VUI HỌC LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH NĂM B
Tin Mừng thánh Luca 24,35-48
I. TIN MỪNG
35 Còn hai
ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế
nào khi Người bẻ bánh.
36 Các ông
còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: "Bình an cho
anh em! "37 Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma.38 Nhưng Người nói:
"Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực?39 Nhìn chân tay Thầy coi,
chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có
đây? "40 Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem.41 Các ông còn
chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: "Ở đây anh em
có gì ăn không? "42 Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng.43 Người cầm
lấy và ăn trước mặt các ông.
44 Rồi
Người bảo: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả
những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy
đều phải được ứng nghiệm."45 Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh
Thánh46 và Người nói: "Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu
khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại;47 phải nhân danh Người mà rao
giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha
tội.48 Chính anh em là chứng nhân về những điều này.49
35 Then the two recounted what had taken place on the way and how
he was made known to them in the breaking of the bread.
36 9While they were still speaking about this, he stood in their
midst and said to them, "Peace be with you."
37 But they were startled and terrified and thought that they
were seeing a ghost.
38 Then he said to them, "Why are you troubled? And why do
questions arise in your hearts?39 10 Look at my hands and my feet, that it is I
myself. Touch me and see, because a ghost does not have flesh and bones as you
can see I have."
40 And as he said this, he showed them his hands and his feet.
41 While they were still incredulous for joy and were amazed, he
asked them, "Have you anything here to eat?"
42 They gave him a piece of baked fish;43 he took it and ate it
in front of them.
44 He said to them, "These are my words that I spoke to you
while I was still with you, that everything written about me in the law of
Moses and in the prophets and psalms must be fulfilled."
45 Then he opened their minds to understand the scriptures.
46 11 And he said to them, "Thus it is written that the
Messiah would suffer and rise from the dead on the third day47 and that
repentance, for the forgiveness of sins, would be preached in his name to all the
nations, beginning from Jerusalem.
48 You are witnesses of these things.
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ
đề của hình này là gì?
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
* Bạn
hãy viết lại câu Tin Mừng thánh Luca 24,35
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
II. TRẮC NGHIỆM
01. Khi thấy Đức Giêsu đứng giữa
các ông và bảo: “Bình an cho anh em!”, các tông đồ có thái độ gì? (Lc 24,36)
a. Kinh
hồn bạt vía.
b. Vui
mừng hớn hở.
c. Hân
hoan.
d. Lo
sợ.
02. Để minh chứng mình không phải
là ma, Đức Giêsu đã đưa tay chân cho các ông xem, Người còn xin họ của ăn, và
các ông đã đưa cho Người cái gì để Người ăn? (Lc 24,40-43)
a. Một
con cá nhỏ.
b. Một
khúc cá nướng.
c. Một
chiếc bánh.
d. Một
ly rượu.
03. Khi còn ở với anh em, Đức
Giêsu đã nói tất cả những sách gì chép về Người đều phải được ứng nghiệm? (Lc
24,44)
a. Các
sách Ngôn Sứ.
b. Sách
Luật.
c. Các
Thánh Vịnh.
d. Cả
a, b và c đúng.
04. Đức Giêsu đã mở trí cho các
ông hiểu những điều gì Kinh Thánh đã chép về Người? (Lc 24,46)
a. Đấng
Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại.
b. Đấng
Kitô phải được vinh thăng.
c. Đấng
Kitô bất tử.
d. Cả
a, b và c đúng.
05. Có lời Kinh Thánh chép rằng:
Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, phải nhân
danh Người mà rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn gì? (Lc
24,47)
a. Tha tội
b. Khôn
ngoan
c. Cứu
rỗi
d. Chết
lành
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Đây là những sách phải được
ứng nghiệm những điều đã được viết về Đức Giêsu? (Lc 24,44)
02. Có lời Kinh Thánh chép rằng:
Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, phải nhân
danh Người mà rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn gì? (Lc
24,47)
03. Khi Đức Giêsu đứng giữa các
tông đồ, các ông tưởng là thấy ai? (Lc 24,38)
04. Có lời Kinh Thánh chép rằng:
Ai phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, Người từ cõi chết sống lại? (Lc
24,46)
05. Có lời Kinh Thánh chép rằng:
Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ mấy, Người từ cõi chết sống lại? (Lc
24,46)
06. Đức Giêsu đã mở trí cho các
ông hiểu biết điều gì? (Lc 24,45)
07. Theo lời Kinh Thánh, các tông
đồ phải nhân danh Đức Giêsu mà làm gì cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được
ơn tha tội? (Lc 24,47)
Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
Đấng Kitô
phải chịu khổ hình,
rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại
Tin Mừng thánh Luca 24,46
Lời giải đáp
VUI HỌC LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH NĂM B
Tin Mừng thánh Luca 24,35-48
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ
đề :
Loan
tin vui
* Bạn
hãy viết lại câu Tin Mừng thánh Luca 24,35
Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc
mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
II. Lời giải đáp TRẮC NGHIỆM
01. a.
Kinh hồn bạt vía (Lc 24,36)
02. b.
Một khúc cá nướng (Lc 24,40-43)
03. d.
Cả a, b và c đúng (Lc 24,44)
04. a. Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi
chết sống lại (Lc 24,46)
05. a. Tha tội (Lc 24,47)
III. Lời giải đáp Ô CHỮ
01.
Sách luật Môsê (Lc 24,44)
02. Tha tội (Lc 24,47)
03.
Ma (Lc 24,38)
04.
Đấng Kitô (Lc 24,46)
05. Thứ
ba (Lc 24,46)
06.
Kinh Thánh (Lc 24,45)
07. Rao
giảng (Lc 24,47)
Hàng dọc : Loan Báo
NGUYỄN
THÁI HÙNG
Bài giảng Ngày Chúa Nhật III Phục Sinh B -
Chúa Giêsu là một người thật
Anh Chị em thân mến,
Trong bài Tin Mừng của Ngày Chúa Nhật III
Phục Sinh B trong Thánh Lễ hôm nay, Chúa Giêsu nói rõ với các Tông Đồ khi Ngài
hiện ra cho họ thấy: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma
đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24,39)
Cộng đoàn phụng vụ chúng ta hãy cùng nhau
suy niệm về tín điều: Chúa Giêsu là một người thật.
+++
Chúa Giêsu sinh, sống và chết như một người
trong chúng ta. Ngài sinh ra tại Bêlem, miền Giuđêa, nước Palestina, vào năm
748 kể từ ngày lập quốc Rôma, dưới triều đại hoàng đế Xêdarê Augustô, trong lúc
vua Hêrôđê đang trị vì tại xứ Palestina dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của Chính
quyền đế quốc Rôma đang chế ngự tất cả các quốc gia trong vùng Địa Trung Hải.
Ngài sống thời thơ ấu và thanh niên tại làng Nadarét, thuộc miền Galilê, phía
bắc nước Palestina; lúc ba mươi tuổi, ra đi truyền đạo khắp nước Do Thái, đúng
vào năm thứ 15 của triều đại hoàng đế Tibêriô. Ngài chết lúc ba mươi ba tuổi,
bị xử tử thập giá vào ngày thứ sáu, 14 tháng Nisan năm 30, tức là ngày mồng 7
tháng 4 Dương Lịch năm 30, dưới thời quan tổng trấn Pônxiô Pilatô thay mặt
hoàng đế Rôma kiểm soát xứ Palestina.
Chúa Giêsu là con người có sức khỏe bền bỉ, không đau ốm tật bệnh. Trong
cuộc đời bôn ba truyền giáo, Ngài thức khuya, dậy sớm, luôn luôn có mặt trên
mọi nẻo đường đất nước. Ngài chịu đựng được nhiều cơn nhọc mệt lớn lao, nên
không chao đảo, không ngã quỵ. Đám đông dân chúng và vô số bệnh nhân bao vây
Ngài tư bề, không kể ngày đêm, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện, niềm nở, không
bao giờ bỏ rơi một ai, viện cớ mệt, mắc
việc, mắc ngủ.
Chúa Giêsu là con
người lạc quan. Ngài mang một tình yêu lớn lao và một mối thiện cảm đậm đà đối
với những người đang sống trong xã hội đồng thời với Ngài và đối với tất cả
những gì đang diễn ra xung quanh Ngài. Đối với thiên nhiên, đối với thú vật,
Ngài cũng yêu thích với một mối thiện cảm đậm đà không kém: Ngài thích nghe
tiếng chim hót, thích nhìn chim bay, thích ngắm hoa đẹp, thích ngắm cảnh mặt
trời mọc và lặn, thích nhìn vầng trăng sáng, thích ngồi trên biển hồ Gênêdarét
và theo dõi các làn sóng đua nhau lăn vào bờ. Ngài vui vẻ tham dự tiệc cưới và
sản xuất rượu ngon cho khách tiệc dùng. Ngài muốn cho các môn đệ vui vẻ trong
thời gian Ngài còn tại thế. Ngài hứa ban hạnh phúc cho những ai đeo đuổi lý
tưởng Ngài vạch ra. Ngài hân hoan sung sướng khi nghĩ đến Cha Ngài trên trời và
dâng lời cảm tạ.
Chúa Giêsu là con
người can đảm. Ngài có lập trường cao cả và vững vàng, không lay chuyễn. Nếu
Ngài chấp nhận đến dự tiệc, chấp nhận ngồi ăn uống với đủ mọi hạng người, thì
Ngài vẫn luôn lớn tiếng chống lại tội lỗi, lên án công khai những hạng bất
chính, những kẻ dâm tà. Nếu Ngài luôn luôn tốt lành và thông cảm đối với những
kẻ yếu hèn, cô thế, sa đọa, thì Ngài vẫn chống đối nặng nề những kẻ lạm dụng
Đền Thờ, những kẻ làm gương xấu, những hạng đạo đức giả, những kẻ kiêu căng, dù
họ là ai và dù họ ở địa vị nào. Khi dân chúng say mê đi theo Ngài, muốn tôn
Ngài lên chức cao quyền trọng, Ngài không đếm xỉa, không chụp cơ hội vì Ngài
không tìm thành công nhất thời và bên ngoài cho mình. Khi người ta xin Ngài làm
điềm lạ, Ngài có thể làm cho họ sửng sốt, nhưng Ngài không muốn làm thỏa mãn
tính tọc mạch của một ai. Đối với tiền bạc, Ngài từ chối điều đình, dứt khoát
không được làm tôi hai chủ: không thể nào vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi
tiền của được. Đối với luật pháp, Ngài chủ trương rõ ràng: phải vâng giữ luật
thế trần trong những điều chính đáng, nhưng trên hết, phải tuân giữ luật Chúa
trong những điều Chúa dạy. Ngài tuyệt đối trung thành với việc bổn phận: việc
bổn phận phải làm, Ngài thi hành không sai một phẩy, không sẩy một chấm; Ngài
hoàn thành bổn phận của mình trong mọi hoàn cảnh, khi thuận cũng như khi
nghịch, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi hân hoan cũng như trong hồi
đau khổ, và Ngài luôn luôn làm chứng hùng hồn về sứ mạng của mình cho đến hơi
thở cuối cùng.
Chúa Giêsu là con người có trái tim
rất tình cảm. Tình cảm của Ngài rất cao đẹp, nồng nàn và mãnh liệt, nhưng Ngài
vẫn luôn làm chủ trái tim của mình. Ngài dành cho Mẹ Maria, cho Cha Giuse, tất
cả những tình cảm quý báu nhất. Ngài tận tâm săn sóc các môn đệ của mình, không
bỏ rơi một ai. Tuy yêu thương tất cả các tông đồ, nhưng Ngài vẫn quý chuộng
Gioan hơn, và giao Mẹ cho Gioan nuôi dưỡng. Ngài thích trú ngụ tại nhà ba chị
em ở Bêtania. Ngài khóc khi đến mộ Ladarô là người mà Ngài yêu. Ngài rơi lệ khi
nhìn ngắm kinh đô yêu dấu của tổ quốc mà Ngài biết thế nào cũng bị tàn phá
trong một ngày gần đây. Ngài da diết buồn khi nghĩ đến nhiều kẻ vẫn mù quáng và
vong ân. Ngài quá đỗi buồn phiền trong Vườn Cây Dầu và khi đứng trước sự phản
bội của Giudà mà Ngài tin cẩn.
Chúa Giêsu là con
người có tâm hồn rất cao thượng. Ngài rất hiền lành và hết sức kiên nhẫn đối
với các bệnh nhân và những ai bị đời hất hủi: những người nghèo khổ, bệnh tật,
bất hạnh tấp nập đến với Ngài, và Ngài tiếp đón săn sóc họ không biết mệt. Ngài
động lòng trước nỗi đau khổ của bà góa đi đưa xác đứa con trai độc nhất. Ngài
xiêu lòng trước những lời van xin của người đàn bà xứ Canaan muốn Ngài thương giúp
chữa lành đứa con gái. Ngài rất nhân từ đối với những người tội lỗi, những kẻ
yếu đuối lỡ lầm: Ngài tha tội cho họ ngay, tha trong nháy mắt; Ngài công khai
bênh vực họ trước những hạng biệt phái đạo đức giả, luôn kiêu căng khinh dễ kẻ
khác. Trước những kẻ nghịch nhạo cười đắc thắng, hả hê chê bai, Ngài vẫn bình
tĩnh yêu thương và tha thứ. Sự dữ, sự tội, sự tức tối, sự báo thù không ảnh hưởng được gì trên Ngài:
Ngài tha cho tất cả mọi kẻ nghịch với Ngài ngay trên cây thập giá, trước khi
chết.
Chúa Giêsu là con
người nếm đủ mọi nổi đau khổ của con người. Mọi cực nhọc túng thiếu trong thân
xác và mọi đau khổ ê chề trong linh hồn, tất cả đều có mặt trong cuộc đời của
Chúa Giêsu khi Ngài còn sống cũng như lúc Ngài chết. Sống thì không nhà, không
cửa, nay đó, mai đây; nhiều ngày không đủ ăn; nhiều đêm phải ngủ ngoài trời,
gối đầu trên tảng đá thô. Ở Nadarét, lúc làm nghề thợ mộc tại gia, Ngài đã từng
cảm thấy mệt mõi sau một ngày lao động vất vả, và sau nầy, khi lìa nhà, bôn ba
truyền giáo, Ngài kiệt sức sau nhiều giờ đi bộ trên những con đường dài dưới
ánh nắng chói chang, đến đỗi phải dừng lại nghỉ trên bờ một giếng mát. Vì làm
việc quá nhiều, Ngài rãnh được chút nào thì ngủ chút đó, có khi ngủ ngay trên
mạn thuyền giữa cơn bão tố dữ dội. Nhiều lần, Ngài cảm thấy đói và uể oải trong
thân xác. Nhất là nhiều lần, Ngài cảm buồn da diết khi thấy dân chúng vô ơn,
khi thấy các tông đồ yêu dấu chạy trốn, khi thấy Giuda trắng trợn phản bội.
Nhất là trong giai đoạn Thương Khó: thân xác nát tan, linh hồn sầu thảm, tràn
đầy nhuốc hổ và sĩ nhục, lảo đảo vác thập giá lên Núi Sọ, chịu xử tử bằng hình
khổ đóng đinh trần truồng, nhìn Mẹ đứng dưới chân mà bất lực, chết tủi cực và
rùng rợn giữa trời và đất, bị treo trên hai miếng gỗ lạnh lùng. Chết không có
mồ chôn, phải mượn mồ kẻ khác để chôn thế. Chúa Giêsu thật là con người duy
nhất nếm đủ mọi nổi đau khổ của nhân loại: Ngài xứng danh là Nhà Vô Địch Đau
Khổ!
+++
Chúa Giêsu là một con người hoàn
toàn như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, nhưng là một con người cao cả và đáng
kính phục biết bao!
Lạy Chúa Giêsu,
con yêu mến Chúa hết lòng con!
Amen!
Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
Không phải mọi sự chỉ toàn là ánh sáng
(Suy niệm của Jean-Yves Garneau)
Những nỗi nghi ngờ
của chúng ta.
Nhiều người đã nhìn
thấy Chúa Giêsu tận mắt, đã nghe Ngài nói, đã biết những việc lạ lùng Ngài làm.
Có lẽ chính họ đã chứng kiến nữa. Nhưng cũng chính những người đó vẫn không tin
nơi Ngài. Họ đã không nhận ra được rằng Ngài là Đấng Cứu Độ. Trái lại, nhiều
người đã “chối bỏ, trao nộp và giết” Ngài (Cv 3,13;14;15).
Nhiều lần sau khi
Phục Sinh, Chúa Kitô đã hiện ra với các môn đệ. Và khi những biến cố như thế
xảy ra, thì không phải tự nhiên các ông vui mừng phấn khởi ngay đâu, nhưng đúng
hơn các ông ngạc nhiên, nghi ngờ. Thánh Luca nói với chúng ta rằng: “Họ tưởng
trông thấy ma” (24,37). Phải có những cử chỉ đầy thuyết phục để cho các Tông đồ
tin vào Chúa Giêsu: “Hãy xem tay chân Thầy đây. Hãy sờ xem…”. Mà vẫn chưa đủ,
Ngài còn phải ăn một miếng cá nướng trước mặt các ông.
Khi biết được những
điều này ta sẽ không ngạc nhiên khi nhiều Kitô hữu thuộc những thời đại và
trong những hoàn cảnh khác nhau, đã muốn chối bỏ Chúa Kitô hoặc ít ra là nghi
ngờ. “Đức tin của tôi dựa trên cái gì? Tôi có lý mà tin chăng? Tôi có lầm đường
chăng?”. Ai mà chẳng có lần tự đặt cho mình những câu hỏi như thế. Có lẽ hiện
giờ một số người vẫn còn những thắc mắc kiểu ấy nữa.
Giả như ít ra, vào
những giờ phút ấy, chúng ta có được những dấu chỉ cũng rõ rệt như những dấu chỉ
mà các môn đệ xưa kia đã có được. Trông thấy Chúa Kitô, sờ vào Ngài, nghe Ngài!
Và lúc đó mọi sự sẽ đơn giản hơn nhiều. Nhưng những dấu chỉ ấy không được ban
cho chúng ta. Chúng ta đừng chờ đợi vô ích. Nhìn thấy Chúa Giêsu bằng mắt xác
thịt, sờ vào Ngài với đôi bàn tay của chúng ta, chính tai chúng ta nghe Ngài,
ngồi ăn cùng với Ngài như các chứng nhân đầu tiên về sự Phục Sinh, đó không
phải là cơ may của chúng ta.
Những điểm qui chiếu.
Như thế không có
nghĩa là chúng ta hoàn toàn bị chìm ngập trong tối tăm và không thể bám víu vào
cái gì cả để khơi dậy đức tin nơi mình.
Chúa Giêsu đã nói với
Phêrô và những tông đồ khác: “Hãy xem tay chân Thầy”. Nhưng Ngài nói với chúng
ta: “Các con hãy nhìn các môn đệ. Hãy lấy kính lúp mà xem họ đã sống những gì.
Các con hãy đón nhận chứng tá của họ. Các con hãy tin vào lời họ. Thầy đã làm
cho họ trở nên những sứ giả của Thầy”.
Ngài cũng nói với
chúng ta: “Hãy nhìn xem các tín đồ xung quanh các con. Hãy nhìn xem Giáo Hội.
Hãy nhìn xem những kẻ lớn bé tin vào Thầy. Hãy nhìn xem tất cả những người nam,
người nữ gắn bó với Thầy tận đáy lòng. Hãy nhìn xem hành vi của họ. Hãy nói
chuyện với họ. Hãy kiểm chứng niềm tin của họ. Hãy yêu cầu họ trả lẽ về niềm hy
vọng của họ. Điều đó sẽ giúp ích cho các con. Khi gặp gỡ những tín hữu chân
chính, các con sẽ được lôi cuốn trong đức tin, đức tin của họ sẽ củng cố đức
tin của các con”.
Lời khuyên khác để
nuôi dưỡng đức tin của chúng ta.
Thánh Gioan cho chúng
ta lời khuyên này khi người khẳng định: “Đây là cách chúng ta có thể biết được
chúng ta có biết Ngài không? (chúng ta có tin nơi Ngài không?). Đó là tuân giữ
các giới răn của Ngài”.
Chính nhờ sống như
Chúa Kitô mà người ta trở thành Kitô hữu và thành người sống đạo. Chính nhờ
thực sự cố gắng làm cho cuộc sống của mình am hợp với những đòi hỏi của Tin
Mừng mà ta làm chứng cho sự vững chắc và sự thật của những gì Chúa Giêsu dạy.
Chính nhờ cụ thể bước theo con đường Phúc Âm đã vạch ra mà ta gặp được Chúa
Kitô. Sống bằng Tin Mừng để tin vào Tin Mừng! Sống như Chúa Kitô để tin nơi
Ngài!
Những nghi nan của
chúng ta vẫn còn.
Khi bước theo con
đường này, chúng ta có tránh được mọi nghi nan không, chúng ta có sống trong
ánh sáng chói lòa và trong sự yên tĩnh hoàn toàn không? Chắc chắn là không. Sự
nghi ngờ, những vấn nạn không có câu trả lời rõ ràng và thỏa mãn chúng ta hoàn
toàn, cả đến sự cám dỗ chối bỏ Chúa Kitô nữa. Mọi sự đều có thể xảy ra cho
chúng ta trên trần thế này. Ánh sáng chan hòa sẽ chỉ có ở thế giới bên kia.
Diện đối diện với Chúa không phải là điều xảy ra nơi trần thế này. Ở đây ta
phải luôn luôn chờ đợi những lúc khó khăn và những bước đường cực nhọc.
Tin! Chắc chắn đó là
một hồng ân. Nhưng cũng là một cuộc chiến đấu, một sự tìm kiếm mỗi ngày. Người
nào tìm kiếm không ngừng, sống một đức tin trong niềm thao thức, một đức tin có
thể rất mỏng dòn, người đó sẽ được Thiên Chúa yêu thương. Và hễ ai tìm kiếm,
thì Ngài ban cho ơn được thấy. Và ai gõ cửa, Ngài sẽ mở cho. Ngài là Cha và
Ngài chờ đợi chúng ta hết thảy.
Chúa Giêsu
là trung tâm lịch sử
Noel
Quesson
“Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh
Thánh”
Trong các bức hoạ cổ, người ta thường nói bức
vẽ của Misen Angelo (Michel Angelo) ở nguyện đường Sixtin Rôma. Hoạ sĩ Michel
Angelo đã mất bảy năm để thực hiện bức vẽ trên trần nhà nguyện. Bức vẽ diễn tả
những chương đầu của sách Khởi nguyên: Thiên Chúa tạo dựng vạn vật. Thay vì ký
tên vào bức vẽ, hoạ sĩ đề hai chữ Alpha và Omêga, đó là chữ đầu tiên và cuối
cùng của mẫu tự Hilạp. Hoạ sĩ có ý nói: Thiên Chúa là đầu hết và cuối hết của
vạn vật.
Toàn bộ lịch sử nhân loại được diễn ta trong
Kinh Thánh đều quy tụ về một điểm là con người trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm
người. Từ nhiều nghìn năm, Kinh Thánh đã tiên báo về Ngài, chuẩn
bị tâm hồn người đọc để có đủ tư cách tiếp nhận Chúa Cứu Thế. Cựu ước nói về
Chúa và cái chết với những lời lẽ rõ ràng. Trong đó cũng nói về những đau khổ
Người phải chịu. Người Do Thái đã đọc những lời tiên báo đó trong sách Luật,
sách các Ngôn sứ và Thánh vịnh, nhưng họ và ngay cả các Tông đồ cũng không hiểu
rõ. Vì thế mọi người đã coi cái chết của Chúa Giêsu như một thất bại, và đến lúc
nghe Chúa sống lại, ai nấy đều hoang mang nghi ngờ.
Cho tới lúc Chúa sống lại, Chúa vẫn còn bận
tâm làm sao cho các môn đệ hiểu rõ Chúa chính là Đấng được tiên báo trong Cựu
ước. Trong lần hiện ra với hai môn đệ trên đường đi Emaus, cũng như với mười một
tông đồ mà Tin Mừng hôm nay tường thuật, Chúa đã dành nhiều giờ cắt nghĩa cho
họ những điều Cựu ước nói về Người. Những lời cắt nghĩa của Chúa, kèm với ân
huệ Người.
Những cải tổ về phụng vụ của Công đồng
Vaticăng II đã quan tâm lo liệu cho ta nghe, đọc nhiều đoạn Cựu ước trong Thánh
lễ, có ý cho ta thấy Chúa Giêsu chính là cốt trục xuyên suốt của lịch sử. Muôn
dân, muôn thế hệ đã được ơn tha tội, được cứu rỗi nhờ kêu cầu danh Chúa Giêsu,
nhờ cuộc khổ nạn và Phục sinh của Người. Cuộc cải thiện thế giới bắt đầu từ
Giêrusalem và mỗi người chúng ta là những chứng nhân.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con đọc và hiểu lời
Ngài trong Thánh kinh. Vì lời Chúa là đèn soi bước cho chúng con đi. Xin ban
ánh sáng đức tin cho những người chúng con gặp gỡ hôm nay. Chúng
con cầu xin Chúa.
Suy niệm
của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
NHỮNG BÓNG MA TƯỞNG TƯỢNG
Trước khi dâng mình cho Chúa, Thánh An-phong
là một luật sư lỗi lạc. Ngài rất nổi danh vì tài hùng biện và vì lý luận đanh
thép sắc bén. Nhờ tài ba, ngài đã thành công trong rất nhiều vụ án hiểm hóc.
Nhưng một hôm, Chúa đã để cho ngài phải thất bại. Trong một vụ án mà ngài thấy
là đơn giản, dễ dàng, ngài đã bị thua một cách thảm hại. Trước thất bại cay
đắng đó, ngài thấy như cả bầu trời sụp đổ. Danh tiếng phút chốc tan như mây
bay. Uy tín bị cuốn đi trong làn gió thoảng. Cả một màn đen tối u ám phủ xuống cuộc
đời.
Chẳng còn biết tìm an ủi ở nơi nào khác,
thánh An-phong quay về bên Chúa, chìm đắm trong lời kinh cầu nguyện. Nhờ ơn
Chúa, ngài tìm được niềm bình an. Hơn thế nữa, ngài nghe được tiếng Chúa mời
gọi đi vào con đường Chúa muốn. Từ đó, ngài hiến thân trọn vẹn để phục vụ Chúa,
ngài đã trở thành linh mục, giám mục và lập ra Dòng Chúa Cứu Thế. Sau này, khi
nhìn lại, ngài hiểu rằng chính Chúa đã hiện diện trong những thất bại để đưa
ngài về con đường theo ý Chúa. Chính Chúa đã dùng những đau khổ để huấn luyện
ngài trong đức khiêm nhường phó thác. Chính bàn tay Chúa đã hạ ngài xuống trong
danh vọng trần thế để nâng ngài lên trong vinh quang Nước Trời.
Trong sách Tin Mừng ta thấy thuật lại nhiều
trường hợp tương tự. Khi thuyền của các môn đệ đang vất vả vượt qua sóng gió,
Đức Giêsu đi trên mặt biển đến với các ông. Các ông tưởng là ma nên càng sợ hãi
hơn. Nhưng đó chính là Đức Giêsu. Người làm cho biển êm sóng lặng và thuyền các
ông tới bến bình an... Có lần Đức Giêsu cùng ở trên thuyền với các ông, nhưng
Người ngủ say đến nỗi sóng gió dữ dội mà vẫn không hay biết gì. Các ông hoảng
hốt đánh thức Người dậy. Và Người đã đe sóng gió khiến chúng phải im lặng.
Hôm nay cũng thế, Người đến bất ngờ khiến các
môn đệ sợ hãi. Họ đang bị cái chết đau thương của Người ám ảnh. Nên khi Người
đến họ tưởng là ma hiện hình. Đức Giêsu phải trấn an họ. Cho họ xem những vết
thương ở tay chân. Cùng ăn uống với họ và giải nghĩa Thánh Kinh cho họ. Nhờ
thế, họ được bình an, được vui tươi và tin tưởng.
Trong đời sống chúng ta cũng thế. Rất nhiều
lần trong đời ta tưởng Chúa là bóng ma đến đe dọa đời sống ta. Có những biến cố
lịch sử làm đảo lộn đời ta, tưởng chừng như đưa cuộc đời ta vào ngõ cụt. Nhưng
không ngờ chính Chúa dùng biến cố lịch sử dẫn đưa ta vào một con đường mới theo
thánh ý Chúa. Có những khi ta gặp thất bại ê chề tưởng chừng như không còn
gượng dậy nổi. Nhưng không ngờ chính Chúa đã dùng thất bại để cảnh tỉnh ta,
giúp tâm hồn ta vươn lên trong một đời sống mới cao cả tươi đẹp hơn. Có những
khi ta gặp phải những nỗi đau buồn tê tái tưởng như chết đi được. Ta cứ tưởng
Chúa đã bỏ rơi ta. Nhưng không ngờ chính Chúa hiện diện trong những đau buồn đó
để giúp ta sống trưởng thành, sâu xa, phong phú hơn.
Khi đức tin các tông đồ còn yếu kém, họ tưởng
Chúa là ma. Khi đức tin đã được củng cố, các ngài mới thấy Đức Giêsu là có
thực. Đức tin của các tông đồ đã được củng cố nhờ được gặp gỡ tiếp xúc thân mật
với Đức Giêsu và được nghe Người giải nghĩa Thánh Kinh. Đức tin của ta còn rất
non yếu. Ta hãy biết bắt chước các tông đồ củng cố đức tin bằng cách năng gặp
gỡ Đức Giêsu. Hãy đến gặp Người trong Thánh Lễ. Hãy đến gặp Người trong giờ
kinh tối trong gia đình. Nhất là hãy đến gặp Người trong những giờ cầu nguyện
riêng tư, một mình đối diện tâm sự thân mật với Chúa.
Hãy củng cố đức tin bằng cách học hỏi Thánh Kinh. Đọc
Thánh Kinh hằng ngày để hiểu biết Chúa hơn. Suy niệm Thánh Kinh để tìm ra thánh
ý Chúa. Và nhất là hãy biết thực
hành Lời Chúa dạy trong
đời sống hằng ngày. Khi đã gặp gỡ Chúa và đã thấu hiểu Lời Chúa, ta sẽ chẳng
còn bị những bóng ma ám ảnh. Ta sẽ nhìn thấy Chúa trong tất cả các biến cố vui
buồn của đời sống. Cuộc sống ta sẽ tràn đầy niềm vui và niềm bình an.
Lạy Đức Giêsu Phục Sinh, con tin Chúa đang ở
bên con. Con xin phó thác cuộc đời con trong tay Chúa.
Suy Niệm
của ĐGM. Vũ Duy Thống
CÁCH HIỆN DIỆN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH
Một trong những địa danh được nhắc đến nhiều
nhất vào Mùa Phục Sinh, đó là ngôi làng Emmaus. Mặc kệ các nhà khảo cổ với
những công trình tìm kiếm xem ngôi làng đó nằm ở đâu trên thực tế địa lý. Mặc
kệ các nhà chú giải với những phân tích chi li xem địa danh Emmaus hợp bởi chữ
gì và có nghĩa gì. Mặc kệ các nhà hội họa với những cảm hứng khơi nguồn đã khéo
tô điểm Emmaus nên một kiệt tác như bức họa nổi tiếng của Rembrandt. Mặc kệ tất
cả. Người tín hữu chỉ có một cảm tình tốt đẹp là xem Emmaus như một địa chỉ
tinh thần không thể quên được. Bởi lẽ khởi đi từ đó, Đấng Phục sinh đã ưu ái
cho thấy Ngài luôn có mặt bên cạnh con người và vẫn muốn hiện diện thường xuyên
cho cuộc sống con người. Khởi đi từ địa chỉ tinh thần ấy, người ta thấy ít ra
có ba cách hiện diện của Đấng Phục sinh:
1) ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT TRONG NHỮNG BƯỚC
ĐỒNG HÀNH CHIA SẺ
Bối cảnh của bài Phúc Am là những ngày tiếp
theo biến cố Phục sinh. Hoàn cảnh của các môn đệ thật là bi đát. Họ là người
theo Chúa từ những ngày đầu cuộc sống công khai, những mong được tả hữu vinh
quang khi Đấng Messia chinh phạt thế giới. Nào ngờ Thầy mình lại chọn lấy con
đường khác để cứu độ. Ngài đã bị giết, bị chôn vùi trong huyệt đá. Và lưu ảnh
cuối cùng họ có về Thầy mình, đó chính là ngôi mộ hoàn toàn trống rỗng. Vỡ
mộng, thất vọng, cô đơn, họ như những môn sinh “chữ thầy lại trả cho thầy, trở
về làng cũ học cầy cho xong”.
Mà đâu có xong. Chính lúc tưởng chừng trống
vắng không gì có thể lấp đầy được, Đấng Phục sinh đã âm thầm hiện diện bên họ,
trong dáng dấp của một người khách lạ, trong thân quen của những bước đồng hành
và trong ân cần của những lời thăm hỏi rất đỗi bình thường. Ngay trong Phúc Am
hôm nay, liền sau biến cố Emmaus, khi hai môn đệ đang kể lại Chúa Giêsu ở ngôi
thứ ba, thì Ngài đã tự bao giờ “đứng giữa” câu chuyện ở ngôi thứ hai để chào
hỏi đối thoại ủi an.
Vâng, Đấng Phục sinh là như thế. Tưởng vào
trong vinh quang là bắt đầu nẻo đời xa cách, nào ngờ lại là lúc Ngài la cà thân
thiện với con người hơn cả bao giờ. Thiên Chúa đã gần gũi với đời người, cho
con người trở nên phần đời của Thiên Chúa. Chính khi đời người xem ra trống
vắng nhất, Đức Kitô vẫn hiện diện đồng hành chia sẻ, để rồi khi con người biết
chia sẻ cuộc sống cho nhau thì Ngài vẫn có đó trong sức mạnh đồng hành.
2) ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT BẰNG NHỮNG LỜI CỦNG
CỐ TIN YÊU
Tâm trạng của các môn đệ hôm nay trong Phúc
Am cũng vẫn là thất vọng ê chề. Sau lưng họ là Giêrusalem đen tối, trước mặt họ
là những nơi xa cũng chẳng sáng sủa gì. Quá khứ vừa mới khép lại, tương lai
chưa kịp mở ra. Chới với, chao nghiêng. Nhưng chính lúc ấy, Đấng Phục sinh có
mặt, bằng lời Thánh Kinh sống động và hóa giải, Ngài thanh luyện các môn đệ
khỏi những tình cảnh thất vọng sợ sệt và đặt họ vào một đà sống mới.
Lời Chúa chính là lời hiện diện của Đấng Phục
sinh. Nhưng tất cả còn tùy thuộc vào cách đón nhận của ta. Sẽ không có mặt của
Đấng Phục sinh nếu ta chỉ coi lời Chúa như vật phẩm điểm trang, dẫu có kính cẩn
ghi chép, trân trọng giữ gìn, đeo chặt trên trán như thói quen của mấy ông biệt
phái. Sẽ không có mặt của Đấng Phục sinh nếu ta chỉ xem lời Chúa như thứ lá
chắn bung xung cho một mưu đồ, nghĩa là coi lời Chúa như phương tiện để tô vẽ
lên mưu lợi riêng tư. Nhưng sẽ là một hiện diện thường xuyên ở bất cứ đâu cho
bất cứ ai, nếu lời Chúa được thực thi chân thành trong đời sống.
Hai môn đệ đi làng Emmaus đã thấy ấm lòng khi
nghe lời Chúa. Các môn đệ ở lại Giêrusalem trong Phúc Am hôm nay cũng thấy phấn
khởi khi được Chúa soi sáng củng cố và đặt vào tin yêu hy vọng của đời chứng
nhân. Nếu mỗi tín hữu hiểu và sống lời Kinh Thánh, họ cũng sẽ cảm nhận được sự
hiện diện của Đấng Phục sinh như những ý lực trong ngày sống, như một sức mạnh
để vươn lên, cho dẫu sống chứng nhân cũng là sống với Đức Kitô trên đường
thương khó.
3) ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT GIỮA NHỮNG TẤM BÁNH
BẺ RA CHO ĐỜI
Nếu có phút giây nào để lại ấn tượng mạnh nhất trong bài Phúc Âm,
đó phải là lúc Chúa Giêsu hỏi các môn đệ xem có gì ăn không, rồi Ngài lại tự
nhiên ăn cá và mật ong trước bao cặp mắt sững sờ của họ. Ngài hỏi thức ăn không
phải vì Ngài đói và Ngài ăn không phải vì cơ thể Ngài cần. Đấng Phục sinh mà
không một định luật vật lý nào có thể ngăn cản được như trong việc Ngài thoắt
hiện thoắt đi đâu cần phải có thực phẩm nhân gian để mà tồn tại. Đấng Phục sinh
có mặt giữa con người không giống như kẻ hồi sinh sau tai nạn để cần phải bổ
dưỡng bù trừ theo kiểu “ăn giả bữa”. Nhưng, nếu qua việc Chúa Giêsu bẻ bánh,
hai môn đệ đi làng Emmaus đã nhận ra Thầy mình, thì qua việc ăn uống này Đấng
Phục sinh đã củng cố lòng tin vốn đang chao đảo hoang mang của họ.
Đấng Phục sinh ăn trước mặt các môn đệ. Đó là một khoảnh khắc đầy
ấn tượng, nhưng đã làm nên lý chứng phục sinh và ý nghĩa cuộc đời, bởi có Ngài
hiện diện, nên thôi hết buồn sầu để mở ra một lối sống mới trong niềm vui. Thảo
nào các môn đệ hôm đó đã nhận lệnh lên đường làm chứng về những gì các ông đã
thấy đã hiểu đã tin.
Nếu có lần nào ta chiêm ngắm Chúa Kitô như tấm bánh bẻ ra để xây
dựng một thế giới mới, thì có lẽ một cách vô thức ta đã quy chiếu vào khoảnh
khắc bất ngờ này. Và nếu đúng như thế thì qua việc rước Mình và Máu Đức Kitô
hôm nay, ta cũng được mời gọi để trở nên những tấm bánh, những mẩu cá, những
tảng mật ong sống động biết chia sẻ nâng đỡ, vun đắp chung xây cuộc sống tốt
lành tại địa bàn dân cư nơi mình sinh sống.
Ba cách hiện diện nghe như quen mà vẫn cứ lạ, nghe như gần gũi mà
vẫn cứ rời xa. Cảm tưởng quen quen lạ lạ gần gần xa xa ấy có là vì Đức Kitô
Phục sinh có mặt, nhưng không hữu hình như xưa để dễ dàng mắt thấy tai nghe
nữa, mà đã hiện diện vô hình chỉ gặp được bằng tin yêu hy vọng. Và thường thì
vì ta quá vô tình không nhận ra Ngài trong những khuôn mặt cuộc đời, tình huống
của ta và của những người quanh ta. Nhưng hiện diện của Đấng Phục sinh không
phải là một hiện diện thụ động chỉ để ta tìm gặp, mà còn là một hiện diện chủ
động khi ta biết tích cực đồng hành chia sẻ, cũng như gieo lời Chúa vào môi
trường sống, rồi từng ngày nỗ lực âm thầm trở nên những tấm bánh “ăn được” cho
người lân cận.
Qua thánh lễ này, ta được đồng hành bên nhau, được chia sẻ lời
Chúa và được rước lấy Thánh Thể. Xin cho đời ta được đổi mới nơi địa chỉ Emmaus
tinh thần này, để tới phiên ta cũng sẽ trở thành địa chỉ tinh thần mới cho cuộc
sống hôm nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét