GIÁNG SINH- LỄ NGÀY

Lm.Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa lễ Ngày Giáng Sinh tiếp tục mời gọi chúng ta suy gẫm sâu xa biến cố Nhập Thể: Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thân làm người để cứu độ chúng ta.

Is 52: 7-10

Bản văn của ngôn sứ I-sai-a thời lưu đày trổi lên khúc hoan ca, vì Thiên Chúa sắp ra tay cứu độ dân Ngài khỏi cảnh tù đày ở Ba-by-lon.

Dt 1: 1-6

Đây là lời tựa của thư gởi tín hữu Do thái; lời tựa này tán dương những danh hiệu cao trọng khôn sánh của Thánh Tử, Ngôi Lời nhập thể.

Ga 1: 1-18

Bản văn này là Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan; Tựa Ngôn này cho chúng ta những tư tưởng thần học thâm sâu về mầu nhiệm Nhập Thể.

BÀI ĐỌC I (Is 52: 7-10)

Bài Đọc I đưa chúng ta trở về những năm 550-539 trước Công Nguyên, thời kỳ dân Do thái bị lưu đày tại Ba-by-lon khi đó có một ngôn sứ thi hành sứ mạng của mình bên cạnh những người lưu đày để an ủi họ: ông hứa với họ Thiên Chúa sắp ra tay giải thoát họ.

Bài Đọc I gồm có hai khúc hoan ca: khúc hoan ca thứ nhất (52: 7-8) và khúc hoan ca thứ hai (52: 9-10).

1.Khúc hoan ca thứ nhất (52: 7-8):

Khúc hoan ca thứ nhất này được mô tả bằng những hình ảnh thật hoa mỹ. Vị ngôn sứ khai mở cho những người lưu đày tại Ba-by-lon một viễn cảnh tương lai đẹp như trong mơ, trong đó một vị tiền hô từ trên núi đồi loan “tin vui, tin mừng” cho con cái thành Giê-ru-sa-lem biết là đoàn người lưu đày sắp hồi hương trở về thánh địa. Đây là Tin Mừng về ơn cứu độ và bình an, Tin Mừng về triều đại Thiên Chúa: “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị”.

 “Đẹp thay trên đồi núi

bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an,

người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ

và nói với Xi-on rằng: ‘Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị’” (52: 7).

Từ trên tường thành, những người canh gác reo hò mừng vui vì thấy tận mắt đoàn rước mà từ lâu họ dõi mắt trông chờ: Đức Chúa dẫn đầu đoàn người được giải phóng trở về Xi-on, thành đô của Ngài:

“Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi

cùng cất tiếng reo hò vang dậy;

họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Xi-on” (52: 8).

Ngôn sứ I-sai-a thời lưu đày mô tả đoàn người lưu đày hồi hương trở về quê cha đất tổ như một cuộc xuất hành mới, chính Đức Chúa dẫn dắt dân Ngài qua hoang địa (từ Ba-by-lon đến Giê-ru-sa-lem, phải băng qua sa mạc Sy-ri).

Đối với thành thánh, vương quyền của Đức Chúa đã có thể khiến người ta sinh lòng ngờ vực do những năm tháng chịu trăm chiều thử thách và nhục nhã. Nhưng khi Đức Chúa sắp ra cánh tay hùng mạnh giải thoát dân Ngài ra khỏi cảnh giam cầm ở Ba-by-lon, Ngài cho thấy Ngài luôn luôn là Đấng toàn năng và là Vua dân Ít-ra-en.

Trong khúc hoan ca này, chúng ta lưu ý rằng vị ngôn sứ không tìm cách an ủi những người lưu đày bằng cách gợi lên việc phục hưng vương triều Đa-vít, nhưng ông trung thành với lý tưởng xưa kia của dân Chúa chọn: chỉ duy một mình Thiên Chúa là Vua của dân Ngài. Vị ngôn sứ chỉ nghĩ đến “triều đại Thiên Chúa”.

2.Khúc hoan ca thứ hai (52: 9-10):

Khúc hoan ca thứ hai ca ngợi thành thánh Giê-ru-sa-lem, được mô tả bằng những hình ảnh hoa mỹ không kém. Thành thánh Giê-ru-sa-lem điêu tàn hoang phế được mời gội đồng thanh bật tiếng reo vui. Thành thánh tang thương được Thiên Chúa an ủi; nó được “cứu chuộc”, nghĩa là phục hồi sự tự do của mình:

“Hỡi Giê-ru-sa-lem điêu tàn hoang phế,

hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng,

vì Đức Chúa an ủi dân Người, và cứu chuộc Giê-ru-sa-lem” (52: 9).

Muôn dân cứ tưởng rằng Thiên Chúa của dân Ít-ra-en bất lực vì Ngài đã để dân Ngài phải bị lưu đày, khốn khổ, lưu lạc khắp nơi. Ấy vậy, chính mắt muôn dân sắp phải thú nhận rằng họ đã lầm. Đức Chúa sắp ra tay hành động bằng quyền năng của Ngài để cứu thoát dân Ngài:

“Trước mắt muôn dân,

Đức Chúa đã vung cánh tay thần thánh của Người:

ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta,

người bốn bể rồi nhìn thấy” (52: 10). 

Đó là “Tin Mừng” mà vị ngôn sứ thời lưu đày vang lên bên tai của những người lưu đày ở Ba-by-lon. Tin Mừng đầu tiên này báo trước một Tin Mừng khác: Thiên Chúa đích thân mang ơn cứu độ đến cho dân Ngài, giải phóng họ khỏi cảnh sống tù đày của tội lỗi mà cảnh giam cầm ở Ba-by-lon chỉ là một hình bóng mờ nhạt. Ngài sẽ thiết lập triều đại của Ngài, cho đến cùng trời cuối đất.

BÀI ĐỌC II (Dt 1: 1-6)

Bản văn này là lời mào đầu của thư gởi tín hữu Do thái, trình bày tư tưởng rất thân cận với tư tưởng của Tin Mừng Gioan: cả hai đều tán dương quyền tối thượng khôn sánh của Thánh Tử, Ngôi Lời nhập thể. Vì thế, phụng vụ đề nghị cả hai vào ngày đại lễ Giáng Sinh này.

1.Chủ đề trung tâm của thư gởi tín hữu Do thái:

Thư gởi tín hữu Do thái gần với văn phong giảng huấn hơn là thể loại thư tín. Quả thật, chúng ta không biết cả người viết (chắc chắn một môn đệ của thánh Phao-lô) lẫn người nhận. Việc nêu tên “tín hữu Do thái” không tự nguồn gốc, chỉ được thêm vào sau này, vào thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên, để chỉ những Ki-tô hữu gốc Do thái. Thư này được đặt vào bối cảnh giữa những năm 62 và 70.

Chủ đề trung tâm là “Chức Tư Tế” của Chúa Ki-tô. Khi cho Chúa Ki-tô tước hiệu “Thượng Tế Giao Ước Mới”, ông muốn chứng tỏ chức tư tế Tân Ước trổi vượt hơn biết mấy so với chức tư tế Cựu Ước. Để dẫn vào chủ đề này, một lời mào đầu, được viết rất hoa mỹ và rất điêu luyện, liệt kê những danh hiệu cao trọng khôn sánh của Con Thiên Chúa.

2.Kiện toàn Mặc Khải:

Các ngôn sứ (được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các tổ phụ và ông Mô-sê, vân vân) đã chỉ đón nhận những ánh sáng từng phần về mầu nhiệm Thiên Chúa và những dự định của Thiên Chúa. Thánh Tử đến để kiện toàn Mặc Khải (chúng ta nghĩ đến dụ ngôn về những tá điền sát nhân: ông chủ vườn nho liên tục sai phái những đầy tớ, sau cùng đứa con trai duy nhất của mình). Tin Mừng Gioan trong Tựa Ngôn cũng gợi lên nhịp độ tăng dần Mặc Khải này:

“Từ nguồn sung mãn của Người,

tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn kia.

Lề Luật được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,

còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có” (Ga 1: 16-17).

Phải nhấn mạnh rằng trong thư gởi tín hữu Do thái, danh hiệu “Thánh Tử” không có mạo từ. Danh hiệu “Thánh Tử” của Đức Giê-su được diễn tả một cách tuyệt đối, không có bất kỳ ai khác; điều mà Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan sẽ diễn tả khi nói: “Con Một tràn đầy ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14).

3.Quyền tối thượng trên muôn loài muôn vật:

Thánh Tử vừa là Đấng thừa tự vừa Đấng Tạo Hóa: Ngài là Đấng thừa tự với tư cách con người và Ngài là Đấng Tạo Hóa với tư cách Thiên Chúa.

“Thiên Chúa đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài”. Địa vị làm con bao gồm quyền thừa tự, nhưng quyền thừa tự được diễn đạt cách tinh tế theo truyền thống Kinh Thánh là phúc lộc của Thiên Chúa; hai ý tưởng được hội tụ ở đây. Xuống dưới một chút, tác giả viết: “Khi bắt muôn loài muôn sự phải phục quyền con người, Thiên Chúa không để cho một sự gì không phục quyền con người” (2: 8).

Quyền tối thượng trên muôn loài muôn vật này, chính là vương quyền của Đấng Mê-si-a, vương quyền mà xưa kia đã hứa cho dòng dõi của ông Áp-ra-ham (thừa tự và lời hứa là hai từ bất khả phân ly trong Cựu Ước), tức là quyền tối thượng được định đoạt trong công trình cứu độ loài người. Thánh Phao-lô cũng diễn tả một cách như vậy trong thư gởi cho các tín hữu Ga-lát: “Thế mà những lời hứa đã được ban cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông, Kinh Thánh không nói: và cho những dòng dõi, như thể nói về nhiều, mà chỉ nói một: và cho dòng dõi người là Đức Ki-tô” (Gl 3: 16).

4.Ngài là Đấng Tạo Hóa:

“Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ”. Tin Mừng Gioan cũng sẽ nói như vậy trong Tựa Ngôn: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành” (Ga 1: 3). Ở đây, từ “vũ trụ” có ngữ nghĩa rất rộng để chỉ muôn loài muôn vật sống ở trong vũ trụ này từ những thế hệ này đến những thế hệ khác.

5.Vẻ vinh quang và hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa:

“Người là phản ảnh vẻ vinh quang”. Để diễn đạt mối thâm giao của Cha với Con và căn tính Thần Linh của Cha và Con, tác giả thư gởi tín hữu Do thái sử dụng cùng những hình ảnh như tác giả của sách Khôn Ngoan khi diễn tả sự mật thiết khôn sánh giữa Đức Khôn Ngoan và Thiên Chúa:

“Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu,

là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa,

là hình ảnh lòng nhân hậu của Người” (Kn 7: 26).

Nếu từ “vinh quang” thường xuất hiện trong Cựu Ước, thì cách diễn tả: “phản ảnh vẻ vinh quang” chỉ được gặp thấy trong đoạn văn của sách Khôn Ngoan này. Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan viết:

“Ngôi lời là ánh sáng thật,

ánh sáng đến thế gian

và chiếu soi mọi người” (Ga 1: 9)

“Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,

vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,

là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14)

Đây là cách thức mà Công Đồng Ni-xê-a sẽ diễn tả Đức Giê-su Ki-tô là “ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành”.

Khi nói rằng Thánh Tử “là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa”, tác giả thư gởi tín hữu Do thái diễn tả Thánh Tử đồng bản thể với Chúa Cha, điều mà Công Đồng Ni-xê-a cũng sẽ khẳng định.

6.Bảo tồn vạn vật:

“Người là Đấng đã dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật”. Ý tưởng này cũng được thánh Phao-lô diễn tả trong bài thánh thi của mình tán dương Đức Ki-tô: “Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1: 17).

7.Đấng Cứu Độ duy nhất của loài người:

Trong bản tóm tắt thần học này, tác giả loan báo một cách ngắn gọn một chủ đề căn bản của thư: hy tế của Đức Ki-tô cao vời trên mọi hy tế không ngừng được tái diễn của Cựu Ước, vì hy tế của Đức Ki tô đã vĩnh viễn tẩy trừ tội lỗi của con người. Như ở gần cuối thư, tác giả viết: “Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc viễn cho chúng ta” (9: 12).

Sau khi đã tự hạ và chịu nhiều đau khổ, Thánh Tử được tôn vinh ngự bên hữu Chúa Cha trên các thiên thần.

8.Thánh Tử cao trọng trên các thiên thần:

 Những suy luận về các thiên thần đã được phát triển đáng kể vào những thế kỷ trước thời Đức Ki-tô, sau các sách khải huyền. Người ta có khuynh hướng gán cho các thiên thần một vai trò quan trọng trong việc tổ chức thế giới hữu hình cũng như thế giới vô hình. Người ta thấy ở nơi các ngài không chỉ những người canh giữ Lề Luật Mô-sê, nhưng còn những thiên linh có thể đem đến ơn cứu độ như các bản văn của cộng đoàn Qumran cho thấy.

Thánh Phao-lô nhiều lần lên tiếng chống lại những suy luận như vậy. Cũng thế, tác giả thư gởi tín hữu Do thái công bố quyền tối thượng của Đức Ki-tô trên các thiên thần: “Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu”, tức là danh Thiên Chúa, như lời nhắc nhở của thánh Phao-lô cho các tín hữu Phi-líp-phê: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2: 9).

Để chứng minh quyền tối thượng này của Đức Ki-tô, tác giả thư gởi tín hữu Do thái áp dụng những bản văn liên quan đến việc phong vương thời xưa vào việc Thánh Tử được phong vương ngự bên hữu Đấng Tối Cao trên trời. Câu trích dẫn đầu tiên từ Thánh Vịnh 2: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2: 7). Câu trích dẫn thứ hai được mượn ở sách Sa-mu-en quyển thứ hai: Thiên Chúa hứa với vua Đa-vít là Ngài ban cho vua một hoàng nam kế vị ngai báu của vua: “Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con” (2Sm 7: 14). 

TIN MỪNG (Ga 1: 1-18)

Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan là một bài thánh thi được viết theo thể văn vần khác biệt với phần còn lại của sách Tin Mừng được viết theo thể văn xuôi. Ngôn từ đơn giản, những từ chủ chốt được láy đi láy lại tạo thành nhịp điệu của bài thơ như những đợt sóng đuổi nhau càng lúc càng dâng cao cho đến khi hình thành nên con sóng cả vỗ vào bờ mầu nhiệm.

Từ chủ chốt của Tựa Ngôn là từ “Ngôi Lời”. Tự nguồn gốc, từ “Ngôi Lời” được dịch từ “Logos” của Hy ngữ, nhưng được thánh ký sử dụng một cách độc đáo đến nỗi từ Hy ngữ nầy thấm nhuần tư tưởng của từ “Đa-va” (“Lời”) của Cựu Ước. Trong Cựu Ước, Logos có nghĩa là lời Thiên Chúa nói ra, là điều Thiên Chúa mặc khải qua vũ trụ, qua biến cố, nói chung qua Thánh Kinh (Cn 8: 23-36; Hc 24: 1-22). Tất cả những tư tưởng ấy đều gặp trong Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan. Nhưng còn hơn thế nữa, tác giả đã chọn từ Hy lạp “logos”với mạo từ không để diễn tả “Lời” cách chung chung, nhưng Lời là một ngôi vị. Ngôi Lời ngay từ khởi thủy đã hiện diện trong cung lòng của Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (Cl 1: 15), là phản ảnh vẽ huy hoàng và trung thực của bản thể Thiên Chúa (Dt 1: 3). Với biến cố Nhập Thể, Ngôi Lời là Mặc Khải tuyệt mức và dứt khoát của Thiên Chúa giữa lòng nhân loại (1Ga 1: 2). Tuy nhiên, thế gian đã không biết Ngài, dân Ngài cũng khước từ Ngài. Nhưng ai tiếp đón Ngài, Ngôi Lời ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. Họ được quyền làm con Thiên Chúa như vậy, không phải do người phàm, mà là do Thiên Chúa (1: 12-13).

Do đó, chỉ vỏn vẹn mười tám câu, Tựa Ngôn được tạo dáng một cách nghệ thuật tóm tắt những chủ điểm Thần Học của Tin Mừng Gioan: Đức Giê-su Na-da-rét là Mặc Khải tối hậu của Thiên Chúa, Đấng có thẩm quyền giải thích Thiên Chúa. Nói cho cùng, Đức Giê-su không chỉ là Đấng Trung Gian của Thiên Chúa đối với chúng ta, Ngài đích thực là Thiên Chúa, là Lời Thiên Chúa và Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa hiện thân để nói lời tối hậu của Thiên Chúa. 

 Trong bầu khí tươi vui của ngày lễ Giáng Sinh, tôi xin được chú giải câu 14:

“Ngôi Lời đã trở nên người phàm

và cư ngụ giữa chúng ta.

Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người,

vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,

là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”.

1.Ngôi Lời đã trở nên người phàm:

Câu này được dịch theo sát từ: “Ngôi lời đã trở thành xác thịt”. Theo thuật ngữ Kinh Thánh, “xác thịt” không chỉ xác thể phân biệt với linh hồn, nhưng trọn vẹn con người. “Ngôi Lời đã trở thành xác thịt” có nghĩa Ngôi Lời đã thật sự trở thành một phàm nhân như chúng ta, nhưng Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Điều này muốn nói rằng khi đã nhập thể, Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa, và sau khi Nhập Thể, Ngôi Lời vẫn còn là một con người. Mầu nhiệm Nhập Thể mà chúng ta hằng tuyên xưng: Ngài là Thiên Chúa thật và con người thật.

2.Ngôi Lời cư ngụ giữa chúng ta:

 Câu này được dịch sát từ: Ngôi Lời “dựng lều giữa chúng ta”. Với thuật ngữ “dựng lều”, tác giả gợi lên nhiều ý tứ man mác. Trước hết, “dựng lều” là đến và ở tạm thời. Như người du mục cắm lều nay đây mai đó, Ngôi Lời cũng chỉ đến và ở với chúng ta trong một thời gian nào đó mà thôi, vì Ngài phải về cùng Chúa Cha. Nhưng nói đúng hơn, thuật ngữ “dựng lều” gợi lại việc Thiên Chúa ở với dân Ngài trong cuộc hành trình băng qua sa mạc. Trên con đường từ Ai-cập về Đất Hứa, dân Do thái dựng lều nay đây mai đó như dân du mục. Trong thời gian Xuất Hành ấy, Thiên Chúa đã hứa với ông Mô-sê Ngài sẽ đồng hành với dân về Đất Hứa. Vì thế, Ngài đã bảo ông Mô-sê dựng cho Ngài một lều ở giữa các lều của dân. Vào ngày khánh thành, Thiên Chúa cho lều của Ngài tràn ngập những áng mây và vinh quang rực rỡ như dấu chỉ cho biết “Ngài hiện diện trong lều”. Thế là, Thiên Chúa dựng lều giữa dân Ngài và ở lều như dân Ngài (Xh 33: 9-10).

Từ đó, “dựng lều” trở thành thành ngữ để chỉ Thiên Chúa ở giữa dân Ngài (Ds 12: 5; 2Sm 7: 6; Tv 78: 60; Ge 4: 17, 21; Dcr 2: 14; Hc 24: 8). Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài trong lều của Ngài vào thời Xuất Hành, ở trong Đền Thờ khi dân định cư ở Đất Hứa, và còn ở trong Lề Luật Mô-sê nữa (Hc 24: 7-22; Br 3: 36-44). Nhưng trong thời Tân Ước, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài còn thân thiết và gần gũi hơn nhiều. Ngài hiện diện bằng chính bản thân và một cách hữu hình, chứ không bằng áng mây hay Lề Luật như thuở xưa. Quả vậy, Ngôi Lời Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm hữu hình để ở giữa chúng ta và dẫn đưa chúng ta từ thế giới chóng qua đến thế giới vĩnh cữu: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12: 32).

3.Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người:

Trong Cựu Ước, kiểu nói: “vinh quang của Thiên Chúa”, đồng nghĩa: “Thiên Chúa tỏ mình” trong quyền năng của Ngài. Nói chung, những quyền năng mà Thiên Chúa đã thực hiện lúc dẫn đưa dân Ngài từ Ai-cập về Đất Hứa, hiển lộ quyền năng và vinh quang của Ngài (Xh 15: 1-7; 16: 7-8). Trong Tân Ước, nhân tính của Ngôi Lời, thân thể của Ngài, trở thành nơi tuyệt mức Thiên Chúa ở giữa dân Ngài và bày tỏ vinh quang của mình. Ngài bày tỏ vinh quang của Ngài qua những dấu lạ mà Tin Mừng Gioan chỉ ghi lại “bảy dấu lạ” trong phần thứ nhất được gọi là “Tin Mừng về Các Dấu Lạ” (ch. 1-12), và dấu lạ tuyệt mức cuối cùng là “Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài” trong phần thứ hai được gọi là “Tin Mừng về Vinh Quang” (ch. 13-21). Vì thế, câu nói, “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người” có nghĩa là chúng ta đã được nhìn thấy “các dấu lạ Người làm lúc sinh thời”. Những dấu lạ khả dĩ làm cho thiên hạ phải tôn vinh Người.

Nói tóm lại, vinh quang của Thiên Chúa là những gì làm cho loài người nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa và vinh quang của Ngài rực rỡ đến mức người phàm nhìn thấy là có thể chết ngay (Xh 24: 16tt). Vì thế, để cho loài người có thể nhìn thấy được, vinh quang ấy phải có cái gì phủ che, thời xưa là áng mây, ngày nay là nhân tính của Ngôi Lời Nhập Thể. Tuy nhiên, người phàm cũng được thoáng thấy vinh quang ấy đôi khi, như nhân dịp Đức Giê-su biến đổi hình dạng (Lc 9: 32, 35) hoặc qua các dấu lạ (Ga 2: 11; 11: 40; 14: 24-27 và 15: 7), nhất là sự kiện “Phục Sinh là một sự tỏ mình ra thập phần vinh quang” (17: 5tt).

4.Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật:

Trong Cựu Ước, hai từ “ân sủng” và “sự thật” thường đi đôi với nhau để diễn tả hai ưu phẩm của Thiên Chúa là “tình thương” và “thành tín”. Nói Thiên Chúa giàu tình thương và thành tín là nói Thiên Chúa “trước sau như một, luôn luôn yêu thương và tha thứ” (Xh 34: 6; Tv 25: 10; 40: 11; 61: 8 và nhất là Tv 89). Vì thế, chúng ta có thể hiểu, cũng như Chúa Cha, Ngôi Lời cũng giàu lòng yêu thương và hay tha thứ. Vì thế, cộng đoàn Gioan, cộng đoàn của Giao Ước Mới xác quyết rằng nơi con người của Đức Giê-su, họ đã nhận thấy vinh quang mà Thiên Chúa đã ban cho Ngài, Đấng giàu lòng nhân nghĩa và thành tín, trước sau như một.


https://kinhthanhvn.net/goi-y-bai-giang/mua-vong-giang-sinh-goi-y-bai-giang/goi-y-bai-giang-le-giang-sinh-thanh-le-chinh-ngay.html