VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH NĂM B
Tin Mừng thánh Gioan 10,11-18
I. TIN MỪNG
11 Tôi
chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn
chiên.12 Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về
anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho
chiên tán loạn,13 vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên.14 Tôi
chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi,15
như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho
đoàn chiên.
16 Tôi còn
có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ
nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.17 Sở dĩ Chúa Cha yêu
mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại.18 Mạng sống của tôi,
không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền
hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã
nhận được."
11 I am the good shepherd. A good shepherd lays down his life for
the sheep.
12 A hired man, who is not a shepherd and whose sheep are not his
own, sees a wolf coming and leaves the sheep and runs away, and the wolf
catches and scatters them.
13 This is because he works for pay and has no concern for the
sheep.
14 I am the good shepherd, and I know mine and mine know me,15
just as the Father knows me and I know the Father; and I will lay down my life
for the sheep.
16 I have other sheep that do not belong to this fold. These also
I must lead, and they will hear my voice, and there will be one flock, one
shepherd.
17 This is why the Father loves me, because I lay down my life in
order to take it up again.
18 No one takes it from me, but I lay it down on my own. I have
power to lay it down, and power to take it up again. This command I have received from my
Father."
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ
đề của hình này là gì?
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
* Bạn
hãy viết lại câu Tin Mừng thánh Gioan 10,11b
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
II. TRẮC NGHIỆM
01. Ai chính là mục tử nhân lành?
(Ga 10,11)
a. Thiên
Chúa.
b. Đức
Giêsu.
c. Ông
Môsê.
d. Vua Đavít.
02. Mục tử nhân lành làm gì cho
đoàn chiên? (Ga 10,12)
a. Bỏ
chạy khi thấy sói đến.
b. Giết
thịt những con chiên béo.
c. Hy
sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
d. Cả
a, b và c đúng.
03. Kẻ làm thuê sẽ làm gì khi thấy
sói đến? (Ga 10,12-13)
a. Bỏ
chiên mà chạy.
b. Bảo
vệ đoàn chiên.
c. Đánh
đuổi sói.
d. Cả
a, b và c đúng.
04. Quan hệ giữa người mục tử nhân
lành và đoàn chiên thế nào? (Ga 10,11-18)
a. Người
mục tử biết rõ đoàn chiên của mình
b. Người
mục tử hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên
c. Đoàn
chiên nghe biết tiếng của người mục tử
d. Cả
a, b và c đúng.
05. Vì sao Chúa Cha yêu mến Đức
Giêsu? (Ga 10,17)
a. Vì
Người hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại.
b. Vì
Đức Giêsu nhập thể làm người.
c. Vì
Người rao giảng nước Thiên Chúa.
d. Vì
Người làm nhiều phép lạ tôn vinh Thiên Chúa.
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Người mục tử nhân lành hy sinh
điều gì cho đoàn chiên? (Ga 10,11)
02. Đức Giêsu xưng mình là ai nhân
lành? (Ga 10,11)
03. Ai đã yêu mến Đức Giêsu vì
người hy sinh mạng sống mình? (Ga 10,17)
04. Ai là kẻ không thiết gì đến
đoàn chiên, khi sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn? (Ga 10,13)
05. Người làm thuê không phải là
gì nên khi thấy sói đến anh đã bỏ chiên mà chạy? (Ga 10,12)
Hàng
dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
"Mục
Tử nhân lành
hy sinh
mạng sống mình cho đoàn chiên."
Tin Mừng thánh Gioan 10,11
Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH NĂM B
Tin Mừng thánh Gioan 10,11-18
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ
đề :
Mục tử
nhân lành
* Bạn
hãy viết lại câu Tin Mừng thánh Gioan 10,11b
Mục Tử nhân lành hy sinh
mạng sống mình cho đoàn chiên.
II. Lời giải đáp TRẮC NGHIỆM
01. b.
Đức Giêsu (Ga 10,11)
02. c.
Hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10,12)
03. a.
Bỏ chiên mà chạy (Ga 10,12-13)
04. d.
Cả a, b và c đúng (Ga 10, 11-18)
05. a.
Vì Người hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại (Ga 10,17)
III. Lời giải đáp Ô CHỮ
01.
Mạng sống (Ga 10,11)
02. Mục
tử (Ga 10,11)
03.
Chúa Cha (Ga 10,17)
04. Kẻ
làm thuê (Ga 10,13)
05. Mục
tử (Ga 10,12)
Hàng dọc : Mục Tử
GB.
NGUYỄN THÁI HÙNG
Mục Tử Nhân Lành
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Dân Do Thái là dân du
mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Đức Giêsu đưa
ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc. Đức
Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và
của Người với ta. Người là Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người
lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt,
nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía
cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.
Tình yêu của Đức
Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất
từ trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ
hiểu được hết những âm thanh của tâm hồn và tai người thường không nghe thấy,
nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm
nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học
nào có thể cảm được. Khi Đức Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người
hiểu biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoàn cảnh sinh
sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh
nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải
chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang
dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.
Tình yêu của Đức
Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc
cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu
cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu yêu thương ta nên
Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta. Có
những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc
khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc
đoán ràng buộc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta
sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là
để giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút
nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Nguơì cung cấp cho ta những
lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối
trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là
Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.
Tình yêu của Đức
Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều
càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu
cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói:
“Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống
mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử
nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên.
Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.
Hạnh phúc cho ta được
là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta.
Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương
đến nỗi chết vì ta.
Người muốn ta chia sẻ
hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân
lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thày cô giáo là mục tử của
học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân.
Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.
Nhưng đặc biệt hơn
hết, Người muốn có những
người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế, Giáo Hội dành
ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình hình chung
trên toàn thế giới, và riêng trong Giáo phận, ta thấy còn thiếu rất nhiều linh
mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần linh mục như
học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm
thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như một người bạn đồng hành giúp đỡ
trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho có
nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu
dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho
các linh mục được trở nên những mục tử như Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết
yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan
tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đoàn
chiên.
Lạy Đức Giêsu, Mục Tử
nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin
biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong
xã hội. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Đức Giêsu hướng
dẫn đoàn chiên bằng cách nào? Bằng quyền lực hay bằng tình yêu thương?
2- Hãy kể ra những
đặc tính của tình yêu của Đức Kitô.
3- Bạn có cảm thấy
trách nhiệm là mục tử của mình không? Bạn đã đối xử với đoàn chiên của mình thế
nào?
4- Bạn nghĩ gì về đời
sống tu trì? Bạn có cầu nguyện cho cha Xứ của bạn không?
Những con
đường hy vọng
Rolland
Dionne
Xưa kia, người ta đã cầu nguyện cho các ơn
gọi, và lúc ấy môi trường Kitô thuận lợi cho các ơn gọi. Cha mẹ hãnh diện dâng
con cái cho Chúa. Sự trung thành không bị nghi ngờ, người ta dễ dấn thân trọn
đời. Không thiếu cách tuyên truyền để khơi dậy các ơn gọi. Ngày nay, người ta
ít cầu cho ơn gọi hơn. Ơn gọi rất hiếm hoi. Các gia đình có ít con cái hơn.
Những năm về sau này, nhiều trường hợp bỏ đời tu đã gây nên nghi ngờ đối với
khả năng có thể triển nở trong việc phục vụ Chúa. Có bao nhiêu lý do giải thích
sự thiếu hăng hái trong việc chiêu sinh.
Đâu là điều gì chúng ta phải quan tâm suy nghĩ trong ngày Chúa
nhật cầu cho ơn gọi này? Đâu là những đường hướng cho tương lai? Người ta còn
tin vào ơn gọi nữa không?
Đón tiếp giới trẻ.
Chúng ta đều biết đến những vấn đề của các thế hệ. Ta biết tất cả
những nỗi khó khăn mà giới trẻ gặp trong việc tìm chỗ đứng của mình. Tuy nhiên,
ta cũng biết rằng tương lai của Giáo Hội là giới trẻ. Đó là một giới trẻ còn có
khả năng sống quảng đại và dấn thân, nhưng đòi hỏi ta phải tin tưởng nơi họ.
Trong các chuyến viếng thăm của Ngài, Đức Giáo Hoàng đã cho chúng ta một gương
mẫu về sự tin tưởng nơi giới trẻ. Người lắng nghe họ. Ngài nói với họ: “Các bạn
là Giáo Hội… Các bạn có chỗ đứng của các bạn trong Giáo Hội… Đừng chờ người ta
cho bạn chỗ đứng ấy. Hãy nắm lấy nó…” Không đón tiếp giới trẻ như thế, làm sao
có ơn gọi được?
Chứng tá của những người lớn.
Từ vài năm nay, chứng tá đó mất đi giá trị bởi nhiều vụ cởi áo ra
đi trong Giáo Hội của chúng ta. Giới trẻ đã trở thành người đa nghi. Ai lại
liều mình dấn thân vào một cuộc sống không có hạnh phúc hoặc khó thể hiện chính
mình.
Cách đây hai năm, một giám mục thành thật thú nhận với một vị
khách rằng điều đã ảnh hưởng nhất đến các chủng sinh trẻ trong sự lựa chọn của
họ, chính là niềm hạnh phúc giãi tỏa ra nơi cuộc sống của các linh mục cao
niên. Một cuộc sống như thế vẫn là cách quảng cáo tốt nhất cho ơn gọi làm linh
mục. Kẻ vui thích trong một bậc sống sẽ làm cho kẻ khác ưa thích bậc sống ấy.
Đồng hành với giới trẻ.
Ngày xưa người ta săn sóc giới trẻ như một cây non. Người ta chăm
nom cho sự phát triển của họ. Người ta ân cần lo toan cho họ. Họ lớn lên về sức
lực và vẻ đẹp. Ngày nay, có bao nhiêu người trẻ sống trong cô đơn và trong
những gia đình thiếu vắng tình thương, họ gần như cây thiếu nước và không khí,
họ èo uột. Việc đồng hành với giới trẻ trở nên cần thiết. Họ cần gặp Chúa nơi
một người đồng hành.
Tin vào những tiếng gọi của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu tiếp tục gọi. Những lời mời gọi của Ngài cũng vẫn quyến
rũ và đầy hứa hẹn cho tương lai. Chúng ta có quan tâm đủ để trình bày cho giới
trẻ tương lai được chứa đựng trong những câu đáp đẹp đẽ của những kẻ Ngài đã
gọi không? Câu đáp trả của Phêrô và Andrê em ông: “Và tức khắc, bỏ lưới, họ đi
theo Ngài” (Mt 4,20). Câu đáp của Lêvi, người thu thuế: “Từ bỏ mọi sự, ông đứng
dậy và theo Ngài” (Lc 5,28).
Chúng ta có trách nhiệm giới thiệu cho giới trẻ kinh nghiệm về
Thiên Chúa. Lời mời gọi này đã thu hút bao nhiêu người nam, người nữ vẫn còn có
thể lôi cuốn giới trẻ.
Tin tưởng vào việc cầu nguyện.
Việc cầu nguyện xem ra như là ít được thực hiện hơn xưa kia: “Hãy
xin thì sẽ được”. Có lẽ tất cả những cuộc khủng hoảng mà chúng ta đã trải qua
và những nẻo đường mới mẻ mà người ta phải tìm kiếm đều làm cho chúng ta quên
cầu nguyện cho ơn gọi. Chúa nhật cầu nguyện cho ơn gọi nhắc nhở chúng t
“Ta Là Mục
Tử Tốt Lành”
Noel
Quesson
“…Người mục tử tốt lành hy sinh mạng sống cho
đàn chiên”.
Trên một tờ báo y học ở Achentina, bác sĩ
Gioan Coóctê (Jean Cortez) đã kể một trường hợp đặc biệt chính ông chứng kiến.
Ông chữa bệnh cho một bé gái tên là Angien. Bé Angien bị ung thư bao tử, một
bệnh ít khi xảy tới cho người trẻ tuổi. Sau mấy lần giải phẫu và điều trị đủ
cách, ông đành báo tin buồn cho bà mẹ rằng ông chịu bó tay, bé Angien đã chết.
Mẹ em bé, bà Maria gần như hoá điên trước tin
này. Bà không cho ai đụng tới thi thể con gái và quì cầu nguyện lâu giờ bên
giường em. Bác sĩ Cortez nghe bà cầu xin Chúa để bà chết thay cho con. Ông rất
cảm động, làm hiệu cho mọi người ra ngoài để bà mẹ một mình với con. Lúc trở
lại, ông bỡ ngỡ thấy em Angien đứng bên giường, dáng vẻ rạng rỡ khoẻ mạnh. Còn
bà mẹ gục đầu trên giường và thều thào với bác sĩ Cortez: Thưa bác sĩ, Chúa đã
nhận lời tôi. Bác sĩ Cortez cho làm mọi loại thử nghiệm và thấy em Angien đã
hoàn toàn khoẻ mạnh không còn dấu vết đau ốm nào. Còn bà Maria thì đang hấp hối
vì bệnh ung thư bao tử, căn bệnh mà con gái bà đã mắc từ hai năm nay. Các thân
nhân xúm quanh bà mẹ, an ủi bà và hứa chăm sóc bé Angien chu đáo. Vài giờ sau,
bà tắt thở. Bác sĩ Gioan Coóctê kết luận: “Tôi không thể giải thích chuyện này
vì rõ ràng em bé đã chết. Một nguồn lực siêu nhiên đã chứng giám và can thiệp
vào tình mẫu tử mạnh mẽ của bà mẹ”.
Tình mẫu tử khiến bà Maria sẵn sàng chết thay
con. Người ta lý giải cường độ mạnh mẽ của tình mẫu tử là vì chính bà mẹ đã
chia sẻ cuộc sống cho con. Hai mẹ con dường như chỉ có một sự sống duy nhất. Và
Chúa Giêsu đã muốn dùng hình thức sự sống này để diễn ta mối liên kết giữa Chúa
với mọi người chúng ta. Người diễn tả ý này bằng nhiều cách: “Ta là bánh sự
sống; Ta là ánh sáng thế gian; Ta là cửa; Ta là Mục tử nhân lành; Ta là cây
nho; Ta là sự sống lại và là sự sống”. Còn chúng ta là con người được nuôi
dưỡng bắng bánh sự sống, chúng ta là chiên, là cành nho, được thông ban sự sống
của Chúa. Vì thế, Người sẵn sàng chết để cứu độ chúng ta.
Lời lẽ của Chúa hoàn toàn khác biệt với bất
cứ một người sáng lập học thuyết, tôn giáo nào. Kiểu nói làm ta nghĩ tới Thiên
Chúa, Đấng mạc khải tên mình cho Môi-sê; Đấng đã phán từ bụi gai bừng cháy; Ta
là Đấng tự hữu.
Danh hiệu Người Mục tử đã thành cổ điển trong
mọi nền văn hoá Đông phương. Chúa là Mục tử chân chính, khác hẳn những người
chăn thuê, làm mướn. Vì chỉ có Mục tử chân chính mới sẵn sàng hiến mạng vì
chiên. Chúa đã thực hiện điều này để chúng ta thấy rõ Tình Yêu của Người, thấy
rằng Chúa là Mục tử duy nhất chân thực, vị Mục tử nhân lành đã hy sinh mọi thứ vì
đàn chiên, kể cả tài sản quý hoá nhất, đó là mạng sống mình, nhất nữa đó lại là
mạng sống của Chúa, mạng sống mà Chúa tự nguyện hy sinh. Cái chết của Chúa
không phải bất ngờ, không phải chịu thua bạo lực, nhưng là một hiến ban hoàn
toàn ý thức và tự do. Chúa chết như một hành động yêu thương… Một Tình Yêu tột
đỉnh (Ga 13,1; 15,13)
Chúa là Mục tử thực, Chúa biết rõ các chiên
và các chiên biết Chúa. Hiểu biết này không phải chỉ là nhận thức, nhưng là
thấu hiểu, là chia sẻ cuộc sống. Một hiểu biết ở mức độ chặt chẽ nhất, cao
thượng nhất: Như Cha biết Ta và Ta biết Cha. Tình thân giữa Chúa với những
người được Chúa cứu chuộc bằng cái chết của Người cũng chính là tình thân mật
giữa các ngôi vị Thiên Chúa, và chúng ta được thông hiệp trong sự sống, trong
tình yêu của Thiên Chúa cao cả.
Kinh Thánh dùng từ ngữ đoàn chiên để nói về
dân Israel: Chúa Giêsu đã mở rộng từ này tới một giới hạn vô tận: Ta còn nhiều
chiên khác ngoài đàn, Ta phải đem tất cả về, và sẽ chỉ còn một đoàn chiên, một
Mục tử. Chúng ta có sứ mệnh cùng Chúa thực hiện mục tiêu của tình yêu lớn lao
cao cả đó.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con là những người
cộng tác với Chúa, được chu toàn nghĩa vụ loan báo Tin Mừng cứu độ cho cả những
chiên ngoài đàn như lòng Chúa ước mong.
Vị Mục tử
nhân lành
JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Mục tử là gì? Xét về phẩm chất, có mấy
loại mục tử? Mỗi loại có những tính chất gì? Làm sao phân biệt được loại nào
với loại nào?
2. Đức Giêsu là mục tử nhân lành: đặc điểm
cao quí nhất của Ngài là gì? Ngài có thể hy sinh cho đàn chiên tới mức độ nào?
3. Những bậc cha mẹ trong gia đình, những tổ
trưởng trong khu phố hay trong các xí nghiệp, những thầy giáo trong các trường
học, những giám đốc công ty... có thể hiểu là những mục tử không? Bài Tin Mừng
này có áp dụng cho họ được không?
Chia sẻ
1. Mục tử - tốt và xấu - trong xã hội và Giáo
Hội
Xã hội nào cũng đều có tổ chức, cơ cấu, trong
đó luôn luôn có những người lãnh đạo, điều khiển. Trong các tôn giáo cũng thế.
Trong lịch sử Do-thái, những người lãnh đạo dân chúng được gọi là mục tử (x. Gr
10,21; Ed 37,23-24): chẳng hạn như vua Sa-un, vua Đavít. Kitô giáo, vốn tiếp
nối truyền thống Do-thái, cũng gọi những người lãnh đạo trong Giáo Hội (như
linh mục, mục sư, giám mục, hồng y, giáo hoàng) là mục tử. Những mục tử hay
những người lãnh đạo ấy thường được xã hội hay tôn giáo tạo cho những điều kiện
thuận lợi và trao cho những phương tiện hữu hiệu để có thể thi hành hữu hiệu
công việc lãnh đạo đó: chẳng hạn địa vị, chức vụ, quyền bính, tiền bạc, tiếng
nói... Những điều kiện và phương tiện này là một thứ dao hai lưỡi. Nó có thể
giúp các mục tử hay các nhà lãnh đạo phục vụ dân chúng hay các tín hữu hữu hiệu
hơn. Nhưng nó có thể làm tha hóa, biến chất các mục tử khi sử dụng nó. Và nó
cũng có thể bị những kẻ lắm tham vọng tìm cách đạt tới để lợi dụng nó, để phục
vụ cho những tham vọng hay lợi ích cá nhân của mình, của gia đình hay phe nhóm
mình.
Như vậy, chiếu theo thái độ đối với những
điều kiện và phương tiện mà xã hội hay tôn giáo dành cho những người lãnh đạo
hay mục tử, ta có thể có 2 loại mục tử tương ứng:
- Mục tử tốt: là những người lãnh đạo thật sự
có ý hướng phục vụ dân chúng hay các tín hữu, chứ không nhằm lợi ích cho riêng
mình. Họ sử dụng những điều kiện hay phương tiện xã hội hay Giáo Hội trao cho
hoàn toàn để phục vụ tha nhân và công ích.
- Mục tử xấu: là những người lãnh đạo không
nhắm phục vụ dân chúng, mà nhắm đạt được những điều kiện và phương tiện thuận
lợi kia để hưởng thụ hoặc chỉ để thăng tiến bản thân, thỏa mãn những tham vọng
riêng tư.
Loại sau này còn bao gồm những mục tử bị tha hóa,
là những người lãnh đạo khởi đầu có ý hướng tốt, nhưng khi tiếp xúc hay sử dụng
những điều kiện hay phương tiện xã hội trao cho, thì bị chúng hấp dẫn, mê hoặc
và làm cho biến chất, để cuối cùng trở thành những mục tử xấu.
2. Mục tử tốt và xấu trong bài Tin Mừng và
trong Thánh Kinh
Trong bài Tin Mừng hôm nay (Ga 10,11-18), Đức
Giêsu mô tả và đối chiếu hai loại mục tử ấy: một loại được gọi là mục tử nhân
lành, còn loại kia là kẻ chăn chiên thuê.
* Mục tử nhân lành thì: «hy sinh mạng sống
mình cho đàn chiên», «tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi...
chúng sẽ nghe tiếng tôi». Ngài tự nhận mình chính là mục tử loại này. Trong
Thánh Kinh có rất nhiều câu mô tả những đức tính tốt của những mục tử nhân
lành, mà chính Thiên Chúa là mô hình gương mẫu nhất:
- yêu thương, trìu mến chiên với tất cả tâm
hồn: «Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào
lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt» (Is 40,11).
- yêu quí từng con chiên, một con cũng như cả
trăm con: «Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín
mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được,
người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc»
(Mt 18,12-13).
- lo cho chiên, tạo những điều kiện tốt đẹp
cho chiên: «Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ
ở trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong
những đồng cỏ mầu mỡ» (Ed 34,14).
- làm chiên sống no ấm, hạnh phúc: «Chúa chăn
dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì» (Tv 23,1); làm chiên luôn vững dạ vì được bảo
vệ: «Dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài
bảo vệ, con vững dạ an tâm» (23,4).
- tinh thần trách nhiệm rất cao: «Con nào bị
mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng
bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh,
Ta sẽ canh chừng» (Ed 34,16).
- cứu thoát, giải phóng đàn chiên: «Thiên
Chúa sẽ cứu thoát dân Người, như mục tử cứu thoát đàn chiên» (Dc 9,16).
Tóm lại, người mục tử tốt thật sự yêu thương
đàn chiên, sẵn sàng hy sinh cho sự an nguy và hạnh phúc của đàn chiên. Thậm chí
như Đức Giêsu, người mục tử tuyệt vời nhất, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình:
coi sự sống còn của đàn chiên quý hơn cả sự sống mình.
* Kẻ chăn chiên thuê hay mục tử xấu thì:
«không thiết gì đến chiên», «khi thấy sói đến liền bỏ chiên mà chạy: sói vồ lấy
chiên và làm cho chiên tán loạn». Thánh Kinh cũng có nhiều câu mô tả hạng mục
tử này với những đặc tính:
- vô trách nhiệm: «Con chiên nào mất, nó
chẳng quan tâm; con thất lạc, nó chẳng đi tìm; con bị thương, nó không chạy
chữa; con mạnh khoẻ, nó chẳng dưỡng nuôi» (Dc 11,16a); «Chiên đau yếu, các
ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên
bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên
bị mất, các ngươi không chịu đi tìm» (Ed 34,4)
- chỉ nghĩ tới hưởng thụ, sẵn sàng bóc lột:
«Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, mà
đàn chiên lại không lo chăn dắt» (Ed 34,3). Thậm chí bóc lột đến tận xương tủy:
«Con nào béo thì chúng ăn thịt, rồi lóc luôn cả móng» (Dc 11,16b)
- ích kỷ, vụ lợi, đầy tham vọng: «Chúng là lũ
chó đói, ăn chẳng biết no. Thế mà chúng lại là mục tử! Cả bọn - chẳng trừ ai -
chỉ mưu tìm lợi lộc cho riêng mình» (Is 56,11).
- tàn bạo, độc ác: «Các ngươi thống trị chúng
một cách tàn bạo và hà khắc» (Ed 34,3); «Các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm
gì đến chúng» (Gr 23,2b).
- tác hại vô cùng đến đàn chiên: «Các ngươi
đã làm cho đàn chiên của Ta phải tan tác» (Gr 23,2).
Tóm lại, mục tử xấu coi đàn chiên chỉ là
phương tiện, bắt chúng phải hy sinh phục vụ cho lợi ích riêng tư của mình,
không một chút tình thương đối với chúng. Nhưng kết cục của hạng mục tử này rất
bi thảm: «Khốn cho mục tử vô tích sự đã bỏ mặc đàn chiên. Gươm sẽ chặt đứt tay
nó, sẽ chọc mắt phải của nó. Cánh tay của nó sẽ khô đét, và mắt phải của nó sẽ
mù loà» (Dc 11,17); «Khốn thay những mục tử làm cho đàn chiên Ta chăn dắt phải
thất lạc và tan tác (…) các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng.
Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi.
Đó là sấm ngôn của Đức Chúa» (Gr 23,1-2).
3. Hãy trở nên những mục tử nhân lành
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu tự xưng mình là
«mục tử nhân lành», luôn yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hy sinh mạng sống
mình vì đàn chiên. Khi tự xưng như thế không phải để chúng ta nể phục cho bằng
để chúng ta bắt chước, noi gương Ngài trong công việc «mục tử» của chúng ta.
Chúng ta thường giới hạn ý nghĩa của từ «mục tử» này, đến nỗi chỉ áp dụng nó
cho những người lãnh đạo tôn giáo. Thật ra, tất cả những ai đảm trách việc lãnh
đạo, từ một gia đình đến một phường, một tỉnh, hay một quốc gia, từ một hội
đoàn, một xứ đạo, đến một giáo phận, một giáo hội địa phương hay Giáo Hội toàn
cầu, một cách nào đó, đều có thể gọi là mục tử. Ước chi mọi mục tử đều biết
thật sự yêu thương đàn chiên của mình và lãnh đạo chúng một cách sáng suốt! Ước
chi mọi cha mẹ đều yêu thương con cái, mọi cha xứ đều sẵn sàng hy sinh phục vụ
giáo dân, mọi giám mục đều hết lòng chăm sóc các linh mục và giáo dân dưới
quyền mình! Ước chi mọi vị lãnh đạo xã hội và đất nước biết quên những quyền
lợi riêng tư để nghĩ đến lợi ích chung của dân chúng!
Mọi quốc gia, mọi giáo hội, đều rất cần những
vị minh quân, những mục tử nhân lành. Cần hơn cả việc có thật đông những cá
nhân tài giỏi, xuất sắc. Câu chuyện sau đây minh họa điều đó.
Có hai người thuộc hai quốc gia nói chuyện
với nhau: - «Tôi rất khâm phục đất nước anh, vì nước anh có rất nhiều anh
hùng». - «Thế đất nước anh có nhiều anh hùng không?» - «Rất tiếc, đất nước tôi
ít anh hùng lắm!» - «Lạ nhỉ, đất nước tôi nhiều anh hùng thế mà sao vẫn cứ
nghèo nàn và lạc hậu, còn đất nước anh không có anh hùng mà sao lại phát triển
và giàu có như vậy?» - «À, đất nước tôi thì bù lại, được khá nhiều vị minh
quân!» Thì ra chỉ một vị minh quân - hay mục tử nhân lành - cũng đủ quí giá và
ích lợi cho đất nước và Giáo Hội hơn nhiều anh hùng hay cá nhân xuất sắc hợp
lại! Cầu mong cho đất nước và Giáo Hội Việt Nam có được những minh quân!
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin Cha hãy ban cho Giáo Hội và đất
nước con nhiều vị mục tử nhân lành hơn! Xin cho các nhà lãnh đạo đất nước và
Giáo Hội con biết thật sự yêu thương người dân cũng như các tín đồ của mình hết
lòng và sẵn sàng hy sinh phục vụ họ. Có như thế, đất nước và Giáo Hội con mới
tiến bộ lên được. Amen.
Đức Giêsu,
Vị mục tử nhân lành
Lm. Đan
Vinh
Tìm hiểu lời Chúa
1) Ý chính: Đức Giêsu, vị mục tử nhân lành:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã tự
ví mình như một Mục Tử nhân lành. Sự nhân lành của người Mục Tử biểu lộ qua 3
hành động sau: một là biết rõ từng con chiên và cũng được chiên nhận biết và đi
theo. Hai là quan tâm đến cả đàn chiên, nhất là những con bị đau ốm, bị thương
tích hay lạc mất. Ba là can đảm thí mạng đương đầu với sói rừng để bảo vệ đoàn
chiên.
2) Chú thích:
- Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân
lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê vì không phải là Mục
Tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy.
Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn. Vì anh ta là kẻ làm thuê và không
thiết gì đến chiên (Ga 10,11-13):
+ Tôi chính là: Đây là kiểu nói mặc khải về
Danh xưng của Thiên Chúa: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3,14). Đức Giêsu đã nhiều
lần khẳng định: “Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,24.28); “Chính tôi là bánh trường sinh”
(Ga 6,35), “Tôi là bánh từ trời xuống” (Ga 6,41); “Tôi là ánh sáng thế gian”
(Ga 8,12; 9,5); “Tôi là cửa cho chiên vào” (Ga 10,7.9); “Tôi chính là Mục Tử
nhân lành” (Ga 10,11.14); “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25);
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6); “Thầy là cây nho
thật…Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15,1.5).
+ Mục Tử nhân lành: Mục tử là người chăn
chiên, một hình ảnh quen thuộc đối với dân Do Thái. Thiên Chúa chính là Mục Tử
cai trị, hướng dẫn dân Người (x. Tv 23,1). Ngôn sứ Edêkien đã tuyên sấm lời Đức
Chúa phán như sau; “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng
nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; Con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; Con nào
bị thương, Ta sẽ băng bó; Con nào bệnh tật, Ta sẽ cho mạnh; Con nào béo mập,
con nào khỏe mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt
chúng” (Ed 34,15-16). Thiên Chúa cũng dùng một số mục tử để thay Người mà coi
sóc dân như Môsê (x. Is 63,11), Đavít (x. Tv 78,70-71). Bên cạnh các mục tử tốt
cũng có những kẻ xấu xa bất xứng (x. Gr 10,21; 12,10). Thiên Chúa hứa ban một
Mục Tử thuộc dòng dõi Đavít, luôn làm đẹp lòng Người (x. Gr 23,4-6; Ed
34,23-24). Vị Mục Tử duy nhất ấy chính là Đức Giêsu như Người đã từng khẳng
định: “Tôi là Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11.14).
+ Hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên: Đây
là sự khác biệt quan trọng giữa mục tử chân chính với kẻ chăn thuê. Hy sinh
mạng sống là dấu hiệu của một tình yêu tột đỉnh (x. Ga 15,13).
+ Người làm thuê không phải là Mục Tử: Đức
Giêsu dùng kiểu nói tương phản để làm nổi bật tính cách nhân lành của Mục Tử
chân chính. Người chăn thuê thường tỏ ra hèn nhát và vô trách nhiệm đối với
đoàn chiên (x. Ga 10,12-13). Ở đây, người làm thuê ám chỉ là các đầu mục dân Do
Thái như các kinh sư, các người pha-ri-sêu gỉa hình (x. Mt 23,2), các Ngôn sứ
giả (x. Mt 24,11). Những đầu mục này chỉ lo tìm tư lợi, là kẻ dẫn đường sai lạc,
là người nói mà không làm, là người đạo đức giả (x. Mt 23,14.16.25.28).
- Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết
chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi. Như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa
Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Tôi còn có những chiên khác
không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ
chỉ có một đoàn chiên và một mục tử (Ga 10, 14-16):
+ Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi
biết tôi: Từ ngữ “Biết” trong Kinh Thánh không những nói về sự hiểu biết đối
với tha nhân về tri thức, mà còn có nghĩa là một sự quan hệ mật thiết: Biết cái
gì nghĩa là có kinh nghiệm cụ thể về cái đó. Biết một người nào là có liên hệ
mật thiết với người đó (x. St 4,1; Lc 1,34). Đức Giêsu biết các tín hữu là đoàn
chiên của Người, và họ cũng biết Người là Mục Tử của họ và sẵn sàng vâng nghe
lời Người. Tuy nhiên những điều mặc khải của Đức Giêsu thường khó hiểu và khó
chấp nhận, bao lâu Đức Giêsu chưa được tôn vinh, nghĩa là chưa được treo trên
thập giá(x. Ga 8,28). Sự tôn vinh này là điều kiện để các môn đệ đón nhận được
ơn Thánh Thần (x. Ga 7,39). Rồi nhờ Ơn Thánh Thần tác động, các ông sẽ hiểu
biết trọn vẹn các chân lý đã được Đức Giêsu mặc khải trước đó (x. Ga 16,3).
+ Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn
này: Sự quan tâm săn sóc của Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, không chỉ dành
riêng cho các tín hữu, mà còn phổ biến đến mọi dân tộc nhờ các môn đệ của
Người. Sứ mạng loan Tin Mừng và làm chứng cho Đức Kitô được trao cho các môn đệ
và cũng là trao cho Giáo Hội, trao cho mỗi tín hữu chúng ta trước khi Người về
trời (x. Mt 28,19; Cv 1,8).
+ Sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử: Với
cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, biên giới ngăn cách giữa Do Thái và dân
ngoại đã bị phá hủy (x. Gl3,28). Mọi người mọi dân tộc đều có thể gia nhập đoàn
chiên của Người, vì Người đã đổ máu ra để cứu chuộc toàn nhân loại (x. 1 Tm
2,4). Viễn tượng về một ngày đoàn tụ nhân loại trong một đại gia đình, một đoàn
chiên duy nhất dưới quyền một Mục Tử tối cao là Đức Giêsu (Vua Mêsia) có trở thành
hiện thực hay không, là tùy vào sự ý thức và quyết tâm của mỗi người tín hữu
chúng ta có sẵn sàng cộng tác với Ơn Thánh Thần để chu toàn sứ mạng “được sai
đi khắp thế gian, đến với muôn dân” hay không.
- Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy
sinh mạng sống mình để rồi lấy lại Mạng Sống của tôi, không ai lấy đi được,
nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền
lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được (Ga
10,17-18):
+ Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi: Khi hiển dung
trên quả núi cao, Đức Giêsu đã được Chúa Cha công nhận: “Đây là Con yêu dấu của
Ta, Ta hài lòng về người” (Mt 17,5). Lý do Người được Chúa Cha yêu mến:
+ Là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy
lại: Đức Giêsu đã hy sinh chịu chết trên thập giá vâng theo ý Chúa Cha như
Người đã cầu nguyện trước cuộc khổ nạn: “ Cha ơi, nếu được, xin cho chén này
rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Người
sẵn sàng chịu chết để rồi nhờ quyền năng Thánh Thần, Người sẽ lấy lại mạng sống
bằng sự phục sinh vinh quang.
+ Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được,
nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình: Việc Đức Giêsu chịu chết không
phải do ý muốn của các đầu mục Do Thái, tổng trấn Philatô, Giuđa, quân lính và
dân chúng…Nhưng là do Người tự ý chấp nhận vâng phục thánh ý Chúa Cha(x. Mt
26,39) khi đến “GIỜ” Con Người được tôn vinh (x.Ga 12,23).
+ Để rồi lấy lại: Đức Giêsu đã báo cho các
môn đệ biết trước: Người sẽ đi lên Giêrusalem, chịu đau khổ do các đầu mục Do
Thái gây ra, sẽ bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại (x. Mt 16,21; 17,22;
20,18-19), nhờ quyền năng Thiên Chúa Cha (x. Cv 2,32-33).
+ Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận
được: Đức Giêsu đã luôn vâng lời Chúa Cha (x. Mc 14,36), đến nỗi bằng lòng chịu
chết, chết trên cây thập tự (x. Pl 2,8).
Học sống lời Chúa
1) “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình
cho đoàn chiên” (Ga 10,11).
- Câu chuyện: Mẹ chết thay con:
Trên một tờ báo y học ở Achentina, bác sĩ Giăng Coóctê (Jean
Cortez) đã kể lại trường hợp đặc biệt mà chính ông đã chứng kiến. Ông đang điều
trị cho một bé gái tên là Angien. Em bị ung thư bao tử, một bệnh rất hiếm gặp
nơi trẻ em. Sau mấy lần giải phẫu và điều trị đủ cách, ông đành báo tin buồn
cho bà mẹ là ông đành chịu bất lực trước căn bệnh hiểm nghèo này, và cho biết
Angien đã chết! Bà Maria mẹ em bé gần như hóa điên khi nghe tin ấy. Bà nhất
quyết không cho ai đụng vào thi thể của con, và quì cầu nguyện nhiều giờ bên
giường con. Bác sĩ Coóc-tê rất xúc động khi nghe thấy lời bà cầu xin cho mình
được chết thay con. Ong cùng mọi người im lặng ra bên ngoài để bà một mình với
đứa con yêu đã chết.
Nửa tiếng đồng hồ sau, mọi người lại vào phòng. Mọi người hiện
diện đều rất ngạc nhiên khi thấy Angien đã khỏe lại. Gương mặt em rạng rỡ vui
vẻ. Em đang ngồi trên giường và ôm mẹ, còn mẹ em thì lại nằm gục trên giường và
đang ở trong tình trạng sắp chết. Bà thều thào nói với bác sĩ rằng: “Thưa bác
sĩ, tôi rất mừng được Chúa đã thương nhậm lời cầu của tôi là cho tôi được chịu
bệnh thay thế cho con tôi!”. Bấy giờ bác sĩ Coóctê lập tức cho tái xét nghiệm
và kết quả là bé Angien đã hoàn toàn bình phục, còn bà Maria mẹ em lại mắc
chứng bệnh ung thư bao tử của em mà trước đó bà không hề mắc phải. Thân nhân
xúm lại chung quanh bà Maria để động viên an ủi bà và có người hứa sẽ thay bà
mà nhận bé Angien làm con và chăm sóc nuôi dạy bé nên người tốt. Vài giờ sau bà
Maria tắt thở trong bình an, Bà được mọi người kính phục về tình mẫu tử cao quí
bà dành cho con. Bác sĩ Coóctê kết luận: “Tôi không thể giải thích lý do tại
sao chuyện này lại có thể xảy ra được! Vì rõ ràng trước đó cô bé Angien đã
chết. Có thể đã có một quyền năng siêu phàm nào đó tác động và hoán chuyển căn
bệnh quái ác từ nơi đứa con sang cho bà mẹ!”
- Suy nghĩ: Tình mẫu tử thiêng liêng đã khiến bà Maria hy sinh
chịu chết thay cho con. Tình mẫu tử ấy là phản ảnh tình yêu của Đức Giêsu, Mục
Tử nhân lành đối với các tín hữu là đoàn chiên của Người. Người đã nói: “Không
có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn
hữu của mình” (Ga 15,13). Trong bài Tin Mừng hôm nay Người nói: “Mục Tử nhân
lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”.
- Câu hỏi: 1) Mỗi người chúng ta đều có thể là mục tử đối với đoàn
chiên là những người được Chúa trao cho ta nhiệm vụ trông nom săn sóc. Vậy đoàn
chiên ấy gồm những ai?
* Đáp: Đoàn chiên ấy chính là các con cái và các em trong gia đình
mà ta có nhiệm vụ phải nuôi dưỡng, dạy dỗ và săn sóc; Đoàn chiên ấy cũng là các
công nhân trong nhà máy xí nghiệp mà ta đang giữ nhiệm vụ quản lý điều hành;
Đoàn chiên ấy cũng là các học trò trong một lớp học mà ta là giáo viên chủ
nhiệm; Đoàn chiên ấy còn là các hội viên trong hội đoàn Công Giáo Tiến Hành mà
ta có nhiệm vụ là huynh trưởng trong Ban Chấp Hành…
- Câu hỏi: 2) Phân biệt giữa Mục Tử nhân lành với các kẻ chăn thuê
giống và khác nhau thế nào?
* Đáp: Giống nhau vì cả hai đều có nhiệm vụ phải chăm sóc và nuôi
dưỡng đoàn chiên. Tuy nhiên Mục Tử nhân lành và kẻ chăn chiên lại có nhiều điểm
khác nhau như sau:
** Mục tử nhân lành: là chủ đoàn chiên và chiên thuộc về người ấy,
nên ông yêu thương chúng và sẵn sàng thí mạng chống lại với sói dữ để bảo vệ
đoàn chiên; Ong lại cũng biết rõ từng con chiên một như về tính khí và các khó
khăn con chiên phải chịu đựng, các nhu cầu của chiên cần được đáp ứng. Do đó
đoàn chiên luôn yêu mến và vâng nghe lời ông. Ngoài ra Mục Tử nhân lành còn
phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với đoàn chiên như: băng bó chữa lành các
con chiên bị đau ốm hay thương tích, đi tìm các con chiên thất lạc và tìm được
thì vác trên vai mà đưa về đoàn, để sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.
** Kẻ chăn thuê chỉ là người làm công và chiên không thuộc về hắn,
nên hắn không yêu thương chiên mà chỉ lo tìm tư lợi ích kỷ như chỉ lo vắt sữa
và xén lông chiên đem bán lấy tiền, không quan tâm chăm sóc cho đoàn chiên,
không chịu băng bó chữa bệnh cho chiên đau yếu, không đi tìm các con chiên lạc.
Nhất là khi thấy sói rừng kéo đến tấn công đoàn chiên, kẻ chăn thuê cảm thấy
nguy hiểm cho bản thân mình thì sẵn sàng bỏ rơi đoàn chiên mà chạy thoát thân
một mình, mặc cho sói rừng cắn xé các con chiên và làm cho đoàn chiên tan tác…
2) “Tôi chính là mục tử nhân lành. Tôi biết
chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10, 14)
- Câu chuyện: “Vì tôi là linh mục”:
+ Cách đây ít lâu, Nguyễn Đức Quang đã sáng
tác một bài hát mang tựa đề: “Vì tôi là Linh Mục” để tặng một người bạn thân là
linh mục “cấp tiến” đã phá giới hồi tục. Nội dung bài hát về một linh mục vì
không mặc áo dòng nên đã bị sa chước cám dỗ vào cuộc tình. Để rồi cả đời bị
lương tâm cáo trách và đánh mất lý tưởng của cuộc đời mình.
+ Linh mục là người phàm, không phải là thần
thánh: Linh mục cũng là một con người yếu đuối và bất toàn như bao người khác:
“Nhân vô thập toàn”, Tuy nhiên Linh Mục đã được thánh hiến cho Chúa, nghĩa là
thuộc trọn về Chúa, hiến thân phụng sự Chúa và trở thành khí cụ Chúa dùng mà
thánh hóa thế gian. Linh Mục là người được Chúa mời gọi và đã đáp lại tiếng
Chúa bằng sự hy sinh tình cảm gia đình, thôi bỏ nghề nghiệp mà đi theo làm môn
đệ Chúa. Được Người đào tạo và huấn luyện trong môi trường chủng viện. Sau đó,
được thụ phong Linh Mục và được sai đi để chu toàn ba sứ vụ đặc biệt là: Sứ vụ
tiên tri để đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, sứ vụ Tư Tế để cử hành
các phép Bí Tích nhất là Thánh Thể mà thánh hóa người ta, và sứ vụ Vương Đế để
chăn dắt đoàn chiên được Chúa trao phó.
+ Những khó khăn của Linh mục thời đại mới:
Trong bài “Linh mục, người là ai?”, văn hào Giuăng Aria (Juan Arias) viết: “Lạy
Chúa, Linh mục là ai? Đối với nhiều người: Ông ta là người cô độc ích kỷ. Đối
với nhiều người khác: Ông ta là thứ trai già vô tích sự, một nhân viên bàn giấy
của tôn giáo”. Người nghèo tỏ vẻ bực bội khi thấy Linh mục năng tiếp xúc với
các người giàu có. Họ rủa Linh mục là ‘Đồ tư bản chết liệt!”, Nếu Linh mục hiến
thân chuyên lo phục vụ cho người nghèo hèn ít học, bệnh tật, cô đơn…thì người
ta lại ganh ghét và gọi Linh mục là “Đồ Tả Khuynh bần tiện!”. Làm Linh mục thời
đại này thật không đơn giản chút nào!
+ “ Một người luôn luôn sai lầm” (He is
always wrong): Đây là tựa đề của một bài báo nhỏ nói lên sự cảm thông của các
tín hữu đối với Linh mục chủ chăn như sau:
* Giảng ngắn dưới 10 phút: “Ông Linh mục này
lười không chịu dọn kỹ bài giãng!”. Giảng quá 20 phút: “Ong ta là người ưa nói
dai và nói dài!”
* Nếu giảng hùng hồn: “Ông ta la lối om sòm
thật bất kính đối với Chúa đang ngự trong nhà chầu!”. Nếu giảng với giọng bình
thường: “Ông ta có tài dỗ ngủ cho người mang bệnh khó ngủ!”.
* Nếu năng đến thăm các gia đình trong xứ: “
Ông ta chẳng có việc gì để làm, suốt ngày la cà hết nhà này sang nhà nọ để kiếm
chác! chẳng mấy khi thấy ông ta có mặt ở nhà để tiếp xúc với các người cần gặp
hay để đi kẻ liệt!”. Nếu ít đi thăm: “Ông ta chẳng quan tâm để biết con chiên
của mình sống chết ra sao!”.
* Nếu Linh mục còn trẻ: “Ông ta mới ra trường
nên tay nghề còn non và chưa có kinh nghiệm mục vụ giáo xứ!”. Nếu đã cao niên:
“Một lão già lẩm cẩm hủ lậu! Ông ta nên sớm xin về hưu đi là vừa!”.
- Quyết tâm: “Ở sao cho vừa lòng người: Ở
rộng người cười ở hẹp người chê”: Câu ca dao thật đúng khi áp dụng cho Linh
mục. Vậy bạn quyết tâm sẽ làm gì để trở nên con chiên ngoan trong đoàn chiên
Chúa, do các Mục Tử là các Linh Mục chăm sóc?
(Đáp: Cầu nguyện, cảm thông, cộng tác, giúp
đỡ, trở nên cánh tay nối dài…)
Chú giải
của Alain Marchabour
CHÚA GIÊSU – VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH (cc.
11-21)
Dụ ngôn về vị mục tử và đoàn chiên gợi nhớ đến Lc 15,3-7 và Mt
18,12-14. Tuy nhiên nơi Gioan điều lý thú tập trung trước tiên vào Chúa Kitô:
Vị Mục Tử nhân lành đối nghịch với kẻ trộm cướp (c.1) và người lạ (c.5). Ở đây
được miêu tả các mối tương quan liên kết mục tử với đoàn chiên của mình. Khác
với những kẻ làm thuê, Chúa Giêsu là mục tử đích thực (nhân lành) vì hai lý do:
trước tiên Người liều mạng sống mình để bảo vệ đoàn chiên; và nhất là Người duy
trì với các chiên mối tương quan hiểu biết duy nhất bởi vì được ăn rễ sâu trong
sự hiểu biết Chúa Cha của Người (như Chúa Cha biết Tôi).
Dụ ngôn, lúc đầu bóng bẩy, ám chỉ rõ ràng cái chết của Chúa Giêsu:
“Tôi hy sinh mạng sống mình cho chiên của Tôi” (10,15); cũng một giới từ như
trong Mc 14,24 (máu đổ ra cho muôn người) và trong Lc 22,19 (mình Thầy hy sinh
cho anh em).
Khi đối chiếu Chúa Giêsu với kẻ làm thuê, có một điều chắc chắn
được xác định về Chúa Giêsu: người làm thuê bỏ chiên mà chạy (“Thầy sẽ không để
anh em mồ côi” 14,18); lúc bấy giờ sói có thể vồ lấy chiên (“không ai cướp được
các chiên của Tôi khỏi tay Tôi” 10,28) và làm cho chúng tán loạn (Chúa Giêsu
chịu chết “để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối”
11,52).
Kể từ câu 16, diễn từ vượt quá tình huống lịch sử của Chúa Giêsu để
thâu gom tất cả mọi tín hữu đến từ thế giới ngoại giáo và nhờ qua trung gian
các môn đệ, sẽ tin vào Người (17,20). Việc quy tụ các tín hữu, mong đợi vào
thời cuối cùng, sẽ được thực hiện chung quanh Chúa Giêsu và lời của Người. Sự
hiệp nhất hằng mong đợi này được trao ban trong cái chết của Chúa Giêsu
(11,52); nó ăn rễ sâu trong sự hiệp nhất hằng hữu giữa Chúa Cha và Chúa Con.
Đây là một cuộc chinh phục thiết yếu đầy khó khăn mà Chúa Giêsu phải cầu xin
trước khi Người trở về cùng Chúa Cha (17,21).
Kể từ câu 17, Chúa Giêsu bày tỏ tình thân mật của Người với Chúa
Cha, ở đó sự sống và sự chết của Người đều có ý nghĩa. Nhịp điệu của bài diễn
từ với nhiều lần lặp lại, đối chiếu và tương hợp, mở rộng ý nghĩa như bản trình
bày dưới đây cho thấy:
Chúa Cha
yêu mến Tôi
là vì Tôi hy sinh mạng sống mình
để rồi lấy lại
không ai lấy đi được mạng sống của Tôi
chính Tôi tự ý hy sinh mạng sống mình
Tôi có quyền hy sinh
và có quyền lấy lại mạng sống ấy
đó là mệnh lệnh mà Tôi nhận đã nhận được
từ Cha Tôi.
Được đặt ở đầu và ở cuối, Chúa Cha tỏ hiện như khởi nguyên và cùng
đích mọi hành động của Chúa Giêsu. Mọi sự đều xuất phát từ Người: mệnh lệnh
không gì khác hơn là cách diễn tả tình yêu. Theo động lực riêng biệt của Gioan,
sự chết được trình bày như một hành động hoàn toàn tự do trong đó hoàn thành
mệnh lệnh yêu thương của Chúa Cha. Ngay trong lúc chết, thời điểm theo thường
tình con người không còn làm chủ sự sống của mình nữa, Chúa Giêsu vẫn là Chúa
Tể bởi vì Người hoàn thành điều mà Thiên Chúa, trong tình yêu của Người, đã muốn
mang sự sống đến cho mọi người. Việc suy niệm thần học về cuộc Thương Khó của
Chúa Giêsu ở đây, khá cách biệt với cách trình bày bi thảm trong Tin Mừng
Maccô, giúp chúng ta hiểu được cuộc Thương Khó như sự tự nguyện hoàn thành
chương trình của Chúa Cha.
Lời nói của Chúa Giêsu gây nên chia rẽ. Sự chia rẽ này liên quan
đến những kẻ từng chứng kiến việc chữa lành người mù, cũng như những người nghe
dụ ngôn và các người sẽ đọc lời giảng dạy này. Nhiều người cho rằng Chúa Giêsu
“bị quỷ ám” và đạo lý của Người chỉ có thể là dấu chỉ của ma quỷ và của sự điên
khùng (cả hai thứ thường liên kết với nhau trong thế giới cổ xưa). Kẻ khác nhận
biết nơi lời Người và trong hành động của Người dấu chỉ của Thiên Chúa.
Chú giải
của Noel Quesson
Khi ấy Chúa Giêsu nói: "Tôi chính
là...".
Các bạn hãy đọc lại thật chậm hai chữ này: "Tôi là" các
bạn hãy đặt hai chữ này lên môi miệng Chúa Giêsu. Vấn đề lớn được đạt ra đối
với Chúa Giêsu đó là lai lịch của Người: Người là ai? Tất cả những ai đã đến
gần Người đều phải ngạc nhiên vì sự bí mật về bản thân của Người. Người đã có
những hành vi lạ lùng, Người đã nói "nói như chưa có ai đã nói như thế bao
giờ". Đôi khi Người như có vẻ chiếm chỗ của Thiên Chúa.
Vì thế, Người đã nhiều lần dùng những cách nói, những công thức mà
nghe lướt qua, chúng ta không hiểu hết ý nghĩa.
“Ta là Bánh ...". -"Ta là ánh sáng
trần gian...". -“Ta là cửa ...". -"Ta là Đấng chăn chiên lành ...".
-“Ta là cây nho...". "Ta là sự Phục sinh và là sự sống...".
Tất cả những kiểu nói ấy bắt đầu bằng 2 chữ
Hy Lạp “Ego eimi", có nghĩa "Tôi là".
Chúng ta đừng quên rằng Chúa Giêsu đã phát âm
những từ này theo tiếng "Aramên", ngôn ngữ giống như tiếng Hêbơrơ và
danh từ riêng "Thiên Chúa” là nhóm chữ không quên được “YHWH", từ bốn
chữ này không ai đã dám đọc lên và có nghĩa là "Ta là" (Xuất hành
3-14). Trước bụi gai bốc lửa trong sa mạc, Môsê đã hỏi Thiên Chúa: "Tên
của Người là gì? Và câu trả lời bí nhiệm từ lửa đã thốt ra: "Ta là Đấng
Hằng Hữu”, bằng tiếng Hêbơrơ, có 4 phụ âm mà người Do Thái không bao giờ đọc
lên, và trong những bản Thánh Kinh của chúng ta ngày nay, vì tôn trọng tính
trung thực của các từ ngữ đó (Thiên Chúa khó diễn tả), đôi lúc người ta đã giữ
nguyên hình thức ban đầu: Để mắt nhìn, thì hiểu là "Yahweh” nhưng thực sự
đọc lên thì phải thốt ra là "Đức Chúa".
Không tự xưng danh rõ ràng, nhưng qua những
lời này Chúa Giêsu đã dám tuyên bố rằng Người là "Đấng Cứu Độ duy nhất cho
con người”, loại trừ tất cả những vị Chúa giả hiệu, những Đấng Cứu Độ không
chính danh, những lãnh tụ sai lạc của nhân loại, người là "Đấng chăn chiên"
duy nhất.
Tôi chính là người mục tử nhân lành, người
chăn chiên thực sự.
Biểu tượng "người mục tử dẫn đàn
chiên" đã có từ lâu trong khắp miền phương Đông ngày xưa, để mô tả những
"Thần Thánh" và "Vua Chúa".
Trong Thánh kinh cũng vậy, biểu tượng này
cũng được áp dụng cho Chúa: "Chúa là mục tử của tôi, tôi không còn thiếu
thốn chi" (Tv 22,1). "Giờ đây, chính Ta sẽ chăm sóc cho con chiên của
Ta" Chúa đã nói (Ed 34). "Giờ đây Chúa của các ngươi đến. Như một
người mục tử, Người cho đàn chiên ăn cỏ - Với cánh tay quyền lực của Người,
Người tập họp chiên lại, Người ôm vào ngực những chiên con, Người mang đến sự
tươi mát cho những chiên cái còn cho con bú” (Is 40,11).
Chúng ta đừng bao giờ quên những trích dẫn
này trong Kinh thánh mà bất cứ người Do Thái nào, nhất là Chúa Giêsu, cũng phải
nhớ luôn luôn. Đối với những hình ảnh của Chúa Giêsu, lời tuyên bố này đã có
một ý nghĩa “thần học" rõ ràng: Người nói Người là "Đấng Mêsia",
"sứ giả của Thiên Chúa" để dẫn đắt loài người đến với cuộc sống thật.
Câu trước liền câu này, (rất tiếc là sách "bài đọc” đã không bắt đầu trước
một câu) đã được chính môi miệng Chúa Giêsu nói ra như tóm tắt hoàn hảo nhất
của bộ Tin Mừng, và sứ mệnh mà Người đảm nhận: "Ta đã đến cho loài người,
có được cuộc sống, và cho loài người có cuộc sống dồi dào" (Ga 10,10).
Chúng ta cũng biết loài người cần đến những
người chỉ đạo như thế nào, những Đấng do Chúa sai đến, có khả năng phân tách
tình hình, dự đoán tương lai, trừ khử những hiểm nguy đang hăm dọa và mang đến
sự an toàn. Cá nhân tôi rất chán ghét những điều ngu xuẩn mà các đài phát thanh
và truyền hình thường phổ biến ào ạt. Khi một số nhân vật, chỉ là những
"con người" như chúng ta đã tỏ ra dường như nắm được chân lý, biết
những gì sẽ xảy ra, những gì phải làm: Chỉ cần loại bỏ điều này, điều kia và
mọi việc sẽ ổn, chỉ cần làm thế này hoặc sai lạc ở chỗ này, chỗ kia.
Lời khẳng định sau đây của thánh Phêrô trong
bài đọc 1 hôm nay vang lên như một lời cảnh tỉnh trong bối cảnh hư hỏng và phá
sản những giá trị thiêng liêng: "Chúa Giêsu chính là viên đá mà các người
tự xưng là những người xây dựng thế giới đã chê bỏ, nhưng Người đã trở nên viên
đá góc. Ngoài Người ra, không có sự cứu rỗi nào cả".
Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và
không có chiên thuộc về riêng mình, nên thấy sói đến là bỏ chiên mà chạy.
“Người chăn chiên lành" ở đây được Chúa
Giêsu giới thiệu để đối lại với các "vị câu thế" giả hiệu, những
người này hứa hẹn toàn "những điều kỳ diệu”. Giờ nguy hiểm là giờ sự thật:
Người chăn chiên giả hiệu, "người làm thuê" chỉ làm công việc để kiếm
tiền, và tìm lợi riêng. Anh ta không cần gì đến đàn chiên, và đôi khi anh ta
sẵn sàng phụ lực với chó sói để tru lên. Trong mọi trường hợp, anh ta sẽ không
liều mạng sống của mình, nhưng trước hết anh ta sẽ tự cứu chính mình. Vì anh ta
là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên. Còn người mục tử nhân lành hy sinh
mạng sống cho đàn chiên.
Trong trang này, bốn lần Chúa Giêsu nói:
"Người hy sinh mạng sống của chính Người". Chúng ta không nên dừng
lại ở những hình ảnh thôn dã điền viên, những "chuồng chiên" lãng mạn
này. Bầu khí bây giờ thật bi thảm: "Chúa Giêsu đang nghĩ đến người mục tử
chịu chết để cứu đàn chiên của mình. Hình ảnh lạ lùng, khác thường quá. Chúng
ta thường nghĩ rằng: Khi một người chăn chiên chết, anh ta không thể bảo vệ đàn
chiên được nữa. Nhưng Chúa Giêsu nói: Nhờ cái chết của Người, Người sẽ cứu
chúng ta. Chúa Giêsu mạc khải điều này trong hoàn cảnh: Sự thù địch của những
lãnh tụ tôn giáo càng lúc càng tăng, sau khi Chúa chữa lành một người mù bẩm
sinh (Ga 9).
Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng
chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình.
Đối với Chúa Giêsu, cái chết không phải là
một sự bất ngờ, cũng không phải là một ép buộc phải chịu, hay phải chấp nhận.
Người đã làm cho cái chết trở thành một sự hiến dâng hoàn toàn ý thức và tự do.
Cái chết của Người là một "tác động" yêu thương, yêu thương đến cùng.
"Không có tình yêu nào cao cả hơn là cho những người tự hiến chính mạng
sống của mình" (Ga 13,1; 15,13).
Bản văn bằng tiếng Hy Lạp của Thánh Gioan ở
đây mạnh nghĩa hơn là những bản dịch có thể diễn tả. Nguyên văn có những từ sau
đây: "Ta tháo gỡ linh hồn Ta ra". "Ta hiến dâng mạng sống của
Ta". Cách nói khác thường này cũng ám chỉ trực tiếp bài thơ thứ IV của
người đầy tớ (Is 53,10), người này hiến dâng mạng sống của mình để hy sinh cho
quần chúng. Còn chúng ta thì sao? Phải chăng chúng ta sẽ giữ lại mạng sống và
cái chết của chúng ta "cho chính chúng ta?". Chúng ta sẽ hiến dâng
cái chết của chúng ta cho ai? Chúng ta có yêu thương người khác đủ để có thể
thực hiện sự dâng hiến - tối thượng này không?
Tôi chính là người mục tử nhân lành. Tôi biết
chiên của Tôi, và chiên của Tôi biết Tôi.
Khác với người làm thuê, "không thiết
tha gì đến những con chiên”. Nhân loại, tất cả mọi người, đều có giá trị dưới
mắt Chúa Giêsu, cho đến độ Người có thể liều mạng sống của Người cho mỗi một
người trong chúng ta. Lạy Chúa, Chúa đã liều mạng sống của Chúa vì con sao?
Đúng, Ta đã yêu thương con thật tình, không
phải chuyện đùa giỡn.
Qua những lời thắm thiết nồng nàn "Ta
biết chiên của Ta" chứng tỏ tình yêu đã tiến rất xa. Động từ ‘biết’ trong
Kinh thánh không chỉ có nghĩa là biết bằng tri thức mà là sự ‘biết’ của một
người thương yêu một người khác đến độ như đã cộng sinh ra với người đó và dấn
thân hoàn toàn vì người đó; như một người chồng nói về vợ mình: "Bây giờ anh
biết em, anh trở thành một tạo vật mới, đấy là sự hy sinh ra lần thứ hai".
Sự hiện diện mật thiết của người này trong người kia, một sự cảm thông hỗ
tương, một sự hiệp thông trong tư tưởng và tâm hồn. Đấy là “cùng sống với người
đó" và "dấn thân vì người đó".
Như Chúa Cha biết Tôi, và Tôi biết Chúa Cha.
Đấy là một gương mẫu. Sự thương yêu mật thiết
và sống động giữa Ngôi Cha và Ngôi Con trong mầu nhiệm Ba Ngôi. Sự mật thiết
giữa Chúa Giêsu và những người Chúa cứu chuộc bằng cái chết của Người, những
người mà Chúa cho sinh ra nhờ cái chết của Người. Đó cũng chính là sự kết hợp
mật thiết hiện có giữa các ngôi vị Thiên Chúa. Vâng chúng ta hãy nói về sự mật
thiết sâu sa này: Khi nghe gọi "Maria", Mađalêna đã nhận ra ngay đó
là tiếng nói của Chúa Giêsu Phục sinh (Ga 20,16). Tôi cũng thế, tôi cũng được
Chúa biết rõ tên riêng của tôi. Tạ ơn Chúa, vì tình thương này.
Tôi còn có những chiên khác không thuộc đàn
này. Tôi cũng phải đưa chúng về, chúng sẽ nghe tiếng Tôi và sẽ chỉ có một đàn
chiên, và một người mục tử.
Trái tim Chúa Giêsu yêu thương mọi người.
Tương quan sống động, việc hiệp thông sự sống giữa người mục tử và những con:
chiên, "sự quen biết riêng” với từng con chiên, Chúa Giêsu xác quyết rằng
sự "quen biết" này sẽ lan ra đối với tất cả mọi người không ngoại trừ
ai cả. Sứ mệnh cứu độ của Người phải vươn tới tầm mục hoàn cầu. Chữ
"Oicouménè" Hy Lạp có nghĩa là "toàn địa cầu có người ở”. Một
lần nữa, đây là cách nói bí nhiệm của Chúa Giêsu, làm cho chúng ta tự hỏi:
"Người là ai, mà có những tham vọng như thế? Người có "hơn"
Người thợ mộc khiêm nhường ở Nagiarét không? Xét theo bề ngoài dường như Chúa
Giêsu sắp chết trong sự thất bại hoàn toàn, bằng một cái chết nhục nhã và bị
chế nhạo, một cái chết "vô ích"? Ở thế kỷ II, có một lời ghi trên một
phần mộ, ký tên Abercius: "Tôi là môn đệ của một thánh Mục Tử có mắt rất
to, nhìn thấy khắp nơi". Chúa Giêsu cũng vậy, Người có mắt rất to: Mỗi
người một ngày nào đó, dù hư hỏng đến đâu, cũng sẽ nghe "tiếng của
Người" và sẽ tự cảm thấy được Chúa thương yêu và "đoái nhìn
đến", chúng ta chỉ thấy có một phần nhỏ đàn chiên của Người, Công đồng
Vatican nói: Đàn chiên nhỏ, đám đông vô tận.
Sở dĩ Chúa Cha yêu mến Tôi, chính vì Tôi hy
sinh mạng sống. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là
lệnh của Cha Tôi mà Tôi đã nhận được.
Người thí bỏ mạng và lấy lại mạng sống của
Người đễ dàng như "tháo cởi và mặc lại" áo quần. Chính những từ này
đã được dùng chiều thứ Năm Tuần Thánh trong Tin Mừng theo Thánh Gioan 13,4-12.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét