CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XII Thường Niên năm B nêu bật quyền chủ tể của Thiên Chúa trên các yếu tố thiên nhiên, nhất là trên phong ba bảo tố, biểu tượng các thế lực sự Dữ.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XII Thường Niên năm B nêu bật quyền chủ tể của Thiên Chúa trên các yếu tố thiên nhiên, nhất là trên phong ba bảo tố, biểu tượng các thế lực sự Dữ.
G 38: 1, 8-11
Trong Bài Đọc I, trích từ sách Gióp, Thiên Chúa trả lời những chất vấn của ông Gióp về những khốn khổ mà ông phải chịu bằng cách giúp cho ông hiểu quyền năng của Ngài. Chính Ngài đã dựng nên biển cả, một sức mạnh hung dữ của thiên nhiên, và cũng chỉ mình Ngài mới chế ngự được phong ba bảo tố cuồng dại.
2Cr 5: 14-17
Trong đoạn trích Thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô tiếp tục biện hộ sứ vụ tông đồ của mình.
Mc 4: 35-41
Tin Mừng tường thuật Đức Giê-su dẹp yên phong ba bảo tố trên Biển Hồ để con thuyền của các môn đệ Ngài đến bến bờ bình an.
BÀI ĐỌC I (G 38: 1, 8-11)
Đoạn trích sách Gióp nầy có thể được xem như lời dẫn nhập cho câu chuyện Tin Mừng tường thuật việc Đức Giê-su dẹp yên phong ba bão tố trên biển hồ Ghê-nê-sa-rét: Đức Giê-su sở hữu cùng một quyền năng thần linh như Đức Chúa. Khi sáng tạo thế giới, Đức Chúa đã ấn định những giới hạn cho biển cả bằng “lời quyền năng” của Ngài: “Thiên Chúa phán” (St 1: 6-10). Không phải Ngôi Lời đã dự phần vào công trình sáng tạo sao?
Theo thể thi ca đối thoại, tác giả sách Gióp phác họa chân dung ông Gióp, một người công chính phải hứng chịu nhiều nỗi bất hạnh. Ông than thân trách phận với bốn người bạn thân. Những người bạn nầy một mực trung thành với lời giải thích truyền thống: ác giả ác báo, sự đau khổ của một ai đó cho thấy kẻ ấy đã phạm tội; hay nếu người đó được xem là công chính mà phải chịu đau khổ, chính vì Thiên Chúa muốn ngăn ngừa người ấy khỏi sa vào tính tự cao tự đại.
Lúc đó, Gióp nỗi trận lôi đình; ông kêu gào mình vô tội và xin Thiên Chúa chứng giám sự vô tội của ông. Thiên Chúa trả lời cho ông trong cơn phong ba bảo tố, như khi xưa Thiên Chúa đã ngỏ lời với ông Mô-sê trên núi Xi-nai. Đây là câu trả lời uy nghi của Đấng sáng tạo vũ trụ. Đức Chúa mô tả công việc của Ngài như nhà kiến thiết tự hào về công trình sáng tạo của mình: Ngài công bố quyền tối thượng của Ngài trên toàn cõi thế, trên biển cả (đây là đoạn văn được trích dẫn hôm nay), trên ánh sáng và bóng tối, trên gió bảo và mây trời, trên muôn loài muôn vật…
Đây đích thực là bài thánh thi ca ngợi công trình sáng tạo. Bài thơ nầy là một trong những lý do khiến nghĩ rằng công trình biên soạn sách Gióp được định vị vào thời lưu đày Ba-by-lon.
1.Khung cảnh lịch sử:
Quả thật, hằng năm, ở Ba-by-lon vào lễ Tân Niên, người ta ngâm thiên hùng ca về cuộc sáng tạo để tôn vinh cuộc chiến thắng khải hoàn của thần Mác-đút trên thủy thần Ti-a-mát. Như để đáp trả sự tán dương của một vị thần dân ngoại và các nghi lễ hằng năm nầy trong bối cảnh đa thần, những người Do thái lưu đày sáng tác những bài ca và những bài thơ chúc tụng Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, Ngài là Thiên Chúa duy nhất và siêu việt, chỉ mình Ngài thật sự sáng tạo vũ trụ và an bài mọi sự.
Chuyện tích về công trình sáng tạo trong sáu ngày ở đầu bộ Kinh Thánh làm chứng điều nầy. Đoạn trích sách Gióp từ chương 38 nầy cũng làm chứng như vậy. Những ám chỉ hay những vay mượn ở bản văn Ba-by-lon thật rõ ràng.
Bài thơ Ba-by-lon kể như thế nầy: sau khi đã chiến thắng thủy thần Ti-a-mát, hiện thân vị thần của vực thẳm nước nguyên thủy, thần Mác-đút liền phân đôi tử thi của vị ác thần nầy. Với phân nữa tử thi nầy, thần Mác-đoút bao phủ bầu trời…Thần đóng cửa vực thẳm và đặt ngay tại chỗ những người canh cửa, rồi thần truyền lệnh cho họ không được để nước phun trào ra ngoài. Những cách diễn tả tương tự với những hình tượng của bản văn Ba-by-lon được gặp lại trong vài Thánh Vịnh, như Tv 89: 10-11:
“Chính Ngài (Đức Chúa) chế ngự trùng dương ngạo nghễ,
dẹp yên bao sóng cả sóng cồn.
Chính Ngài giày xéo thủy thần Ra-háp, như giày xéo tử thi,
tay mạnh mẽ đập tan quân thù”.
Hay Thánh Vịnh 74: 12-13:
“Thế mà lạy Chúa, Vua chúng con từ muôn thuở,
Đấng từng chiến thắng trên mặt địa cầu,
chính Ngài đã ra oai sẻ đôi lòng biển, trên làn nước biếc,
Ngài đập vỡ sọ thuồng luồng”.
2.Quyền năng của Thiên Chúa:
Trong sách Gióp, việc Thiên Chúa nhắc nhớ quyền năng của Ngài được diễn tả bằng những từ ngữ cao vời. Tác giả hướng phần cuối tác phẩm mình về mầu nhiệm Thiên Chúa. Đức Chúa dạy cho ông Gióp một bài học: ai có thể tự cho mình vô tội? Ai có thể khoác lác khi đòi chất vấn Thiên Chúa và tính sổ với Ngài? Thiên Chúa không phải phân minh với bất cứ ai; Ngài siêu vượt trên muôn loài muôn vật.
BÀI ĐỌC II ( 2Cr 5: 14-17)
Trong đoạn trích thư nầy, thánh Phao-lô biện hộ sứ vụ tông đồ của mình. Sau khi đã nêu lên những gian truân và những niềm hy vọng của sứ vụ tông đồ, thánh Phao-lô vén mở cho thấy ngọn lửa nào đã hun đúc lòng nhiệt thành truyền giáo của thánh nhân, đó chính là tình yêu của Đức Ki tô.
Kiểu nói “Tình yêu của Đức Ki tô” mặc lấy hai nghĩa, vừa diễn tả tình yêu của thánh Phao-lô đối với Đức Ki-tô, vừa diễn tả tình yêu của Đức Ki-tô đối với nhân loại. Chính nghĩa thứ hai nầy: tình yêu của Đức Ki tô đối với nhân loại đã nung nấu lòng nhiệt thành truyền giáo của thánh nhân.
1. “Nếu một người đã chết cho mọi người”:
Khi nghĩ đến hy tế của Đức Ki-tô đã đem lại ơn cứu độ cho muôn người, thánh Phao-lô đã xúc động một cách sâu xa. Niềm cảm mến nầy dâng lên từ cuộc tử nạn của Đức Ki-tô. Cuộc tử nạn của Ngài không thể nào khơi dậy những hình ảnh hung bạo được. Sự kiện các thánh ký mô tả chừng mực cuộc tử nạn của Chúa Giê-su đã duy trì tính khách quan của các bài trình thuật đầy cảm xúc bao nhiêu, thì các bức thư với cung giọng cá nhân, như những bức thư của thánh Phao-lô, đã khơi dậy biết bao tâm tư tình cảm dạt dào.
Tuy nhiên, tâm tư tình cảm của thánh Phao-lô sống động một cách đặc biệt khi thánh nhân gợi lên sự liên đới của Đức Giê-su đau khổ với nhân loại tội lỗi. Ơn cứu độ không được đem đến cho một mình dân Ít-ra-en, nhưng cho toàn thể nhân loại. Tâm hồn Do thái của thánh Phao-lô xúc động sâu xa về điều nầy. Thánh nhân sẽ khai triển sâu xa khía cạnh đạo lý về mặc khải nầy trong thư gởi các tín hữu Rô-ma.
2. “Mọi người đều chết”:
Tư tưởng rất ngắn gọn; từ ngữ rất giản dị chắc chắn âm vang giáo huấn của thánh nhân. Để hiểu đoạn trích nầy, tốt nhất nên quy chiếu đến chương 6 thư gởi các tín hữu Rô-ma.
“Mọi người đều chết”, nghĩa là, chết đối với tội. Chính “con người xưa cũ” của chúng ta đã bị đóng đinh với Đức Ki-tô. Chính vì chết đối với tội nầy mà việc dìm mình vào trong nước thánh tẩy là dấu chỉ: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6: 8) và “Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ” (Rm 6: 10).
3. “Để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”:
Đây là suy tư khái quát, nhưng đặc biệt nhắm đến các tín hữu Cô-rin-tô và những chia rẽ của họ, vì thánh nhân đặt trọng tâm phần trình bày nầy chung quanh khía cạnh sứ vụ hòa giải. Sống trong Đức Ki-tô, chính là không còn nhìn tha nhân “theo quan điểm của loài người”, nhưng “theo quan điểm của Thiên Chúa”.
4. “Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Ki-tô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa”:
Phải chăng lời phát biểu nầy muốn nói rằng trước kia thánh Phao-lô đã biết Đức Giê-su trần thế, hay ít ra đã thấy Ngài và đã nghe Ngài nói; tuy nhiên, vào lúc đó, thánh nhân thuộc về số người không tin vào sứ điệp của Ngài? Đoạn văn nầy đã gây nên biết bao lời giải thích, nhưng dấu hiệu quá nhỏ nên người ta không thể rút ra một câu kết luận như vậy. Đúng hơn, phải chăng thánh nhân ám chỉ đến thời thánh nhân đã là kẻ bách hại, thời thánh nhân đã khảo sát Đức Ki-tô “theo quan điểm loài người”? Lời giải thích nầy cũng không chắc.
Người ta cũng không loại trừ quan điểm bút chiến; đó có thể là chìa khóa của bản văn nầy. Thánh Phao-lô đã viết không bao lâu sau cái chết của Đức Giê-su. Trong đám thính giả của thánh nhân và trong số những người nhận thư của thánh nhân, thánh nhân là một trong số họ đã biết Đức Ki-tô. Vài người trong số họ kiêu hãnh vì mình thuộc “nguồn gốc Do thái”; thậm chí họ còn dựa trên sự kiện Đức Giê-su đã thực hành luật Do thái để áp đặt luật nầy trên những Ki-tô hữu gốc lương dân. Dường như trong số những đối thủ của thánh nhân ở Cô-rin-tô có những người Ki-tô hữu gốc Do thái thuộc loại nầy. Họ đã đưa ra những lập luận dựa trên một quan niệm về Đức Ki tô “theo xác thịt” để đòi hỏi áp dụng những yêu sách của họ.
Thánh Phao-lô công bố rằng quan niệm nầy đã lỗi thời. Chính không còn ở nơi cuộc sống “theo xác thịt” nhưng ở nơi cuộc sống “theo Thần Khí” mà người Ki tô hữu được mời gọi dự phần vào: họ đã trở thành “một thụ tạo mới”. “Cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi”. Thánh Phao-lô hướng tầm nhìn về tương lai. Không có gì có thể kiềm chế niềm hưng phấn lao về phía trước của thánh nhân, về Đức Ki-tô quang vinh… Thánh nhân nói với các tín hữu Ê-phê-xô khi dùng động từ ở thì hiện tại: “Người cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời rồi” (Ep 2: 6); ấy vậy“Cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki tô” là chuyện tương lai (Rm 6: 3-11), tuy nhiên qua việc hiệp thông với Đức Ki tô, ngay từ bây giờ chúng ta thật sự đã được cùng sống lại và cùng ngự trị với Ngài trên cõi trời rồi.
TIN MỪNG (Mc 4: 35-41)
Đây là một trong những bài trình thuật sống động nhất và ý vị nhất của Tin Mừng Mác-cô. Thánh ký cho thấy mình là một người kể chuyện bậc thầy. Hai bài tường thuật đối chiếu của Mt 8: 23-27 và Lc 8: 22-26 không cung cấp những chi tiết chính xác đến như vậy, chẳng hạn như “Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào gối mà ngủ”, và không thuật lại với giọng điệu rất thân quen đến như vậy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”.
1.Bối cảnh:
Chúa Giê-su đã giảng dạy đám đông suốt ngày. Giờ đây, Ngài muốn được ở riêng một mình xa khỏi đám đông để có thể nghỉ ngơi đôi chút. Vì thế, Ngài yêu cầu các môn đệ đưa Ngài sang bờ bên kia. Các môn đệ vâng lệnh ngay lập tức đưa con thuyền ra khơi đang khi Ngài “đang ở trên thuyền”, nghĩa là trên cùng một chiếc thuyền Ngài đã vừa mới ngỏ lời với dân chúng hiện đang ở trên bờ, như đã được chỉ rõ ở Mc 4: 1-2: “Đức Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ. Một đám người rất đông tụ họp chung quanh Người nên Người phải xuống thuyền mà ngồi dưới biển, còn toàn thể đám đông thì ở trên bờ. Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều”.
Trong khi giảng dạy cho dân chúng bằng dụ ngôn, Đức Giê-su đã gợi lên rằng Nước Trời đến một cách quyền năng. Giờ đây, Ngài sắp minh chứng cho họ bằng hành động. Đối với các đối thủ của Ngài, những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Ngài đã luôn luôn từ chối yêu sách của họ là thực hiện một dấu chỉ ngoạn mục để cho thấy uy quyền Thiên Sai của Ngài. Riêng đối với các môn đệ của Ngài, Ngài sẽ ban cho họ dấu chỉ nầy.
2.Con thuyền trong phong ba bảo tố:
Những trận phong ba bảo tố trên Biển Hồ thường bất ngờ xảy đến. Chúng do từ cuộc gặp gỡ giữa ngọn gió tây thổi từ Địa Trung Hải và gió sa mạc lạnh giá bất ngờ nổi lên vào lúc đêm xuống.
Trạng thái bình an thanh thản của Đức Giê-su tương phản với trận cuồng phong dữ dội. Kiệt sức sau một ngày giảng dạy, Đức Giê-su “dựa đầu vào gối mà ngủ”. Gối nầy dành riêng cho người lái thuyền luôn luôn ở đằng lái. Dường như người lái thuyền nhường chỗ đằng lái cho Ngài để Ngài ngủ cho lại sức. Đức Giê-su mệt mõi: Ngài thật sự là một con người, nhưng Ngài sẽ cho thấy Ngài còn hơn cả một con người. Cũng như, sau một dặm đường dài vừa mệt mõi vừa khát, Ngài đã tựa mình vào thành giếng Gia-cóp ở Xy-kha để nghỉ lại sức và xin người phụ nữ Sa-ma-ri một chút nước để giải khát (Ga 4: 6). Ngài đã chọn thời điểm nầy để mặc khải cho chị và dân tộc chị Ngài là Đấng Mê-si-a. Sự đối lập giữa sự yếu đuối thể lý và sức mạnh thần thiêng ở nơi câu chuyện của Mác-cô cũng mặc khải mầu nhiệm con người của Ngài: Ngài là chủ tể của mọi yếu tố thiên nhiên.
Trong cảnh đêm tối với sóng to gió lớn, các môn đệ sợ hãi đánh thức Ngài. Họ hoảng loạn đến cực độ và tiếng kêu cứu của họ hòa lẫn vừa niềm tin tưởng lẫn lời trách cứ: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”.
3.Mầu nhiệm của Đức Giê-su.
Đức Giê-su truyền lệnh cho biển như một thế lực sự dữ được nhân cách hóa. Với cùng những lời như vậy, Ngài đã buộc quyền lực của quỷ ở trong người bị quỷ ám phải câm miệng và ra khỏi người ấy. Đức Giê-su là Đấng làm cho quyền lực của sự dữ phải thất bại. Những yếu tố thiên nhiên đang điên cuồng gào thét là một biểu tượng.
Sau khi dẹp yên phong ba bảo tố, Đức Giê-su quở trách các môn đệ vì họ thiếu niềm tin vào Ngài. Chỉ mới trước đây thôi, thánh Mác-cô nói với chúng ta, Ngài đã giảng giải cho họ một cách đặc biệt (4: 33-34). Sự quan tâm đặc biệt của Ngài đối với họ đã không có một mảy mai tác dụng sao?
Tất cả câu chuyện được xây dựng trên sự căng thẳng liên tục để rồi đạt đến cao điểm ở nơi sự sợ hãi của các môn đệ về mầu nhiệm của Ngài. Nhưng ở đây, sự sợ hãi của các môn đệ thay đổi bản chất và đối tượng. Nỗi sợ hãi linh thánh xâm chiếm lấy họ: “Ông nầy là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”.
4.Ý nghĩa thần học:
Biến cố nầy không đơn thuần chỉ là một phép lạ nhưng còn là một biểu tượng về định mệnh của Đức Giê-su. Khi lôi kéo các môn đệ cùng với Ngài trên một con thuyền vào đêm khuya trong phong ba bảo tố, đó không là một sự tình cờ. Cả cuộc đời Ngài là một cuộc chiến đấu không ngừng chống lại sức mạnh của sự Dữ. Việc Ngài thanh thản nằm ngủ trong phong ba bảo tố hàm chứa nhiều ý nghĩa. Trong Kinh Thánh giấc ngủ là biểu tượng của cái chết. Như vậy, việc Chúa Giê-su bình yên nằm ngủ trong phong ba bảo tố ám chỉ cuộc Tử Nạn của Ngài, cuộc Tử Nạn khiến các môn đệ kinh hoàng vì thiếu niềm tin. Sau giấc ngủ, Đức Giê-su chỗi dậy như một vị Thiên Chúa đầy quyền năng chiến thắng trên quyền lực của sự Dữ và Tử Thần. Trước quyền năng nầy, các môn đệ thắc mắc và nêu lên câu hỏi quan trọng nầy: “Ông nầy là ai mà cả đến gió biển phải tuân lệnh?” Bởi vì trong Kinh Thánh, chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền chế ngự sóng nước của Tử Thần (Tv 107: 23-30).
Khi thuật lại câu chuyện nầy, thánh Mác-cô nhắm đến hai mục đích. Trước hết, Đức Giê-su thật sự là một con người, nhưng cũng thật sự là Thiên Chúa. Nói theo viễn cảnh của cuộc Tử Nạn và Phục Sinh: Đức Giê-su thật sự chết như một con người và thật sự sống lại như một vị Thiên Chúa. Thứ nữa, các tín hữu Rô-ma đang bị bách hại dữ dội. Trong cơn bách hại dữ dội nầy, dường như Đức Giê-su đang ngủ. Việc Ngài xem ra vắng mặt trong khi họ phải đương đầu với biết bao nỗi truân chuyên, khiến họ nghi nan ngờ vực. Chúa sẽ làm gì để cứu họ khỏi cái chết đang cầm chắc nầy? Câu chuyện nầy là câu trả lời của thánh Mác-cô gởi đến họ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét