VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT PHỤC SINH NĂM B
Tin Mừng thánh Gioan 20,1-9
TIN MỪNG
1 Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ.2 Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu."
3 Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ.4 Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước.5 Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào.6 Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó,7 và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.8 Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin.9 Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
1 On the first day of the week, Mary of Magdala came to the tomb early in the morning, while it was still dark, and saw the stone removed from the tomb.
2 So she ran and went to Simon Peter and to the other disciple whom Jesus loved, and told them, "They have taken the Lord from the tomb, and we don't know where they put him."
3 So Peter and the other disciple went out and came to the tomb.
4 They both ran, but the other disciple ran faster than Peter and arrived at the tomb first;5 he bent down and saw the burial cloths there, but did not go in.
6 When Simon Peter arrived after him, he went into the tomb and saw the burial cloths there,7 and the cloth that had covered his head, not with the burial cloths but rolled up in a separate place.
8 Then the other disciple also went in, the one who had arrived at the tomb first, and he saw and believed.
9For they did not yet understand the scripture that he had to rise from the dead.
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề của hình này là gì?
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
* Bạn hãy viết lại câu Tin Mừng thánh Gioan 20,2
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
II. TRẮC NGHIỆM
01. Người ra mộ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần là ai? (Ga 20,1)
a. Mẹ Maria
b. Bà Maria Mácdala
c. Ông Phêrô
d. Ông Nicôđêmô
02. Ai là người đã phát hiện ra: tảng đá đã lăn khỏi mồ? (Ga 20,1)
a. Mẹ Maria
b. Bà Maria Mácdala
c. Ông Phêrô
d. Ông Gioan
03. Đây là lời bà Maria Mácdala nói với ông Phêrô (Ga 20,2)
a. Chúa đã sống lại rồi.
b. Chúa bảo các ông hãy đi Galilê và gặp thầy ở đó.
c. Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để người ở đâu.
d. Người ta đã cướp mất xác Chúa rồi.
04. Ai là người đã bước vào mộ Chúa Giêsu đầu tiên? (Ga 20,6)
a. Mẹ Maria
b. Bà Maria Mácdala
c. Ông Phêrô
d. Ông Gioan
05. Ông Phêrô và Gioan khi tới ngôi mộ chôn Đức Giêsu đã nhìn thấy gì? (Ga 20,6-7)
a. Một ngôi mộ trống.
b. Những băng vải.
c. Khăn che đầu Đức Giêsu.
d. Cả a, b và c đúng.
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Theo Thánh Kinh, ai phải trỗi dậy từ cõi chết? (Ga 20,9)
02. Theo Thánh Kinh, Đức Giêsu phải làm gì từ cõi chết? (Ga 20,9)
03. Từ ngôi mộ trở về, bà Maria Mácdala đã gặp ai đầu tiên? (Ga 20,2)
04. Khi ra mộ, bà Maria Mácdala đã nhìn thấy cái gì đã được lăn ra khỏi mộ? (Ga 20,1)
05. Khăn che đầu Đức Giêsu không để lẫn với các băng vải, nhưng được làm gì và xếp riêng ra một nơi? (Ga 20,7)
06. Ai đã ra mộ Đức Giêsu vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần? (Ga 20,1)
07. Theo Thánh Kinh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ đâu? (Ga 20,9)
Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂTHÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
Theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.
Tin Mừng thánh Gioan 20,9
Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT PHỤC SINH NĂM B
Tin Mừng thánh Gioan 20,1-9
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề :
Chúa đã Phục sinh
* Bạn hãy viết lại câu Tin Mừng thánh Gioan 20,2
Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu."
II. Lời giải đáp TRẮC NGHIỆM
01. b. Bà Maria Mácdala (Ga 20,1)
02. b. Bà Maria Mácdala
03. c. Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để người ở đâu (Ga 20,2)
04. c. Ông Phêrô (Ga 20,6)
05. d. Cả a, b và c đúng (Ga 20,6-7)
III. Lời giải đáp Ô CHỮ
01. Đức Giêsu (Ga 20,9)
02. Trỗi dậy (Ga 20,9)
03. Ông Simon Phêrô (Ga 20,2)
04. Tảng đá (Ga 20,1)
05. Cuốn lại (Ga 20,7)
06. Bà Maria Mácdala (Ga 20,1)
07. Cõi chết (Ga 20,9)
Hàng dọc : Sống lại.
GB. NGUYỄN THÁI HÙNG
CHÚA NHẬT PHỤC SINH NĂM B
Tin Mừng thánh Gioan 20,1-9
Anh Chị em Thân mến!
Thánh Gioan, trong bài tường thuật Tin Mừng của Thánh Lễ Phục Sinh hôm nay, viết rằng: “Theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20,9).
Cộng đoàn Phụng Vụ chúng ta hãy cùng nhau suy niệm về sự Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại.
+++
Khi còn sống, Chúa Giêsu đã nói trước về việc Ngài sẽ sống lại trong ngày thứ ba sau khi chết.
Chúa Giêsu đã nói cho các Tông Đồ biết rõ về điều này: “Chúa Giêsu kéo riêng Nhóm Mười Hai ra và nói với các ông: "Này chúng ta lên Giêrusalem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất. Quả vậy, Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, nhục mạ, khạc nhổ. Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại" (Lc 18,31-33).
Chúa Giêsu sánh Ngài ra khỏi ngôi mộ sau ba ngày nằm chết trong đó, giống như ngôn sứ Giôna ra khỏi bụng cá ba ngày, sau khi bị nuốt vào trong đó: “Quả thật, ông Giôna đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy” (Mt 12,40).
Chúa Giêsu sánh Ngài như Đền Thờ bị sụp đổ, nhưng ba ngày sau, sẽ được xây dựng lại: “Chúa Giêsu đáp: "Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại." Người Do-thái nói: "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao? " Nhưng Đền Thờ Chúa Giêsu muốn nói ở đây, là chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói. (Ga 2,19-22)
Sự chết của Chúa Giêsu thật rõ ràng, không ai có thể chối cải được.
Quân lính Roma đi tuần, thấy Chúa Giêsu đã chết, nên không đánh giập ống chân Chúa để Chúa chết cho mau, nhưng chỉ đâm cạnh sườn Chúa, và lúc đó, một chút máu cùng nước loang loảng chảy ra: “Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu. Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra” (Ga 19.32-34).
Chúa Giêsu đã chết thật rõ ràng trước mắt mọi người. Lúc đó, Đức Mẹ Maria và và những người có cảm tình với Chúa Giêsu sẽ không chịu liệm xác Ngài nếu thấy Ngài chưa chết: “Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Nói xong, Người tắt thở... Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy. Khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về. Đứng đàng xa, có tất cả những người quen biết Chúa Giêsu, cũng như những phụ nữ đã theo Người từ Galilê; các bà đã chứng kiến những việc ấy” (Lc 23,48-49).
Ông Giuse, một thành viên của Thượng Hội Đồng Do Thái, đến xin quan tổng trấn Philatô đem xác chết của Chúa Giêsu để đem đi chôn: “Khi ấy, có một người tên là Giôxếp, thành viên của Thượng Hội Đồng, một người lương thiện, công chính....Ông đến gặp tổng trấn Philatô để xin thi hài Chúa Giêsu. Ông hạ xác Người xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ. Hôm ấy là áp lễ, và ngày sa-bát bắt đầu ló rạng” (Lc 13,50-54).
Sự sống lại của Chúa Giêsu thật rõ ràng, không ai có thể chối cải được.
Dân Do Thái vu cáo đồ đệ của Chúa Giêsu ăn trộm xác Thầy mình rồi phao truyền rằng Thầy mình đã sống lại. Thánh Mátthêu tường thuật câu truyện này rất chi tiết: “Các bà đang đi, thì có mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, và bảo: "Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự." Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do-thái cho đến ngày nay” (11-15).
Thánh Augustinô đã đưa ra những nhận xét mĩa mai khi ngài suy niệm đoạn này: “Thật là lạ khi các binh sĩ Rôma canh mồ Chúa mà không nghe tiếng hòn đá lấp huyệt lăn ra. Họ lại nói họ đang ngủ mê thì làm sao mà làm chứng được? Các lính này cũng không bị phạt gì. Thật là lạ!”.
Phần chúng ta, theo như Phúc Âm tường thuật, chúng ta biết rõ các tông đồ lúc bấy giờ là những kẻ quá nhát đảm sợ sệt, chối bỏ Chúa Giêsu, chạy trốn Chúa Giêsu, nên không thể nào thực hiện được một một hành động táo bạo như thế được.
Cũng có một giả thiết cho rằng Chúa Giêsu không chết thật, nhưng chỉ chết giả, vì thế, ba ngày sau thì tỉnh lại, liền tự mình ra khỏi mồ. Căn cứ vào Phúc Âm tường thuật rõ ràng về cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta không thể nào chấp nhận giả thiết này được: Chúa Giêsu đã bị tra tấn, đánh đập và bị đóng đinh một cách hết sức độc ác và dã man; Ngài đã kiệt sức khi vác khổ giá lên đỉnh đồi Gôngôta, đến đỗi quân lính phải bắt một người vác thế; cạnh sườn nơi phía trái tim bên trái của Ngài đã bị đâm một lỗ sâu hoắm, đến đỗi ông Tôma có thể xỏ cả bàn tay vào được. Một người như Chúa Giêsu lúc đó, không còn có được một chút sức lực nào nữa, thì làm sao tự mình cởi khăn liệm bó chặt, lăn tảng đá rất nặng che lấp cửa huyệt đá để đi ra.
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra rõ ràng với những người đã từng sống với Ngài: sáng ngày Phục Sinh, Chúa Giêsu hiện ra với bà Mađalêna và những người phụ nữ (Mt 28,1-10); chiều ngày này, Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ đi về thành Êmau (Lc 24,13-32); tối ngày này, Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ và môn đệ trong Nhà Tiệc Ly (Lc 24,36-49); Chúa Nhật tuần sau, Chúa Giêsu hiện ra lại tại Nhà Tiệc Ly và khiển trách ông Tôma cứng tin (Ga 21,26-29); sau đó, Chúa Giêsu lại hiện ra với các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria (Ga 21,1-23); và lần hiện ra long trọng nhất, cũng là lần hiện ra cuối cùng, tại núi Ôlivêtê trước sự chứng kiến đông đảo của các tông đồ và môn đệ (Mt 28,16-20; Cv 1,4-10).
Sự Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu là điều quan trọng nhất đối với đức tin của người công giáo chúng ta.
Các tông đồ và môn đệ của Chúa Giêsu chỉ chú trọng vào việc rao giảng rằng Thầy mình đã bị đónh đinh chết, nhưng nay đã phục sinh sống lại: “Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2,32).
Thánh Phaolô nói rõ cho các tín hữu tiên khởi biết rằng sự Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu là tất cả vận ọang của họ bởi vì nếu không có Biến Cố Tử Nạn Phục Sinh của Chúa Giêsu, cuộc đời của họ sẽ hoàn toàn vô lý và sụp đổ: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1 Cr 15,17-19).
+++
Anh Chị Em thân mến,
Mỗi lần tham dự Thánh Lễ, chúng ta hãy sốt sắng tung hô: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa đã chịu chểt, và tuyên xưng Chúa đã sống lại, cho tới khi Chúa lại đến”.
Amen.
Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
SỐNG NIỀM VUI PHỤC SINH
Tôi rất thích câu Kinh thánh Ga 20:15: “Khi Chúa Giêsu thấy Maria Mađalêna khóc ở cửa mộ thì Ngài hỏi: Này chị, sao chị khóc?”. Lúc đó Ngài không hỏi một câu văn hoa bóng bẩy. Ngài muốn biết lý do chúng ta lo âu, khóc lóc và phiền muộn khi niềm hy vọng tiềm ẩn trong mọi sự – nếu chúng ta lưu ý.
Phục sinh mang ý nghĩa giải thoát, rầt ý nghĩa đối với một người như tôi, vì tôi luôn cảm thấy buồn sầu và tiêu cực. Mừng lễ Phục sinh là dịp để chúng ta nói: “Vâng, lạy Chúa Giêsu, con tin”. Khi làm vậy, hãy nắm bắt niềm hy vọng có sẵn đó.
1. Tiến lên và chạm vào Ngài. Sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và nói: “Sao anh em phiền muộn? Sao anh em nghi ngờ? Hãy sờ vào Thầy và xem đây, ma không có xương thịt như anh em thấy Thầy”.
Nếu tôi là một trong số họ, tôi không chỉ phiền muộn mà chắc rằng tôi sẽ không đến gần sờ thử. Tôi nghi ngại. Nhưng tôi tìm thấy sự an tâm trong sự bảo đảm của Chúa Giêsu rằng sự phục sinh của Ngài là thật. Chúa Giêsu là thật, sự phục sinh là thật, do đó mà các lời hứa của Ngài là thật. Nghĩa là chúng ta khả dĩ tin Ngài khi Ngài nói với chúng ta rằng Ngài sẽ ở với chúng ta đến tận thế (x. Mt 28:20).
2. Thiên Chúa tốt lành. Trước khi chịu chết, Chúa Giêsu nhắc lại rằng Ngài được sai đến nhân danh Chúa Cha. Thật vậy, qua nhiều phép lạ, nhất là việc cho Ladarô sống lại, cho thấy tính tốt lành của Thiên Chúa: “Vì Cha yêu Con và cho Chúa Con thấy mọi sự Người làm, và Người sẽ cho Chúa Con thấy những việc vĩ đại hơn vậy, đến nỗi anh em có thể ngạc nhiên” (Ga 5:20).
Chân phước Angela Foligna, thế kỷ 14, là người mẹ và người vợ, rồi là người viết xuất chúng về các điều thần bí, đã viết: “Bước đầu tiên mà linh hồn phải có khi đi vào con đường yêu thương là biết Thiên Chúa qua chân lý, nhờ đó mà muốn đạt tới Thiên Chúa… Biết Chúa qua chân lý là biết Ngài như chính Ngài, hiểu sự xứng đáng của Ngài, vẻ đẹp của Ngài, sự ngọt ngào của Ngài, sự tuyệt luân của Ngài, sức mạnh của Ngài, sự tốt lành của Ngài, bản chất cực tốt lành của Ngài”.
Tôi nghĩ rằng tin Chúa tốt lành là điểm phục sinh. Thiên Chúa có tốt lành? Có. Chúng ta có thể nói vậy với niềm xác tín vào sự Phục sinh.
3. Phó thác. Hãy phó thác ý muốn và cuộc đời mình cho Chúa quan phòng. Thánh Thomas Tiến sĩ viết: “Tính thánh thiện không gì hơn là quyết định dứt khóat, một hành động anh dũng của một linh hồn phó thác cho Thiên Chúa. Nhờ ý muốn thẳng thắn mà chúng ta yêu mến Chúa, chạy về phía Chúa, đạt tới Ngài và sở hữu Ngài”.
Mỗi khi chúng ta nói với Chúa: “Hãy lấy điều đó khỏi con”, chúng ta đang sống niềm vui Phục sinh, vì chúng ta đang nhớ lời hứa của Chúa rằng Ngài sẽ cung cấp cho chúng ta, Ngài không bỏ chúng ta, và dù chúng ta nghi ngờ thì Ngài vẫn thực sự đáng tin.
4. Loại bỏ sợ hãi. Trong trình thuật của thánh Mát-thêu, thiên thần Chúa hiện ra với Maria và một Maria khác ở nơi mộ trống, rồi nói với họ: “Đừng sợ, vì tôi biết các chị đang tìm Giêsu bị đóng đinh. Ngài không còn ở đây. Ngài đã sống lại như Ngài đã nói”. Sau đó Chúa Giêsu gặp các chị và lặp lại: “Đừng sợ!” (Mt 28:10).
Có thể điều Chúa Giêsu nói ở đây là đừng sợ. Loại bỏ sợ hãi là điều không dễ làm. Nhưng nếu chúng ta có thể loại bỏ sợ hãi, dù loại bỏ dần dần, chúng ta sẽ tránh xa nỗi buồn thập giá và đến gần sự tuyệt vời của ngôi mộ trống.
Cố tu sĩ Thomas Merton, dòng Trap, viết: “Nỗi sợ hãi thu hẹp lối vào trái tim, co rút khả năng yêu thương và làm đóng băng khả năng trao tặng chính mình”.
5. Công khai. Mệnh lệnh của Chúa Giêsu là rao giảng công khai. Cho dù bạn có thể giống như kẻ khờ dại, cứ nói với người ta rằng sự sống lại đã xảy ra thực sự. không nhất thiết chúng ta phải là người rao giảng Tin Mừng từ xa. Chúng ta khả dĩ làm và nói mọi thứ, ngôn ngữ và hành động của chúng ta luôn trở lại với sự Phục sinh, truyền niềm hy vọng cho mọi người chúng ta gặp.
6. Khiêm nhường. Nếu Chúa Giêsu là Thiên Chúa, và chỉ có một Thiên Chúa, điều đó nghĩa là không ai trong chúng ta là Thiên Chúa. Đó là sự thật quan trọng khác về sự sống lại: Thiên Chúa trở nên con người, con người không thể trở nên Thiên Chúa. Tôi biết tôi thường lẫn lộn hai điều đó, nhất là khi tôi nói qua điện thoại với nhân viên bảo hiểm y tế, vì tôi cảm thấy mình có quyền hơn người đó.
Thánh nữ Catarina Siena viết: “Hãy nhỏ bé và khiêm nhường. Hãy nhìn vào Thiên Chúa, Ngài tự hạ làm con người. Đừng làm mình bất xứng với những gì Thiên Chúa đã làm cho chúng ta”. Với sự khiêm nhường, chúng ta sẽ có khả năng hơn nhờ sự phục sinh. Điều đó như sự bù đắp những gì chúng ta không thể có, nhưng Thiên Chúa khả dĩ cung cấp cho chúng ta nếu chúng ta tin rằng ngôi mộ trống.
7. Hành trình Emmaus. Tôi luôn được đánh động bởi trình thuật của thánh Luca về hành trình Emmaus. Hai môn đệ trên đường đi Emmaus, Chúa Giêsu đến gần và hỏi họ đang nói chuyện gì. Một người nói: “Sao ông hỏi vậy? Ông không nghe xôn xao chuyện gì ư?”. Và họ chợt nhận ra Ngài khi Ngài cùng ngồi ăn với họ. Nhưng ngay khi họ nhận ra Ngài thì Ngài biến đi.
Hằng ngày chúng ta có dịp đi Emmaus nếu chúng ta đồng ý với thánh Leo Cả: “Chia sẻ sự phục sinh của Chúa Kitô là không bị ràng buộc bởi những gì tạm thời, nhưng chỉ ràng buộc bởi sự sống vĩnh hằng mà Ngài trao ban cho chúng ta... Sự phục sinh đã khởi sự nơi Đức Kitô, và Ngài muốn dẫn chúng ta đến sự viên mãn của sự sống và sự chữa lành”.
8. Cầu nguyện liên lỉ. Trong trình thuật của thánh Luca, tôi thích câu: “Họ hỏi nhau: Lòng chúng ta không sốt sáng khi Ngài nói chuyện với chúng ta trên đường đi và giải nghĩa Kinh thánh cho chúng ta sao?” (Lc 24:32).
Hành trình tới Emmaus là lời cầu nguyện, các nhiệm vụ nhỏ mọn của chúng ta hằng ngày cũng là những lời cầu nguyện. Thánh bổn mạng của tôi, Têrêsa Hài đồng, đã định nghĩa: “Lời cầu nguyện là điều bộc phát từ đáy lòng, là ánh mắt hướng về trời cao, là lời tạ ơn, là tình yêu giữa cơn thử thách và giữa niềm vui”. Đó là cách cầu nguyện khi chúng ta sống niềm vui Phục sinh.
9. Nhận biết Chúa trong mọi sự. Nếu mùa Chay là sống tĩnh lặng để lắng nghe tiếng Chúa thì lễ Phục sinh là ca vang Alleluia với Ngài. Và nếu 40 ngày bắt đầu bằng thứ tư lễ Tro là tách mình ra khỏi ai đó, nơi nào đó và thương mình hơn thì lễ Phục sinh là đón nhận mọi người, mọi nơi, mọi thứ gì thúc đẩy sự tốt lành, vẻ đẹp và tình yêu thương. Cố Giáo hòang Gioan-Phaolô II đã viết: “Chúng ta có thể tìm thấy Chúa trong mọi sự. Chúng ta có thể hiệp thông với Ngài trong mọi sự và qua mọi sự”. Thiên Chúa hằng sống và hiện hữu khắp nơi.
Hãy sống niềm vui Phục sinh ở mọi nơi và mọi lúc.
Hãy cầm lấy, tạ ơn, bẻ ra và trao cho người khác chính cuộc đời mình!
Tác giả: THÉRÈSE BORCHARD
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ Beliefnet.com)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét