GIÁNG SINH – LỄ ĐÊM

Lm.Inhaxio Hồ Thông

      Phụng Vụ Lời Chúa Lễ Đêm Giáng Sinh tập trung mọi ánh sáng vào biến cố Giáng Sinh của Hài Nhi Bê-lem. Chính Hài Nhi này đã được ngôn sứ I-sai-a trước đó đến sáu thế kỷ loan báo là Đấng Cứu Độ của chúng ta và cũng được thánh Phao-lô sau này tuyên xưng là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ của chúng ta.

      Is 9: 1-6.

      Bài Đọc I là bài thơ chan chứa niềm hy vọng của ngôn sứ I-sai-a. Sáu trăm năm trước đó, vị ngôn sứ đã hân hoan loan báo cuộc giáng sinh của Đấng Cứu Độ:

“Vì Chúa đã cho một trẻ thơ chào đời,

đã ban tặng một người con để cứu ta”.

      Tt 2: 11-14.

      Bài Đọc II trích thư gởi cho Ti-tô, trong đó thánh Phao-lô nhắc nhở cho người môn đệ của mình đồng thời cũng là cộng tác viên của mình rằng ân sủng của Thiên Chúa bắt đầu tỏ rạng ở nơi cuộc Giáng Sinh của “Đức Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ của chúng ta”, bởi vì lễ Giáng Sinh đã gieo mầm vinh quang rực rỡ của lễ Phục Sinh.

      Lc 2: 1-14.

      Với Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca dẫn chúng ta vào ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Thiên Chúa làm người trong cảnh cơ hàn: “Một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Vinh quang và bình an của Thiên Chúa tràn ngập cõi thế. Sứ điệp hân hoan mà các thiên sứ loan báo đã là khúc dạo đầu Tin Mừng cứu độ được gởi đến cho nhân loại:

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.

      BÀI ĐỌC I (Is 9: 1-6)

 Ngôn sứ I-sai-a sáng tác bài thánh thi nầy không bao lâu sau sấm ngôn về Đấng Em-ma-nu-en (x. 7: 14). Bài thơ này gợi lên những biến cố đã xảy ra vào những năm 734-732 trước Công Nguyên. Hoàn cảnh lịch sử vào lúc đó thật nghiêm trọng, nhưng không liên quan đến kinh thành Giê-ru-sa-lem. Phần đầu của bài thơ (không được trích dẫn ở đây) cho thấy đó là miền Ga-li-lê thuộc vương quốc miền Bắc. Vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe xâm chiếm vương quốc miền Bắc và đã lưu đày thành phần ưu tú của dân Ga-li-lê đến Át-sua. Ngôn sứ I-sai-a ám chỉ đến nỗi khốn cùng này: “Dân đang lần bước giữa tối tăm…đám người sống trong vùng bóng tối”.

1.Miền Ga-li-lê sẽ thấy một ánh sáng huy hoàng (9: 1-4).

Nhưng vị ngôn sứ loan báo một niềm vui vỡ bờ: Đức Chúa giải thoát dân Ngài. Ông phác họa một bức tranh đầy sắc màu tươi vui: niềm tủi nhục biến thành vinh quang, tối tăm thành ánh sáng, cảnh đời nô lệ thành cuộc sống tự do:

“Dân đang lần bước giữa tối tăm

đã thấy ánh sáng huy hoàng;

đám người đang sống trong vùng bóng tối,

nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (9: 1).

Niềm vui được tăng thêm gấp bội vì:

“Chúa đã ban chan chứa niềm hoan hỷ,

đã tăng thêm nỗi vui mừng” (9: 2a).

Bài thơ sánh ví những giờ phút hân hoan nầy với niềm vui của nông dân trong mùa gặt và của chiến binh khi chia nhau chiến lợi phẩm.:

“Họ vui mừng trước nhan Ngài

như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt,

như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm” (9: 2b).

Để viện dẫn lý do cho sấm ngôn của mình, ngôn sứ I-sai-a nhắc lai một biến cố lịch sử. Trước đây Đức Chúa đã giải thoát dân Ga-li-lê rồi trong một giai đoạn lịch sử đau thương của họ, khi họ gặp phải quân Ma-đi-an bạo tàn thống trị, Ngài đã giúp ông Ghít-ôn lập chiến công lẫy lừng đánh bại những kẻ áp bức:

“Vì cái ách đè len cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ

và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy

như trong ngày chiến thắng quân Ma-đi-an” (9: 3).

Cuối cùng, không còn dấu vết chiến tranh nữa. Thiên hạ sẽ vui hưởng thái bình, những quân nhu chiến cụ sẽ bị thiêu hủy:

“Vì mọi giày lính nện xuống rần rần

và mọi áo choàng đẫm máu

sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa” (Is 9: 4).

 2.Một trẻ thơ chào đời cho chúng ta (9: 5-6):

 Nguyên do của niềm hân hoan trong viễn tượng tràn đầy hy vọng nầy chính là:

“Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta,

một người con đã ban tặng cho ta” (9: 5a).

Phần tiếp theo của bài thơ với những ngôn từ cho thấy rằng xem ra đây không là cuộc chào đời của một hoàng nhi nhưng ngày đăng quang của một tân vương. Quả thật, qua những từ ngữ mà vị ngôn sử sử dụng, chúng ta không thể nào không đọc thấy những ám chỉ đến nghi lễ phong vương:

“Người gánh vác quyền bính trên vai,

danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh,

người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình” (9: 5b).

Kiểu nói: “Người gánh vác quyền bính trên vai” khiến người ta nghĩ đến nghi thức choàng áo long bào trên vai của vị tân vương hay trao vào tay tân vương một vương trượng (cả hai biểu tượng quyền bính nầy được chứng thực trong nghi lễ phong vương). Các danh hiệu tôn kính được ban cho hài nhi này: “Cố Vấn kỳ diệu”“Thần Linh dũng mãnh”“người Cha muôn thuở”“Thủ Lãnh hòa bình”, chắc chắn đây là những vương hiệu được ban cho vị tân vương vào ngày tấn phong.

Quả thật, những danh hiệu tôn kính: “Cố Vấn kỳ diệu”“Thần Linh dũng mãnh”, là những ân huệ được hứa ban cho một mầm non từ gốc tổ Gie-sê:

“Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ,

từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non.

Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này:

thần khí khôn ngoan và minh mẫn,

thần khí mưu lược và dũng mãnh,

thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa” (Is 11: 1-2).

Danh hiệu “người Cha muôn thuở” thường được ban cho vua, vì vua được xem như người cha của dân tộc, để cầu chúc vương triều của vua muôn năm bền vững. Ngài được gọi là “Thủ Lãnh Hoà Bình”, bởi vì một trong dấu hiệu thời Mê-si-a loan báo rằng một hậu duệ của vua Đa-vít “sẽ mở rộng quyền bính và lập nền nền hoà bình vô tận” (9: 6). Các ngôn sứ tranh nhau tiên báo nền hoà bình nầy.

Phụng vụ lễ Giáng Sinh áp dụng tất cả những danh hiệu tôn kính nầy cho Hài Nhi Bê-lem, vì nhận ra ở nơi trẻ thơ nầy là “Đấng Em-ma-nu-en” đích thật.

3.Lời sấm bí ẩn:

Vị ngôn sứ loan báo cuộc giải thoát dân Ga-li-lê trong viễn cảnh chan chứa niềm hân hoan và tràn đầy ánh sáng khắp xứ sở của họ (vương quốc miền Bắc). Thật lạ lùng, ông nối kết cuộc giải phóng nầy với cuộc chào đời – hay cuộc phong vương – của một hậu duệ vua Đa-vít ở kinh đô Giê-ru-sa-lem (vương quốc miền Nam). Phải chăng ông hy vọng hai vương quốc Bắc và Nam sẽ được thống nhất dưới triều đại vua Mê-si-a?

Điều bí ẩn nầy sẽ gặp thấy lời giải đáp bảy thế kỷ sau đó. Miền Ga-li-lê rực lên ánh sáng Tin Mừng. Đức Giê-su tự thân là người Ga-li-lê thuộc vương quốc miền Bắc xưa, nhưng với tư cách là hậu duệ của vua Đa-vít, Ngài sinh ra ở Bê-lem, thuộc vương quốc miền Nam xưa. Bài ca hợp xướng của đoàn thiên sứ loan tin vui cho toàn dân (Lc 2: 10) hòa chung với khúc hoan ca của vị ngôn sứ ca ngợi một hoàng nhi chào đời.

BÀI ĐỌC II (Tt 2: 11-14)

Ông Ti-tô vừa là một người môn đệ và cũng là bạn đồng hành kỳ cựu nhất của thánh Phao-lô. Ông đã trở lại đạo; song thân ông đều là người Hy lạp. Thánh Phao-lô đã trao gởi cho ông coi sóc các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á. Ở đây, ông gặp phải những khó khăn nghiêm trọng. Ông phải đương đầu với những chống đối đặc biệt đến từ môi trường Do thái chịu ảnh hưởng Hy lạp mà chính thánh Phao-lô đã từng chạm trán ở những nơi khác. Vì thế, những lời khuyên của thánh nhân thật là quý báo đối với ông Ti-tô.

1.Thần Tính của Đức Giê-su.

Trong vài hàng, thánh Phao-lô nhắc nhở cho ông Ti-tô biết rằng giáo huấn cốt lõi mà ông phải kiên vững truyền đạt, đó là ơn cứu độ Thiên Chúa đã gởi đến cho con người là nhưng không và phổ quát. Các Ki-tô hữu đòi buộc phải từ bỏ tội lỗi và sống thánh thiện trong khi chờ đợi ngày Quang Lâm của “Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa vĩ đại, và là Đấng Cứu Độ của chúng ta”.

Việc dùng danh xưng Thiên Chúa cho Đức Giê-su Ki-tô không là cách thức quen thuộc của thánh Phao-lô. Thánh nhân thường dành riêng danh xưng “Thiên Chúa” cho Chúa Cha. Việc thánh nhân dùng danh xưng này cho Chúa Giê-su chỉ được gặp thấy một lần duy nhất trước đây trong thư gởi tín hữu Rô-ma: “Người (Đức Ki-tô) là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Rm 9: 5b). Vì thế, chúng ta có thể nghĩ rằng dường như những người Do thái bác bỏ Thần Tính của Đức Giê-su Ki-tô, một vấn đề mà ông Ti-tô đang phải đương đầu.

2.Lợi ích của bức thư.

Thư nầy không chỉ hữu ích về phương diện tín lý, nhưng còn về phương diện mục vụ. Cùng với hai thư gởi cho Ti-mô-thê, thư gởi cho Ti-tô được gọi là “thư mục vụ”, vì trong đó thánh Phao-lô đưa ra những huấn lệnh liên quan đến việc tổ chức các cộng đoàn Ki-tô hữu. Quả thật, tất cả các vị Tông Đồ của Đức Giê-su đã lần lượt qua đời, vì thế đây là thời kỳ của những người được các Tông đồ uỷ quyền (ông Ti-tô là một trong số họ).

Thư mục vụ này giúp chúng ta hiểu được giai đoạn chuyển tiếp giữa việc tổ chức đầu tiên, dưới chỉ thị của các “Kỳ Mục”, và việc hình thành cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội.

TIN MỪNG (Lc 2: 1-14)

Trong bốn tác giả Tin Mừng, thánh Lu-ca là thánh ký quan tâm nhiều nhất đến những tham chiếu lịch sử. Ông là vị thánh ký duy nhất giải thích cho chúng ta biết tại sao Đức Giê-su sinh ra ở Bê-lem chứ không ở Na-da-rét, nơi cha mẹ của Ngài cư ngụ, cũng như việc kiểm tra dân số theo chiếu chỉ của hoàng đế Xê-da Âu-gu-tô được thực hiện trên khắp xứ Pa-lét-tin theo tập tục Do thái, nghĩa là phải đăng ký ở nơi nguyên quán, chứ không ở nơi cư ngụ theo cách thức Rô-ma.

Thánh Giu-se trở về Bê-lem vì ông thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Quả thật, hơn mười thế kỷ trước đó, chính Bê-lem là quê quán của ông Gie-sê, cha của vua Đa-vít. Đối với dân Do thái, những ghi nhớ về dòng dõi của mình không bao giờ phai nhạt trong tâm trí, nơi chôn nhau cắt rốn vẫn bảo tồn trong kỳ ức của mình. Đó là lý do tại sao việc kiểm tra dân số dưới thời hoàng đế Âu-gu-tô được thực hiện theo truyền thống Do thái. Vì thế, thánh Giu-se phải lên đường trở về Bê-lem, nguyên quán của mình.

Tại sao Đức Ma-ri-a cùng đi theo thánh Giu-se? Phải chăng cô cũng thuộc dòng tộc Đa-vít? Thật ra Đức Ma-ri-a là em họ của bà Ê-li-sa-bét thuộc chi tộc Lê-vi. Người ta gặp thấy cuộc kiểm tra dân số tương tự đã xảy ra ở Ai-cập vào năm 104 sau Công Nguyên và những chứng liệu chứng thực rằng vợ phải trình diện bên cạnh chồng mình.

1.Hoàn cảnh Giáng Sinh của Đức Giê-su.

“Khi hai ông bà đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ”. Đừng hiểu rằng Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se bị xua đuổi không có nơi tá túc qua đêm, điều nầy hoàn toàn trái với phong tục tập quán vốn hiếu khách của người Do thái. Nhưng thật bất tiện đối với một người phụ nữ bụng mang dạ chữa sắp đến ngày mãn nguyệt khai hoa ở nơi đông đúc như vậy. Chỉ nghĩ đến những lữ quán Đông Phương, ở đó người, vật và hàng hoá chen nhau ồn ào náo nhiệt trong sân. Có thể có các phòng trọ nhưng vào những dịp như thế này chắc chắn tiền thuê rất đắt, chỉ dành cho những người giàu có.

2.Hai dấu chỉ cùng một lúc.

Đức Giê-su chào đời ở “Bê-lem”, theo nguyên ngữ: “Bết Lê-hem”, nghĩa là “nhà của bánh”. Đó không phải là địa danh tiền định sao? Ngoài ra, chiếc nôi đầu đời của Ấu Chúa là một “máng cỏ”. Thánh Lu-ca nhấn mạnh sự kiện nầy đến ba lần (hai lần trong đoạn văn trích nầy, và một lần khác nữa xa hơn). Đây cũng là dấu hiệu mà các sứ thần cho các mục đồng để nhận ra Ngài: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm trong máng cỏ”. Điểm nhấn nầy chắc hẳn có chủ ý. Với điểm nhấn nầy, thánh ký có thể đã hiểu lời tiên báo về số phận của Hài Nhi nầy. Con Thiên Chúa không chỉ bằng lòng đón nhận thân phận làm người của chúng ta, nhưng Ngài còn đi xa hơn trong sự tự hạ: không chỉ trút bỏ quyền lực và vinh quang của mình, nhưng còn vì tình yêu, Ngài làm cho mình trở thành một tấm bánh, Đấng sẽ dâng hiến thân mình khi nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, vì nầy là Mình Thầy”.

 3.Con trai đầu lòng.

“Đức Ma-ri-a sinh con trai đầu lòng”“Con trai đầu lòng” phải chịu nhiều quy định của Lề Luật: phải được thánh hiến, tức dâng hiến cho Thiên Chúa, và được “chuộc lại” nhờ hy lễ như trường hợp của Đức Giê-su với “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” (của lễ của con nhà nghèo khó). Diễn ngữ “con đầu lòng” được lấy lại trong những viễn cảnh Ki-tô giáo: Đức Giê-su là Trưởng Tử của một cuộc sáng tạo mới, Trưởng Tử của các vong nhân. Mầu Nhiệm Nhập Thể của Ngài thật sự mang ơn cứu độ đến cho nhân loại, như lời của thánh Phao-lô: “người anh cả của một đàn em đông đúc”.

  1. “Đức Ma-ri-a lấy tả bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ”.

Đấng Tạo Hóa hóa thân thành một Hài Nhi yếu hèn và bé bỏng hoàn toàn phụ thuộc vào tấm lòng ân cần săn sóc của cha mẹ trần thế. Ngôi Lời Thiên Chúa, Lời Quyền Năng, tự mình trở nên “một trẻ sơ sinh không nói được”. Con Thiên Chúa Hằng Sống giáng trần và chấp nhận tiến trình lớn lên như bao nhiêu phàm nhân khác.

Ba mươi năm sau đó, Đấng ấy sẽ công bố giáo huấn của mình: “Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18: 4); “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì nước trời là của những ai giống như chúng” (Mt 19: 13-15). Trong Tin Mừng, có một con đường thánh thiện bằng cách tự mình trở nên trẻ thơ, và con đường nầy bắt nguồn từ Hài Nhi Bê-lem.

 5.Con Thiên Chúa sinh ra trong cảnh cơ hàn.

 Cũng chính Hài Nhi Máng Cỏ nầy một ngày kia sẽ nói về cảnh đời của mình: “Chim có tổ, chồn có hang, nhưng Con Người không có nơi gối đầu qua đêm”. Thế nên, không ai gợi lên nhiều mâu thuẩn nơi chính bản thân mình cho bằng Đức Giê-su nầy, Ngài sinh ra như một kẻ đầu đường xó chợ khốn cùng nhất trong số những kẻ vô gia cư và chết như một phạm nhân nguy hiểm nhất trong số các tên tội phạm.

 René Habachi sử dụng khái niệm triết học để diễn tả mầu nhiệm mâu thuẩn nầy: Thiên Chúa là “Cái Là tuyệt đối” (“L’Etre absolu”), vì thế Ngài không cần “Cái Có” (“L’Avoir”), vì ở nơi Ngài “Cái Có” bị tiêu tan bởi “Cái Là”. Cũng một cách nào đó như vậy “cái nghèo vô tận của Thiên Chúa, cái không có tận cùng của Thiên Chúa, là dấu chỉ Thần Tính của Ngài”.

Jacques Loew trong tác phẩm “Như thấy Đấng Vô Hình” đã suy niệm sâu sắc về Mầu Nhiệm Giáng Sinh theo cùng một cách như vậy: “Chúa Giê-su đã sinh ra bé nhỏ và nghèo hèn chắc là để biểu lộ tình thương của Ngài đối với những người bé nhỏ và nghèo hèn trong thế giới cho tới tận thế; nhưng thật ra cuộc đản sinh khiêm tốn của Ngài còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Chẳng có gì xứng đáng cho Chúa cả; chẳng có gì cao trọng đủ để mà tiếp rước Ngài, dù có trang hoàng mỹ lệ, dù có cung điện lộng lẫy, dù loài người có khôn ngoan. Vì thế Thiên Chúa chọn một nơi không gì hết là vì ở đó không có sự cạnh tranh lố bịch, không có vẻ giàu sang giả tạo. Chúa chỉ ngự đến nơi nào mà ở đó Ngài là tất cả: ở Máng cỏ, trong cảnh nghèo nàn thực sự, nơi mà Đức Ma-ri-a, một tâm hồn khó nghèo” (bản dịch của Lưu Tấn, trang 16-17).

6.Các mục đồng:

“Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời, canh giữ đàn vật”. Đó là lý do tại sao chuồng chiên trống: đàn vật ở ngoài đồng và những người chăn chiên ngủ ngoài trời. Ở xứ Pa-lê-tin, giữa lễ Vượt Qua và mùa thu, thời tiết rất đẹp. Đức Giê-su không sinh ra vào ngày 25 tháng 12. Việc chọn thời biểu nầy để tưởng niệm sinh nhật của Ngài là nhằm đề cao ý nghĩa biểu tượng: đông chí đã qua, ánh sáng chiến thắng bóng tối. Ngày lễ Giáng Sinh tự gốc tích là ngày lương dân mừng thần mặt trời.

  Những người đầu tiên được loan tin mừng Giáng Sinh là những mục đồng, nghĩa là những người tầm thường, thường vô học và bị khinh thường nhất, bị liệt vào hàng tội lỗi. Vì thế, Đức Giê-su tự đặt mình vào số những người nghèo hèn, khiêm hạ và bé nhỏ. Những mục đồng đến vây quanh Hài Nhi, thờ lạy Ngài. Đức Giê-su đến “để chăn dắt dân Ngài”: Ngài là Mục Tử đích thật, Mục Tử nhân lành ân cần chăm sóc đàn chiên, nhất là những con chiên bé bỏng, dễ bị tổn thương nhất (Ga 10: 11-15). Sau cùng, việc Đức Giê-su sinh hạ ở giữa những mục đồng xứ Bê-lem là “dấu chỉ Đa-vít” tuyệt vời. Ngài sinh ra ở nơi mà cậu bé Đa-vít đã canh giữ đàn chiên của mình. Ngài là Tân Đa-vít.

7.Sứ điệp của các thiên sứ:

Các thiên sứ loan báo tin vui cho các mục đồng: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân”. Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng nhạy bén nhất trước bầu khí vui tươi mà biến cố Nhập Thể đem đến. Niềm vui nầy là niềm vui Thiên Sai mà các ngôn sứ đã loan báo biết bao lần (ví dụ như Bài Đọc I), đây thật sự khúc dạo đầu niềm vui viên mãn của cõi đời đời.

Sứ điệp mà các thiên sứ gởi đến cho họ thật vĩ đại biết bao với những ngôn từ làm nức lòng người: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ anh em đã ra đời trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa”. Sứ điệp này thật tương phản biết bao với dấu hiệu để họ nhận ra Đấng Cứu Độ của mình: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Sự tương phản nầy báo trước một tương phản khác: Máng cỏ nầy được bao phủ bởi ánh sáng và lời hoan ca, ẩn hiện bóng tối, bóng tối của đồi Sọ. Vì Ngôi Lời hóa thân làm người, không phải là để phàm nhân nầy một ngày kia bị tra tấn, bị nhục mạ, bị đóng đinh vào thập giá đó sao? Thư gởi tín hữu Do thái cho chúng ta một bài suy niệm rất sâu sắc về Mầu Nhiệm Nhập Thể: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xóa tội. Bấy giờ con mới thưa: ‘Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con’” (Dt 10: 5-7).

 Bản hợp xướng của các thiên sứ là một dấu chỉ khác về sự hiện diện của Con Thiên Chúa. Triều đình thiên quốc đã dời chỗ từ thượng giới xuống hạ giới bởi vì Hài Nhi Máng Cỏ này không ai khác hơn là Thiên Chúa tự thân. Chúng ta có hai bản văn truyền thống ghi lại bản hợp xướng của các thiên sứ:

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

bình an dưới thế cho loài người Chúa thương

Hay:

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

Hai bản văn này không loại trừ nhau, nhưng bổ túc cho nhau. Sứ điệp loan báo cuộc Giáng Trần của Hài Nhi Giê-su là niềm vui thiên quốc được gởi đến cho loài người không trừ một ai, đối tượng Thiên Chúa yêu thương, nhưng chỉ những ai thiện tâm mới có thể nhận ra Hài Nhi này là Tình Yêu cứu độ của Thiên Chúa.

8.Một sự trao đổi kỳ diệu.

Mầu Nhiệm Nhập Thể vừa mặc khải Thiên Chúa vừa mặc khải con người. Trong một cuộc yết kiến vào thứ tư ngày 28 tháng 12 năm 1977, Đức Thánh Cha Phao-lô VI nói: “Trong nội dung thần linh của nó, mặc khải của lễ Giáng Sinh thì vô giới hạn”. Trong nội dung con người của nó, mặc khải làm chứng về sự cao cả của con người. Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa; nầy đây chính Thiên Chúa mặc lấy dung mạo con người. Kinh Tiền Tụng Giáng Sinh III nói về cuộc trao đổi kỳ diệu: “Vì khi Ngôi Lời của Chúa mặc lấy thân phận mỏng giòn của chúng con, thì loài người phải chết, không những được hưởng vinh dự vĩnh cửu mà nhờ việc tham dự kỳ diệu ấy, Chúa còn cho chúng con được sống muôn đời”.

 https://kinhthanhvn.net/goi-y-bai-giang/mua-vong-giang-sinh-goi-y-bai-giang/goi-y-bai-giang-le-giang-sinh-thanh-le-dem-vong-giang-sinh.html