Vũ Bá Loan là
thôn Bút Quai – Duy Tiên – Hà Nam (thuộc Giáo xứ Bút Đông), cách Chuôn Trung 20
km về phía tây nam. Ta trở lại Quốc lộ 1A, đi tiếp về phía nam, đến thị trấn
Đồng Văn, lên cầu vượt, rẽ trái vào đường sang Hưng Yên, khoảng 4km đến chợ
Lương (chợ mở bên vệ đường) qua cầu Lương, là Giáo họ Bút Quai, nhà thờ cách đó
khoảng 800m.
Theo bà con ở Bút Quai, con cháu trực hệ Thánh
Luca Vũ Bá Loan nay không còn ai ở làng, chỉ vài người bà con họ ngoại rất xa
của Cha Thánh như vợ ông Trần văn Chiến, người đang coi sóc Nhà Thờ và Đền
Thánh ở đây. Ông đã 77 tuổi (2011 - sđt: 01696281890).
Bút Quai là một giáo họ nghèo. Đền Thờ Cha Thánh
vừa được xây xong tháng 6-2010 do giáo dân tại đây, giáo dân Chuôn Trung, khách
hành hương, và một số linh mục có liên hệ xa gần cùng góp sức xây dựng. Hàng
năm, giáo họ Bút Quai cũng như giáo dân Chuôn Trung cùng làm lễ giỗ Thánh Luca
Vũ Bá Loan vào ngày 5-6 dương lịch.
ĐƯỜNG VỀ TRUNG LAO – QUÊ HƯƠNG THÁNH ĐA
MINH VŨ ĐÌNH TƯỚC
Từ Hà Nội muốn về Trung Lao, ta theo Quốc lộ 1,
xuôi nam, qua Phủ Lý, tới Nam Định, đi vào trung tâm thành phố, lên cầu Đò
Quan, và từ Cầu này đến thị trấn Cổ Lễ khoảng 20 km. Khi đến gần giữa thị trấn
có một cây cầu nhỏ bên phải, rộng và dài chừng vài ba mét gọi là cầu Điên Biên.
Qua cầu này, là vào phố Trung Đông – Trung Lao. Sau khoảng 1 km tới cây cầu thứ
tư kể từ cầu Điên Biên, rẽ trái là đền Cha Thánh Đa Minh Vũ Đình Tước. Đứng ở
trên cầu hay trên đường cũng nhin thấy được rất rõ.
Trung Lao là một giáo xứ lớn, có trên 8000 tín
hữu với 10 Họ Đạo và 18 Xóm Giáo (trong đó có xóm Tây Phong là nơi Thánh Tước
Chào Đời và có xây Nhà Nguyện kính Ngài). Nhà thờ xứ bằng gỗ, Bàn thờ sơn son
thiếp vàng cổ nhất Địa phận Bùi Chu, khởi công xây dựng cách đây 123 năm
(1888-2011) ngày nay vẫn còn trơ gan cùng tuế nguyệt. Ngày 1.1.2010 Đức Cha
Giuse Hoàng Văn Tiệm đã về xứ đạo nâng Nhà thờ Lên Đền Thánh với Tước Hiệu
Maria Mẹ Thiên Chúa. tại toà vàng trong Thánh Đuờng có Tương Thánh Tước bằng gỗ
qúy to cao 2m50 được thực hiện cách nay cả 100 năm, Đế tượng có hộp dựng xương
của Ngài. Ngoài ra trong khuôn viên khu vực nhà thờ còn có Đài Tưởng niệm với
tượng Thánh Tước đúc bằng đồng, uy nghi đứng bên cạnh Nhà Truyền thống của Giáo
Xứ. Tại Trung Lao có rất đông người họ Vũ, rất mộ đạo và cũng rất sùng kính các
Thánh tử đạo, trong đó có Thánh Đa Minh Vũ Đình Tước. Người đang coi sóc đền
Thánh Tước là ông Vũ Đình Hàm (sđt: 0165232176), Theo ông Hàm, ở Trung Lao hiện
có hơn 200 người theo đuổi ơn gọi tại các chủng viện và dòng tu trên toàn quốc.
Hằng năm, bà con Trung Lao tổ chức lễ giỗ Cha
Thánh Đa Minh vào ngày 19/6 dương lịch, tổ chức rất trang trọng. Khách hành
hương và khách mời rất đông. Đây là ngày lễ đông vui nhất trong năm ở Trung
Lao.
Trung Lao là một giáo xứ sầm uất, nhôn nhịp và
trù phú. Đa số dân làm nông, một số người đóng đồ gỗ, khắc và chạm khảm tinh
vi. Tại quê nhà cũng như khi đi làm ăn xa, giáo dân Trung Lao sống có tổ chức,
đoàn kết, biết chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau.
Còn về dòng tộc của Cha Thánh Đa Minh tại Trung
Lao hiện có các ông Vinh Sơn Vũ Đình Sơn và Vinh Sơn Vũ Đình Sản, sđt:
01697149155. Cha Giuse Vũ Thanh Cảnh - Chính xứ Nam Định. TP Nam Định, sđt: 090 326
3902.
Muốn tìm hiểu rõ hơn, xin mời vào trang Giới trẻ
Đồng Hương Trung Lao: http://gioitretrunglao.webnode.com.
ĐƯỜNG VỀ HÀ THẠCH – QUÊ HƯƠNG THÁNH PHÊRÔ VŨ
TRUẬT
Thầy giảng Phêrô Vũ Truật là vị Thánh tử đạo duy
nhất của Giáo phận Hưng Hóa, quê tại giáo xứ Hà Thạch. Giáo phận Hưng hóa nằm
phần lớn ở trung du, miền núi Bắc bộ đất đỏ. Giáo xứ Hà Thạch thuộc góc đông
nam Thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ; sát đường tỉnh lộ 320, ven bờ sông Hồng. Hiện
tại giáo xứ này có đền kính thánh Phêrô Vũ Truật. Tượng đài và đền thánh tọa
lạc trên một khu đất rộng. Đền thánh được khởi công xây dựng ngày 18-12-1997,
do linh mục Phêrô Phùng Văn Tôn, và được Đức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng
cắt băng khánh thành, dâng lễ làm phép đền và tượng, ngày 18-12-1998.
Hậu duệ của Thầy Thánh Phêrô Vũ Truật hiện còn
hai chi. Chi gần nhất là Ô Giuse Vũ Hữu Dụng, sinh năm 1947 (sđt:
0121-3714-358). Ông là hậu duệ 6 đời của Thầy Thánh Truật. Còn 01 chi nữa ở
cách Đền Thánh 6km, vì lý do kinh tế nên chi này đã bỏ họ Vũ sang họ Nguyễn
nhưng vẫn tụ họp ngày giỗ Thầy Thánh Truật vào 18-12 hàng năm. Trước kia bà con
ở đây còn giữ được ảnh chân dung Thánh Truật, có hai dòng chữ nho chạy dọc hai
bên. Hiện nay bà con đồng hương Hà Thạch, trong nước và hải ngoại, một số nơi
còn giữ được di ảnh.
Loan Tin Mừng cho dòng họ- chia sẻ 14
Lm TTT Võ Tá Khánh
|
Loan Tin Mừng cho dòng họ - Chia sẻ 15
Lm TTT Võ Tá Khánh
|
Loan Tin Mừng cho dòng
họ - Chia sẻ 16
Lm TTT Võ Tá Khánh
NHỮNG CỘI NGUỒN ẢO
Tuần Thánh năm 2010, tôi được đi thăm huyện đảo
Lý Sơn. Những bia mộ ở đây có một nét đặc biệt. Tất cả các mộ họ Võ dù thuộc
nhánh nào cũng bắt đầu bằng ba chữ “Thái Nguyên Quận”. Họ Nguyễn là “Trần Lưu
Quận”, họ Bùi là “Hà Đông Quận”, họ Trần là “Vĩnh Xuyên Quận”, họ Trương là
“Thanh Hà Quận”, họ Dương là “Hoàng Nông Quận”, họ Lê là “Kinh Triệu Quận” và
họ Phạm là “Cao Bình Quận”. Phần đông cư dân trên đảo cho rằng đó là tên những
châu quận trên đất liền mà các dòng họ này phát xuất. Tôi rất ngạc nhiên vì một
vài địa danh rất lạ, mới được nghe lần đầu, và vì không có thời nào trong lịch
sử đất nước đã được trực tiếp chia thành quận thay vì tỉnh. Khi đến thăm chùa
Từ Quang ở An Hải, tôi nêu câu hỏi và thầy Thích Hành Hỷ đã cho một câu trả lời
khá thỏa đáng. Theo thầy, việc ghi châu quận như thế chỉ áp dụng cho người chết
chứ không cho người sống. Tập tục này được ghi trong quyển Lịch Vạn Niên. Một
phụ lục của quyển này liệt kê 510 dòng họ, mỗi dòng họ có kèm theo tên một châu
quận và một số dòng họ có chung châu quận. Người ta hình dung địa lý cõi âm có
nhiều châu quận khác nhau, khi sống người ta có thể trôi dạt bất cứ đâu trên
trái đất, nhưng khi chết thì ai về châu quận nấy. Như thế, ba chữ “Thái Nguyên
Quận” trên bia mộ người họ Võ không phải là địa chỉ xuất phát nhưng là địa chỉ
đến.
Tôi đã có dịp đến thăm cụ Vũ Hiệp tại tư gia ở
đường Lý Tự Trọng, quận I. Là một nhà nghiên cứu nổi tiếng về gia phả và các
dòng họ Việt Nam. Theo cụ, gốc gác 510 dòng họ trước khi được xem như bản đồ
địa lý cõi âm, thì đã là tư liệu địa lý nhân văn có thật tại Trung Quốc. Cụ
cũng đồng thời lưu ý rằng việc gán ghép các dòng họ Việt Nam vào những
nguồn gốc ấy của Trung Quốc là chuyện cần xét lại. Trước thời Bắc thuộc, tên
gọi của người Việt giản dị như của đồng bào các sắc tộc ít người hiện nay,
thường gồm một từ để chỉ nam hay nữ và một từ chỉ là tên gọi. Ngay cả nơi tên
hai bà Trưng thì chữ Trưng không phải là tên một dòng họ (ngoài hai bà, ta
không gặp một nhân vật nào khác có chữ Trưng đi trước tên gọi) mà chỉ là tên
của làng Chưng, một làng sống bằng nghề chưng kén, kéo tơ, dệt lụa. Kén nhất
được gọi là kén Trắc, kén hạng hai được gọi là kén Nhì hay khén Nhị. Như thế,
Trưng Trắc có nghĩa là cô Nhất ở làng Chưng và Trưng Nhị là cô Nhị ở làng
Chưng.
Theo ông Vũ Hiệp, do nhu cầu quản lý nhân khẩu
để đô hộ, người Tàu đã bắt người Việt phải đi vào một hệ thống dòng họ. Do
những điều kiện cụ thể từng nơi, từng thời điểm, người dân ở một khu vực nào đó
được ghép vào một số dòng họ nhất định nào đó. Sự kiện này cũng đã xảy ra đối
với một số cộng đồng sắc tộc ít người, chẳng hạn nơi thông tin sau đây trên
trang Văn Hóa Học:
“Các dân tộc ở miền núi Quảng Ngãi vốn có tên mà
không có họ, vì thế không có thuật ngữ riêng để chỉ dòng họ. Mỗi người có tên
gọi riêng và kèm theo đó là một bổ ngữ chỉ giới tính…
Vào thời nhà Nguyễn và Pháp thuộc, để dễ theo
dõi hộ tịch, hộ khẩu và số đinh trong các làng nóc miền núi Quảng Ngãi, các dân
tộc miền núi trong tỉnh đều được đặt họ Đinh (theo họ cha), tức có nghĩa là
thằng, đứa (con trai), dần dần con gái cũng theo họ cha mà ghi trong hộ tịch,
hộ khẩu, hoặc kê khai đi học là họ Đinh (8).
Năm 1969, khi Bác Hồ mất, hầu hết người Cor ở
Trà Bồng đổi sang họ Hồ. Số đông người Hrê ở Ba Tơ lấy họ Phạm (họ của đồng chí
Phạm Văn Đồng), phần lớn đồng bào người Hrê ở Sơn Hà, Minh Long, đồng bào Ca
Dong ở Sơn Tây vẫn còn giữ họ Đinh.”
Trường hợp họ Vũ Võ lúc đầu cũng thế. Bàn về ông
Vũ Hồn (804-853), người được coi là thủy tổ họ Vũ-Võ tại Việt Nam, cụ Vũ Hiệp
nêu một nhận xét lý thú rằng cả gia phả, tộc phả và thần phả đều không nói Vũ
Hồn có một người con nào. Tác giả Tiến sĩ Vũ Huy Thuận, trong bài “Giới thiệu
sách cổ văn hoá làng Mộ Trạch” (http://hovuvovietnam.com/ Gioi-thieu-sach-co-van-hoa-lang-Mo-Trach)
cũng có viết: “Ngọc phả làng Mộ Trạch kể lại rằng: Cụ Vũ Hồn (804-853) sau khi
từ quan (843-844) đã đến nơi đây lập trang trại đặt tên là “Khả Mộ trang”...
Khi cụ mất (853), dân Khả Mộ trang lập miếu thờ cụ như vị sáng lập thôn Khả Mộ
(đến triều Trần 1226 được đổi tên là Mộ Trạch). Để tưởng nhớ công lao của cụ,
dân trong làng đều mang họ của cụ. Họ Vũ. Cũng từ đó, Cụ không chỉ được thờ như
vị thành hoàng làng, mà còn được coi là thủy tổ họ Vũ Mộ Trạch.”
Gần đây người ta phát hiện ra đền thờ hai nhân
vật họ Vũ sống nhiều thế kỷ trước ông Vũ Hồn: đền thờ bà Vũ Thị Thục, nữ tướng
của Hai Bà Trưng và đền thờ nhà giáo Vũ Thê Lang, được cho là của thời Hùng Vương.
Dù vậy ông Vũ Hồn vẫn được đa số người họ Vũ-Võ ngày nay dành cho danh hiệu
thủy tổ họ Vũ-Võ ở Việt Nam, và theo tôi, điều ấy chính đáng, bởi một lẽ duy
nhất là đại chúng đương thời đã vì cảm mến ông mà cải sang họ Vũ-Võ, coi ông
như tổ phụ.
Có những người gốc họ Võ nhưng nhiều thế hệ qua
đã mang một họ khác. Lại cũng có những người mang họ Võ nhưng thật ra là từ một
dòng họ khác cải sang. Việc khám phá ra chuyện cải họ có thể khiến nhiều người
bị hụt hẫng. Khi hoàn thành bài viết về họ Võ tỉnh Phú Yên, trong đó có thông
tin về một nhánh họ Võ ở xã Hòa Thắng trước kia là họ Lê, tôi gởi cho một người
con gái nhánh này xem. Cô hồi âm cho tôi như sau:
“Chào bác ! Con đã đọc bài viết về họ
Võ mà bác đã trải qua không ít công sức để truy tìm về cội nguồn của dòng họ
Võ. Con thật sự bất ngờ về một sự thật mà lâu nay con thuộc thế hệ trẻ nên
không biết được, đó là con thuộc về nguồn gốc họ Lê chứ không phải họ Võ. Điều
này làm con có một chút ngậm ngùi.
Trong ý nghĩ của con lại đặt ra một
dấu hỏi.
Quá khứ của lịch sử là một sự bí ẩn
chưa có sự khẳng định nhất định. Ví như trước thời ông Cao tổ của con thuộc về
dòng họ Lê, vậy các đời trước hơn nữa liệu các cụ cao tổ thuộc về họ gì ? và
những biến đổi của nó như thế nào ? điều này làm con phân vân. Nhưng rồi con
suy nghĩ rằng dù con mang dòng họ nào thì con vẫn biết ơn các cụ tổ đã sáng lập
ra các dòng họ để con cháu ngày nay được mang tên dòng họ của các cụ lưu truyền
lại. Và điều này đã làm con cảm thấy vui bác à, con mong rằng sau này con sẽ có
nhiều cơ hội được hiểu về nguồn gốc đích thực của các cụ tổ mà hiện đang là một
dấu hỏi rất lớn trong suy nghĩ của con bác ạ!.
Cảm ơn bác nhiều lắm.
Con chúc bác có nhiều cơ duyên hơn
nữa để tìm về cội nguồn nơi đích thực vẫn còn là một sự bí ẩn.
Chúc bác luôn sức khỏe và an lành.
Võ Thị Kim Đoan
(sđt: 0988-234-828)
Nữ độc giả của tôi là một Phật tử ăn chay
trường, nên sớm nhận ra ngay mọi sự đều vô thường và tương đối. Tôi muốn nói
thêm với cô rằng, khi phải giấu họ Lê, ông Cao của cô đã chọn họ Võ chứ không
phải một họ nào khác, hẳn là do ông cảm kích lòng tốt của một vài người họ Võ
nào đó. Tương tự, nếu có người họ Võ nào đó phải thay tên đổi họ và đã chọn họ
Lê chứ không phải họ khác, thì chắc hẳn vì ông thấy người họ Lê đáng mến. Nếu
các vị tổ phụ nhân loại hướng lòng ta đến vị Cha Chung trên trời thì những thực
tế về quan hệ họ hàng máu mủ dẫn ta đến cảm nghiệm anh em bốn biển một nhà.
Điều thứ hai này bắt nguồn từ điều thứ nhất: Mọi người trên thế giới không thể
là anh em với nhau nếu không có chung một người Cha.
Chúng ta đọc thấy trên nhiều bia mộ cụm từ sau
đây: “Mộ thủy tổ họ…”, “Mộ cao tổ họ…”. Vị nằm ở đó được coi là “thủy tổ” nhưng
người ta không biết tên, mặc dù có khi chỉ là người sống cuối thế kỷ XIX. Gia
tộc phía nội tôi cũng nằm trong trường hợp này, vị tổ khuyết danh sống vào giữa
thế kỷ XIX.Việc truy tìm thủy tổ một dòng họ quả là chuyện mịt mờ vô vọng nhưng
cũng có cái hay là đánh thức nơi mọi người mối bận tâm đi tìm nguồn cội đích
thực và cuối cùng của nhân loại là chính Thiên Chúa Tạo Hóa.
Hiểu như thế, ta sẽ tiến tới một thái độ trung
dung về vấn đề gia phả. Một đàng, ta tâm đắc với lời Thánh Phaolô dạy ở đầu thư
thứ nhất gửi cho Timôthê: “Đừng chú ý đến những chuyện hoang đường và những gia
phả dài dòng; những cái đó chỉ gây ra tranh luận, chứ không đóng góp vào kế
hoạch của Thiên Chúa mà đức tin cho chúng ta biết” (1Tm 1,4). Một đàng, vì ích
lợi giáo dục, ta sẽ cổ võ đồng tộc và đồng đạo xây dựng lại bản gia phả giới
hạn với những bậc Tổ Tiên hiện còn biết được, bởi lẽ đây là một công việc mang tính
sư phạm, có tiềm năng đóng góp vào sự phục hồi tấm “lòng lành”, cõi lòng hướng
thiện cho thế hệ trẻ giữa dòng cuồng lưu của sự suy đồi đạo lý.
Trong bài tiếp sau về “tâm tư của người loan Tin
mừng cho người cùng dòng họ”, tôi sẽ chia sẻ thêm về điều ấy.
Lm
Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh
Loan Tin Mừng cho dòng họ - chia sẻ 17
Lm TTT Võ Tá Khánh
|
Loan Tin Mừng cho dòng họ - chia sẻ 18: Ngỏ
lời với bạn đọc ngoài Kitô giáo
Lm TTT Võ Tá Khánh
|
Loan Tin Mừng cho dòng họ - Chia sẻ 19
Lm TTT Võ Tá Khánh
ĐÀO TẠO NGƯỜI CHỨNG TRẺ
Xin được trở lại với các độc giả Công giáo.
Chúa dạy hãy đi khắp thế giới loan báo Tin mừng. Do đó, việc
loan Tin mừng không khép kín lại với một nhóm người cùng Dòng họ, nhưng nhóm
người ấy chỉ đóng vai một nhúm men giúp cả khối bột dậy men. Gạch nối để Tin
mừng lan từ họ này sang họ khác là những người con dâu và con rể, những người
có quan hệ thông gia.
Các gia đình cũng như cộng đoàn giáo xứ cần quan tâm đào tạo cho
con em mình có một đức tin đầy bản lãnh, thấm đều mọi mặt cuộc sống, để khi
họ lên đường về nhà chồng hoặc nhà vợ, họ thực sự là những chứng nhân của Hội
Thánh Chúa. Nhiều cha mẹ người lương thích cho con cái lập gia đình với người
Công giáo bởi họ thấy đa số người Công giáo chung thủy trong hôn nhân. Thế
nhưng đã có một số trường hợp rất đáng tiếc, chính bên người Công giáo gốc
thiếu thiện chí, khiến hôn nhân tan vỡ. Những trường hợp đau lòng ấy đòi hỏi
chúng ta phải nghiêm túc kiểm điểm lại việc giáo dục đào tạo của chúng ta.
Cần giúp bạn trẻ đi sâu vào cầu nguyện để có được đức tin, đức cậy và đức mến
nồng nàn mãnh liệt, nhờ đó, dù phải qua đau thương thử thách tới đâu vẫn
quyết một lòng trung thành với Luật Chúa dạy và làm chứng cho Chúa.
Thực tế của quá khứ cho thấy rất đông những người theo Đạo để
lập gia đình có một đức tin không sâu và không bền, khiến nhiều phụ huynh
Công giáo ái ngại khi thấy con em mình thương người ngoài Công giáo. Tuy
nhiên không thiếu những trường hợp những người trở lại trong dịp kết hôn lại
có một đời sống đức tin còn mẫu mực hơn nhiều người Công giáo đạo dòng. Sự
khác biệt thật ra là do cách đào tạo và chăm sóc. Thành kiến xem thường ơn
đức tin của người trở lại nhân dịp kết hôn, có thể khiến người ta dạy giáo lý
cách sơ sài vội vã cho xong chuyện. Nhiều bậc phụ huynh cố ngăn cản tình
duyên của con cái mình, cho tới lúc không ngăn cản được nữa, nhượng bộ cho
con cái thì thời giờ học giáo lý không còn nhiều. Thêm vào đó, chuyện tin
ngày giờ tốt xấu, kiêng kị tuổi tác nhiều khi cũng khiến người ta tiến hành
hôn nhân vội vã, không kịp học giáo lý cho thật sâu.
Chúng ta cần nhìn vấn đề dưới ánh sáng đức tin. Nếu một
sợi tóc trên đầu ta rơi xuống không ngoài ý Chúa thì sự kiện ánh sáng Tin
mừng đến với rất đông bạn trẻ qua con đường hôn nhân không phải là chuyện
ngẫu nhiên. Đó là những nén bạc quý báu Chúa đang trao cho Giáo hội ở thời
đại này, mọi thành phần Dân Chúa đều cần biết trân trọng góp phần sinh lợi,
không để một nén bạc nào bị vùi lấp oan uổng.
Các bậc làm cha mẹ cần biết tin cậy vào tình thương Thiên Chúa,
trân trọng ơn đức tin Chúa đang ban cho người con dâu hay con rể của mình và
tôn trọng sự chọn lựa của con cái, để ứng xử sát thực tế hơn. Một khi thấy
con cái đã quyết, cha mẹ cần sớm chấp thuận và hướng dẫn cho việc học giáo lý
được tươm tất và đức tin kịp thấm sâu và nẩy nở.
Các vị dạy giáo lý cần vững tin vào ơn Chúa, dù thời gian rất
ngắn cũng đừng vội vã. Hãy bước những bước đầu thật chính xác và chắc chắn.
Hãy mở đầu bằng việc giúp học viên ngỏ lời với Thiên Chúa là Cha, và cứ như
thế cho tới lúc họ thực sự cảm nghiệm rằng Cha đang ở trong họ, đang ủ ấp họ
và đang dẫn dắt họ trên mọi bước đường. Đức tin đến từ sự gặp gỡ Thiên Chúa
cách thân tình và đầy yêu mến, chứ không đến do sự nhồi nhét một mớ hiểu
biết. Những hiểu biết giáo lý rất quan trọng và cần thiết, nhưng ta đừng vội.
Một khi học viên bắt đầu nếm cảm được Chúa, chính họ sẽ kiếm tìm và chỉ một
khám phá nhỏ họ nhận được dưới ánh sáng của Chúa đủ khiến họ miệt mài trên
đường theo Chúa. Các vị hãy sớm trao Kinh Thánh vào tay học viên và giúp họ
khám phá từng chút một bằng sự suy nghĩ, cầu nguyện và đổi mới đời sống theo
Lời Chúa. Cũng hãy mạnh dạn khuyến khích học viên chia sẻ ơn họ đang nhận
được với đồng bạn trong lớp giáo lý và cả với những người chưa tin. Một đức
tin được chia sẻ sẽ tựa như lửa, cháy lan và cháy bùng lên.
Một thiếu sót lớn của cộng đồng Công giáo Việt
Tệ hơn nữa, khi các bạn trẻ muốn mua một quyển sách thích hợp để
tặng cho bạn trai hoặc bạn gái của họ, thì không biết tìm ở đâu. Giáo hội
Phật giáo có một tổ in ấn và phát hành thuộc thành hội TPHCM và từ đó sách vở
Phật giáo lan tỏa đến mọi miền đất nước. Giáo hội Cao Đài cũng có một hệ
thống phát hành tương tự. Phải chi Giáo hội Công giáo Việt Nam có một cơ sở
tổng phát hành, rồi mỗi Giáo hạt có một bộ phận cung ứng sách cho các giáo xứ
trong Hạt, các bạn trẻ sẽ dễ dàng trao tặng cho bạn bè của họ những băng đĩa
và sách vở giới thiệu Tin mừng với hình thức thích hợp với tuổi trẻ. Họ có
thể thành tông đồ cho những người bạn chưa tin, rồi những người bạn này khi
đã được ơn đức tin, lại thành chứng nhân giữa gia đình và gia tộc của mình.
Đây là trách nhiệm của các hội doanh trí tại các giáo phận. Điều Dân Chúa
đang mong chờ nơi các hội doanh trí có lẽ không chỉ là đóng góp xây thêm nhà
thờ nhưng là sự suy tư, động não và tích cực góp phần thiết thực để đào tạo
cho Giáo hội những chứng nhân trẻ giàu tâm huyết và khả năng, mà trước mắt là
cung ứng dồi dào thức ăn tinh thần cho họ. Nếu quý vị băn khoăn tìm một dự án
tông đồ mang tính trí thức, tôi nghĩ dự án ưu tiên nhất cần được chọn là xây
dựng cho Giáo phận của quý vị một hệ thống phát hành sách.
Tuy nhiên trách nhiệm lớn nhất trong việc đào tạo người chứng
trẻ thuộc về các mục tử. Khi một cha sở giành lấy cho mình việc chăm sóc
những tín hữu mới, chắc hẳn ngài sẽ có hàng ngàn sáng kiến. Năm 1990 khi được
gặp Đức Cha Phaolô Maria Phạm Đình Tụng tại Bắc Ninh, rồi mấy năm sau được
thăm ngài tại Tòa Tổng giám mục Hà Nội, tôi rất cảm kích vì chính ngài đích
thân lo cho các dự tòng trí thức. Tôi cũng gặp được một bản sao y hệt nơi
người kế vị ngài là Đức Cha Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến. Cả hai vị đều là
bản sao của nhóm 12 Giám mục thuở ban đầu, và hơn nữa, bản sao của chính Chúa
Kitô, Đấng đã thức thâu đêm để trao đổi với một người trí thức là Nicôđêmô.
Rồi cả khi đã mỏi mệt vì đường xa, ngồi bệt bên bờ giếng, Ngài không ngại
dành bận tâm cho một phụ nữ đến lấy nước ở đó. Điều an ủi là cả hai đều đã
trở thành những chứng nhân cho Ngài…
Lm Trăng Thập Tự Võ Tá
Khánh
|
Loan Tin Mừng cho dòng họ: Chia sẻ 20 :Hai bản thông cáo 1965 và 1974
Lm TTT Võ Tá Khánh
Theo dõi loạt bài của chúng tôi, hẳn nhiều độc giả muốn đọc nguyên văn những chỉ dẫn của Hội Đồng Giám Mục (Miền
Thông cáo
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét