VUI HỌC THÁNH KINH
HỌC HỎI LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH NĂM B
Tin Mừng thánh Gioan 20,19-31
I. TIN MỪNG
19 Vào
chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng
kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói:
"Bình an cho anh em! "20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh
sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.21 Người lại nói với các ông:
"Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh
em."22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận
lấy Thánh Thần.23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ
ai, thì người ấy bị cầm giữ."
24 Một
người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các
ông khi Đức Giê-su đến.25 Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được
thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người,
nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người,
tôi chẳng có tin."26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong
nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến,
đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em."27 Rồi Người bảo ông
Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt
vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin."28 Ông Tô-ma thưa
Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! "29 Đức Giê-su bảo:
"Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!
"
30 Đức
Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó
không được ghi chép trong sách này.31 Còn những điều đã được chép ở đây là để
anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà
được sự sống nhờ danh Người.
19 On the evening of that first day of the week, when the doors
were locked, where the disciples were, for fear of the Jews, Jesus came and
stood in their midst and said to them, "Peace be with you."
20 When he had said this, he showed them his hands and his
side. The disciples rejoiced when they
saw the Lord.
21 (Jesus) said to them
again, "Peace be with you. As the Father has sent me, so I send you."
22 And when he had said
this, he breathed on them and said to them, "Receive the holy Spirit.
23 Whose sins you forgive
are forgiven them, and whose sins you retain are retained."
24 Thomas, called Didymus, one of the Twelve, was not with them
when Jesus came.
25 So the other disciples said to him, "We have seen the
Lord." But he said to them, "Unless I see the mark of the nails in
his hands and put my finger into the nailmarks and put my hand into his side, I
will not believe."
26 Now a week later his disciples were again inside and Thomas
was with them. Jesus came, although the doors were locked, and stood in their
midst and said, "Peace be with you."
27 Then he said to Thomas, "Put your finger here and see my
hands, and bring your hand and put it into my side, and do not be unbelieving,
but believe."
28 Thomas answered and
said to him, "My Lord and my God!"
29 Jesus said to him,
"Have you come to believe because you have seen me? Blessed are those who
have not seen and have believed."
30 Now Jesus did many
other signs in the presence of (his) disciples that are not written in this
book.
31 But these are written that you may (come to) believe that
Jesus is the Messiah, the Son of God, and that through this belief you may have
life in his name.
II. TRẮC NGHIỆM
01. Chúa nhật 2 Phục Sinh kính nhớ
sự gì?
a. Việc
Chúa Giêsu hiện ra với ông Tôma.
b. Chúa
Giêsu vị mục tử nhân lành.
c. Lòng
Chúa Thương Xót.
d. Sự đau
khổ của Đức Maria.
02. Đức Giáo Hoàng nào đã thiết lập
lễ Lòng Chúa Thương Xót?
a. Đức
Giáo Hoàng Gioan XXIII
b. Đức
Giáo Hoàng Phaolô VI
c. Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
d. Đức
Giáo Hoàng Biển Đức XVI
03. Khi hiện ra với các môn đệ,
Chúa Giêsu nói: “Bình an cho anh em”. Câu này có ý nghĩa gì?
a. Cầu
mong cho anh em khỏi lo lắng bối rối.
b.
Nguyện Thiên Chúa ban cho anh em mọi điều tốt lành.
c. Anh
em hãy đi bình an.
d. Chỉ
có câu a và b đúng.
04. Sau khi chúc bình an cho các môn
đệ Đức Giêsu đã thổi hơi vào các ông và bảo các ông hãy nhận lấy điều gì?
a. Sức
mạnh của thần khí.
b. Sự
khôn ngoan.
c. Thánh
Thần.
d. Cả a,
b và c đúng.
05.
Khi đứng giữa các môn đệ, Chúa Giêsu nói: Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai
các con. Điều đó có nghĩa là: Chúa Cha đã sai Ngài đến trong thế gian để cứu
chuộc nhân loại, thì Ngài cũng sai các ông đi để làm gì?
a. Đem lại ánh sáng và sức mạnh của Tin Mừng cứu rỗi cho muôn
dân.
b. Cho mọi người được hạnh phúc.
c. Cho muôn dân được sống trong yêu thương.
d. Cả a, b và c đúng.
06. Khi gặp được Đức Giêsu, ông
Tôma đã thưa Người:
a. Lạy
Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con.
b. Lạy
Thầy, Thầy đã sống lại.
c. Lạy
Thầy, con tin Thầy đã sống lại thật.
d. Thưa
Thầy, con đã tin.
07. Khi nào thì chúng ta lỗi phạm
đức tin?
a. Hồ
nghi hay chẳng tin những điều Chúa dạy.
b. Chối
đạo công khai hay bằng giáy tờ.
c. Coi
bói, cầu cơ … …
d. Cả a, b và c đúng.
III. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
“Phúc
thay những người không thấy mà tin! "
Tin Mừng thánh Gioan 20,29
Lời giải đáp
CÙNG HỌC HỎI LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH NĂM B
Tin Mừng thánh Gioan 20,19-31
II. TRẮC NGHIỆM
01. c. Lòng Chúa Thương Xót.
02. c. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
03. d. Chỉ có câu a và b đúng.
04. c. Thánh Thần.
05. a.
Đem lại ánh sáng và sức mạnh của Tin Mừng cứu rỗi cho muôn dân.
06. a. Lạy Chúa của con, lạy Thiên
Chúa của con.
07. d. Cả a, b và c đúng.
GB. NGUYỄN
THÁI HÙNG
Gặp gỡ Đức Kitô
Phục Sinh
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục
sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều
lần Đức Kitô phục sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra
ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:
1. Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành với họ
trên mọi nẻo đường.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn
trong không gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Ngươì
xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn
đệ đang chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng
đường dài. Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau
này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt
người theo đạo. Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín
không ngăn được bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo
đường của cuộc sống.
Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn
trong thời gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người
xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện
trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp
tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào
Người không ở bên ta.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn,
trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người
làm vườn.. Bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên
nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một
khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người
xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi
chiếu niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma.
2. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục sinh khơi dây
niềm bình an, tin tưởng.
Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn
loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các
ông: “Bình an cho các con”. Người còn thổi hơi vào các ông và nói: “Các con hãy
nhận lấy Thánh Thần”.
Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc
sáng tạo. Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần Linh
Chúa bay là là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi
vào trật tự, ổn định.
Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các
môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi ban
Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ
thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp
Đức Kitô phục sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu
tuyệt vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục
sức lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi
nan bối rối được vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an
cho các ông.
3. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng
nhất, Đức Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.
Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu
trời sụp đổ. Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường.
Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ
như đã chết với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong
họ thôi. Đức Kitô là linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.
Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những xác
chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại
kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại
rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một
ý nghĩa.
4. Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô phục sinh sai họ
đi loan báo Tin Mừng Phục sinh.
Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ
cuộc đời các môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý
nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao
đó. Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem
ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối
đen. Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám
ảnh. Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin
Mừng không biết mệt mỏi.
Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với
các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục
Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ
đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là
một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh
truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: “Khốn cho tôi
nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện
diện bên ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta
mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều
của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.
Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian:
trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong
chòm xóm.
Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui
buồn của cuộc đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú me. Người ở bên em
học sinh đang miệt mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình
phụ. Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên
ngững cuộc đời bế tắc không lối thoát.
Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được
Người. Hãy khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân
Người. Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.
Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh
hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống
dồi dào.
Lạy
Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn. Xin hãy đến và cho
con được Phục Sinh với Người.
. Nỗi oan Tôma - ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống.
Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh
xưng Tôma khơi gợi về một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình, chẳng
những không tích cực mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng. Gặp một tâm hồn cứng
cỏi trước những biểu cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví von “cứng lòng như
Tôma”; thấy ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo, người
ta đã vội đưa vào gia phả “con cháu thánh Tôma”. Kể cũng oan.
Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là
một bài học dẫn đến niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc thứ
chín, như người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang Tin Mừng hôm nay “Phúc
cho kẻ không thấy mà tin”, được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô hữu.
1. LẠY CHÚA TÔI, LẠY THIÊN CHÚA CỦA TÔI
Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả
một chặng đường trong đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng tôi đã
được thấy Chúa”. Chính vì chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự vấn để rồi
sau đó mới đi tới đức tin. Ngay việc các môn đồ hội họp vào ngày thứ nhất trong
tuần cùng với lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành
truyện Tôma, cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin
nơi một người.
Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm
thấy trong phản tỉnh của cá nhân ông. “Nếu tôi không thấy… tôi không tin”. Câu
nói tự phát ấy đã trở thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một
kẻ cứng đầu cứng cổ, đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra, ông là người thực tiễn.
Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin
thuở ban đầu và thế nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc
riêng không thể lẫn với người khác. Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì
tám ngày sau, qua tiếp xúc cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã tuyên xưng không
phải bằng công thức chung nữa, mà bằng một cách rất riêng làm thành đỉnh cao
tuyên tín Phục Sinh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi
có yếu tố quyết định chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi sự
cho đến hoàn thành. Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức
Giêsu thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông được
dẫn vào một nhận thức mới mẻ hoàn toàn. Thay vì phải thấy mới tin, ông nhận ra
rằng phải tin mới thấy trọn vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con người Giêsu cũng là
một, thấy Đấng Phục sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy
niềm tin vượt lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.
2. ĐỪNG CỨNG LÒNG, NHƯNG HÃY TIN
Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện
lòng chung của muôn lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn
rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn
thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.
Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ
rơi vào thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu nữa.
Có biết đâu tin như thế là không còn tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả tin.
Vì tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả? Chỉ dựa vào lý trí,
người ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại và
tiêu chuẩn của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không
hiểu, không đo lường sờ chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu tin như thế cũng
không còn là tin nữa, mà xem ra lại gần với sự bất tín! Nếu chỉ dựa vào cộng
đoàn thôi, người ta còn có thêm một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực. Bên ngoài
có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt. Lúc đạo
giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm
lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?
Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một
kinh nghiệm, và cần xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho niềm
tin đang dấn bước đi trong cuộc sống. Đừng cứng lòng! Phải chăng là lời gọi hãy
xa đi những thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà
dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối
chặng đường gặp gỡ: “Nhưng hãy tin!”
3. PHÚC CHO KẺ KHÔNG THẤY MÀ TIN
Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm
nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình. Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa
nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa. Tin như thế
là một hạnh phúc.
Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ đã
qui tụ cho Chúa những kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử hành niềm
tin của mình một cách sống động, không những qua nghi thức phụng vụ, mà còn qua
cách sống cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối
cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.
Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở
phía trước. Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình sao cho
thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con người,
sao cho chan hòa với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá
nhân. Và một khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở
thành trách nhiệm loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.
Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh
phúc ấy còn lắm nhạt nhòa. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong
nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều
mình không thấy. Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng thấy được để
vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác. Quả là vất vả. Nhưng
chính lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy đã
từng trải nghiệm. Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại
sức mạnh. Nghe trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin,
hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước
hẹn:tin điều mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.
Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một mình
ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết đường mà tránh. Một mình ông chịu
quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy
mới gặp được lối đi hạnh phúc của niềm tin. Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng
nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc? Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu
được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma. Để xin thêm
đức tin cho những tấm lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang
yếu đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.
. Ý nghĩa các vết sẹo – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong mùa Phục Sinh, các bài đọc sách Tin
Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ,
Ngài đều trao ban bình an: “bình an cho các con” và “cho các ông xem tay chân
và cạnh sườn” là những vết thương cuộc khổ nạn của Ngài.
Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là
thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn,
vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là
Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo.Tôma muốn sờ đến để
biết chắc Thầy đã sống lại.Khi Chúa Phục Sinh mời gọi Tôma: “hãy đặt ngón tay
vào lỗ đinh và hãy đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn”, chắc hẳn Tôma đã nhìn thật
lâu những dấu đinh. Khi ấy, Tôma khám phá thật sâu một Tình Yêu.Tình yêu hy
sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục
ông.Các vết sẹo của Thầy đã chữa lành vết thương hoài nghi của Tôma. Lòng ông
tràn ngập niềm cảm mến tri ân. Ông thoát
ra khỏi sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin.
Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy. Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của
Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tại sao thân xác phục sinh của Chúa Giêsu
vẫn còn mang các thương tích của cuộc khổ nạn? Các vết sẹo ấy có ý nghĩa gì đối
với chúng ta?
1. Những vết
sẹo giúp các môn đệ nhận ra Chúa
Chúa Giêsu phục sinh giúp các môn đệ nhận
ra Ngài nhờ những vết sẹo. Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn.
Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh
và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được tử thần.Các môn đệ mặc dầu
được tiên báo trước về cuộc Phục sinh (Mt 18,31-34), nhưng những tang tóc và lo
sợ xâm chiếm hết tâm hồn họ lúc này. Cho nên để họ được an tâm và bình an hơn,
Chúa nói: “hãy xem chân tay Thầy đây...”. Thân xác phục sinh của Chúa bây giờ
vẫn còn mang những dấu vết của cuộc thụ nạn như các dấu đinh, lằn roi... Chúa
bảo họ cứ sờ vào đó để khỏi còn phải nghi ngờ về bóng ma hay thần linh nào khác
“Chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có
đây” (Lc 24,39); “Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24,40). Bàn tay mang
dấu đinh là bàn tay nhen lửa và nướng cá bên biển hồ Tibêria. Bàn tay trao tấm
bánh đời mình trong bữa Tiệc Ly bây giờ trao tấm bánh mình mới nướng cho môn
đệ.(x.Ga 21,1-14).
Các Tông đồ đã thấy được thân xác vinh
quang phục sinh của Chúa.
Thân xác Chúa phục sinh cũng là thân xác
trước khổ nạn, nhưng nay không còn bị lệ thuộc vào không gian vào thời gian như
thân xác trước nữa. Chúa ra khỏi mồ (Lc 24,3), Chúa vào giữa nhà các Tông đồ
đang cửa đóng then cài (Ga 20,19), Chúa đi trên biển (Ga 21,7). Vì thế, thánh
Phaolô gọi thân xác phục sinh của Chúa là thân xác thiêng liêng, chí thiện (1Cr
15,40). Thánh Thần tràn ngập trong thân xác ấy.Thân xác Chúa Kitô Phục Sinh
được Kinh Thánh gọi là: bất tử (1Cor 15,53), bất diệt, linh thiêng (1Cor
15,44), bất khả thực (Kh 7,16), huyền diệu (Mt 28,1; Ga 20,19). Lanh lẹ (Lc
24,26). Chúa Kitô Phục Sinh đã cởi bỏ tất cả những yếu hèn của nhân loại như
đói khát, mệt mỏi. Dù Chúa có ăn uống chút ít, song đó không phải là nhu cầu tự
nhiên. Nhưng Chúa làm như vậy để các Tông đồ xác tín hơn rằng Ngài đã sống lại
thật với cùng một thân xác trước kia.
2. Những vết
sẹo là chứng tích của tình yêu cao cả
Thương tích trên thân thể phục sinh của
Chúa Giêsu là một nhắc nhở rằng, Ngài là Thiên Chúa nhưng cũng là một con người
như chúng ta, và Ngài đã chịu đau khổ để thông cảm với mọi đau khổ của loài
người và để làm gương cho chúng ta.
Khi nhìn đến Chúa Giêsu với các thương tích
của cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ cảm thấy an ủi hơn, gần gũi hơn với Thiên Chúa và
cố gắng vươn lên, không chìm đắm trong buồn sầu cay đắng, không tầm thường hóa
cuộc đời trong tội lỗi và vững tin rằng, sự sống lại vinh hiển có giá trị hơn
đời này gấp bao lần mà chính Chúa Giêsu đã mở đường đi về sự sống mới.
Qua cuộc khổ nạn mà các vết sẹo vẫn còn lưu
lại trên thân thể, Chúa Giêsu Phục Sinh muốn nói với chúng ta rằng sự đau khổ,
trong ý nghĩa tích cực là những hy sinh có giá trị cứu độ. Với các vết sẹo ấy,
Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, đau khổ không là một bất hạnh cần phải
lẫn tránh, mà tội lỗi gây ra đau khổ mới là điều xấu xa cần phải tránh xa.
Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi
ban chính Người Con Một; và Người Con Một đã yêu cho đến cùng, đã chịu khổ nạn
với trái tim bị đâm thâu khi tự hiến trên thánh giá. Chúng ta cũng phải đáp trả
sao cho cân xứng với tình yêu ấy.
Có
câu chuyện “Trái tim có nhiều vết sẹo” diễn tả tình yêu chia sẽ trao ban qua
những thương tích cuộc đời.
Một
buổi chiều trong công viên, có một chàng trai đang chăm chú vẽ một trái tim.
Trên khung giấy trắng dần dần hiện ra một trái tim thật đẹp, thật hoàn hảo
khiến mọi người đứng xem đều trầm trồ khen ngợi.
Bỗng
một ông lão đi đến. Ông trầm tư ngắm nghía bức tranh của chàng trai một hồi
lâu, rồi lặng lẽ mượn bút vẽ một hình thoạt nhìn rất lạ, nhìn thật kỹ mới nhận
ra đó là hình một trái tim…
Chàng
trai ngac nhiên nhìn trái tim ông lão vừa vẽ, nó bị chắp vá chằng chịt, nhưng
rõ ràng vẫn là một trái tim. Trên trái tim ấy, có chỗ như bị khuyết lõm, có chỗ
như bị cắt đi và được ghép nối bởi những mảnh to nhỏ khác nhau. Mọi người bắt
đầu bàn tán và lắc đầu tỏ ý không hiểu ý nghĩa hình vẽ trái tim của ông lão.
Chàng
trai thắc mắc:
- Cụ
ơi! Cháu không hiểu vì sao ông lại vẽ trái tim như vậy? Làm sao trái tim lại
mang nhiều vết sẹo và ráp nối như thế?
Ông
cụ mỉm cười rồi nói:
-
Đúng! Trái tim của ta có thể không hoàn hảo, nhưng nó là một trái tim thật sự.
Đấy chỉ là do trái tim này đã có thời gian sống và trải nghiệm nhiều hơn trái
tim của cậu. Hãy nhìn những dấu vết này! Tuy có nhiều thương tích nhưng tôi
luôn tự hào về nó. Cậu biết không, khi tôi trao một mảnh tim của tôi cho một
người thân, cha mẹ, anh chị, bạn bè và cả những người mà tôi tình cờ gặp được…
thì ngược lại, họ cũng trao cho tôi một mảnh tim của họ để đắp vào chỗ trống
ấy. Những mảnh tim này không hoàn toàn giống nhau: phần trái tim mà cha mẹ trao
cho tôi bao giờ cũng lớn hơn phần tôi trao lại; con gái tôi dành cho tôi phần
trái tim trong trẻo nhất; bạn đời tôi tặng cho tôi phần trái tim đẹp nhất và
chung thủy nhất… Những mảnh tim ấy đã ghép vàp nhau và tạo thành những vết chắp
vá của trái tim tôi. Chính điều này luôn nhắc tôi nhớ về những người tôi yêu
dấu, những tình yêu mà tôi đã được chia sẻ trong đời…
Ông
lão nói tiếp:
- Còn
những vết lõm này là phần trái tim tôi trao đi mà chưa được nhận lại. Cậu biết
đấy, tình yêu trao đi chẳng cần đến sự đền đáp. Dù những khoảng trống này nhiều
lúc làm tôi đau đớn, nhưng cũng chính nhờ chúng mà tôi có động lực để khao khát
được sống, và có niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp hơn. Chàng trai ạ, nhờ những
mảnh chắp vá này mà trái tim của tôi có sức sống mãnh liệt, trưởng thành và cảm
nhận cuộc sống trọn vẹn, sâu sắc hơn.
Đám
đông im lặng, còn chàng trai không giấu được nỗi xúc động đang dâng trào trong
lòng. Anh tự hào cầm bút cắt đi một mảnh trong trái tim hoàn hảo của mình và
đắp vào một phần khuyết của trái tim ông lão. Đáp lại, ông lão cũng tặng anh
một mảnh trái tim ông.
Giờ
đây, trái tim của chàng trai đã có một vết sẹo. Tuy không còn hoàn hảo nữa,
nhưng chàng trai cảm thấy trái tim mình đầy sức sống hơn bao giờ hết. Anh nhận
ra sức mạnh và vẻ đẹp của trái tim không phải ở chỗ nó được giữ kỹ để không có
một vết tích, tổn thương nào của cuộc đời mà trái lại, càng hòa nhập và biết
chia sẻ, dám yêu, dám sống và sẵn sàng cho đi, trái tim của con người càng trở
nên nhạy cảm, sâu sắc và đập mạnh mẽ hơn...
3. Những vết sẹo là dấu chứng của phục sinh
Thân xác Chúa Phục Sinh mang những vết sẹo
cuộc khổ nạn. Những cái sẹo ấy sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Những cái sẹo
gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có những
cái sẹo thì cũng chẳng có phục sinh.Chúa Giêsu vượt thắng sự chết, đập tan
quyền lực của tử thần, Ngài phục sinh và bước vào một cuộc sống mới viên mãn
hơn, vững bền hơn. Dẫu rằng vẫn còn đó những dấu vết của thương đau, những vết
sẹo của bạo lực bất công, nhưng giờ đây Ngài đã khởi sự một sự sống bất diệt,
vượt trên vòng lao lý của khổ đau, của giới hạn kiếp người, Ngài đã bước vào
thế giới của niềm vui, của Tình Yêu!
Con người chúng ta, ai cũng thường mang
những vết sẹo trên thân xác. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng trời kỷ niệm.
Sống chiều kích Phục Sinh trong ý nghĩa trao ban và tận hiến chính là sống ý
nghĩa “trái tim có nhiều vết sẹo”.
Nếu hiểu cuộc phục sinh của Chúa Giêsu là
sự vượt qua nghịch cảnh để bước vào đời sống mới, thì mỗi khi một cá nhân, một
gia đình hoặc một tập thể vượt qua được những nghịch cảnh của đời mình thì cũng
có thể gọi đó là sự phục sinh!
Tony
Melendez là một người Nicaragua, sinh năm 1962 và bị mất cả hai tay vì ảnh
hưởng tai hại của một loại thuốc cảm cúm mà bà mẹ đã uống khi không biết là bà
đang mang thai. Sau khi Tony được 1 tuổi, cả gia đình được ông ngoại bảo lãnh
sang Los Angeles Hoa Kỳ, ở đây Tony học sử dụng mọi thứ bằng đôi chân, kể cả
học đánh đàn ghita. Đến năm 16 tuổi, với cây đàn ghita, anh thường hát dạo ở
một góc phố Laguna Beach để kiếm tiền cho gia đình. Anh cũng rất chán nản với
tương lai đi ăn xin như vậy, và anh tự hỏi, "chẳng lẽ cuộc đời mình chỉ đi
ăn xin như thế thôi hay sao?".
Rồi
một ngày kia anh nhận được lá thư mời đến trình diễn cho Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II trong ngày Đại Hội Giới Trẻ vào tháng 9 năm 1987 ở Los Angeles. Trong
cuộc họp mặt đó có trên 6.000 người trẻ từ khắp nơi đến tham dự.
Anh
đã nhận lời trình diễn và cũng kể từ đó cuộc đời anh thay đổi. Sau khi trình
diễn một bài do anh sáng tác, cả hội trường đứng dậy hoan hô anh, ngay cả Đức
Giáo Hoàng cũng đứng dậy và đi đến tận bục trình diễn để hôn anh, và điều quan
trọng là câu nói của Đức Gioan Phaolô II. Ngài nói, "Tony, con là một
người thực sự can đảm. Con đang đem lại hy vọng cho mọi người ở đây. Cha ao ước
con sẽ tiếp tục đem hy vọng cho tất cả mọi người".
Từ
lúc đó trở đi, anh được mời đi lưu diễn ở nhiều nơi trong nước, và bất cứ ai
trông thấy một thanh niên cụt hai tay nhưng vui vẻ dùng đôi chân đánh đàn và
say sưa cất tiếng hát với những lời lẽ không than van, không cay đắng, không
oán hờn thì tất cả mọi người đều ngập tràn hy vọng. Chính Tony, anh chia sẻ như
thế này: "Có lúc tôi thực sự tin rằng tôi phải có đầy đủ chân tay, mắt mũi
để yêu thương, để phục vụ, để lo lắng cho người khác. Tôi nghĩ là tôi cần những
điều đó. Dĩ nhiên, có đôi tay thì giúp đỡ người khác dễ dàng hơn. Nhưng tình
yêu thì không cần đôi tay. Để yêu thương ai đó, tất cả những gì bạn cần là con
tim và để ý đến họ."
Với
thân thể tật nguyền, Tony Melendez đã đem lại hy vọng cho những người thấy anh
trình diễn. Đó là chứng từ của một hành trình phục sinh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét