Trang

Thứ Bảy, 1 tháng 4, 2023

Giáo lý cho Bài giảng Chúa Nhật Lễ Lá năm A

 

Giáo lý cho Bài giảng Chúa Nhật Lễ Lá năm A

 
  •  
  •  


GIÁO LÝ CỦA HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
CHO BÀI GIẢNG CHÚA NHẬT LỄ LÁ NĂM A

(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích)

WHĐ (01.4.2023) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của các Chúa nhật theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.

LỜI CHÚA

Bài Phúc Âm: Mt 21, 1-11 (trước khi đi rước)

Bài Ðọc I: Is 50, 4-7

Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11

Bài Thương Khó: Mt 26, 14 - 27, 66 (bài dài)

 

GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

Số 557-560: Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem

557. “Khi đã tới ngày Chúa Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem” (Lc 9,5l)[1]. Qua quyết định này, Chúa Giêsu tỏ cho thấy Người lên Giêrusalem trong tư thế sẵn sàng để chịu chết ở đó. Người đã loan báo đến ba lần cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Người[2]. Khi tiến về Giêrusalem, Người nói: “Một ngôn sứ mà chết ngoài thành Gierusalem thì không được!” (Lc 13,33).

558. Chúa Giêsu gợi lại cái chết của các Tiên tri, đã bị giết ở Giêrusalem[3]. Dù sao, Người vẫn khẩn khoản kêu gọi Giêrusalem quy tụ quanh Người: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu” (Mt 23,37b). Khi nhìn thấy Giêrusalem, Người khóc thương thành ấy[4] và một lần nữa thốt lên ao ước của lòng Người: “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được” (Lc 19,42).

559. Giêrusalem sẽ đón nhận Đấng Messia của mình như thế nào? Chúa Giêsu, Đấng luôn trốn tránh mọi ý đồ của dân chúng muốn tôn Người làm vua[5], đã chọn thời điểm và chuẩn bị kỹ lưỡng để tiến vào Giêrusalem, thành của “Đavid, tổ tiên Người” (Lc 1,32) với tư cách là Đấng Messia[6]. Người được dân chúng hoan hô như con vua Đavid, như Đấng mang lại ơn cứu độ (Hosanna có nghĩa là “xin cứu”, “xin ban ơn cứu độ!”). Nhưng “Đức Vua vinh hiển” (Tv 24,7-l0) lại “ngồi trên lưng lừa con” (Dcr 9,9) tiến vào thành: Người không chinh phục Thiếu nữ Sion, hình ảnh của Hội Thánh Người, bằng mưu mẹo hay bằng bạo lực, nhưng bằng sự khiêm tốn, là bằng chứng của sự that[7]. Vì vậy, ngày hôm đó, thần dân của Nước Người là các trẻ em[8] và “những người nghèo của Thiên Chúa”, họ tung hô Người giống như các Thiên thần đã loan báo Người cho các mục đồng[9]. Lời tung hô của họ: “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa” (Tv 118,26) được Hội Thánh dùng lại trong kinh “Thánh! Thánh! Thánh!” để mở đầu phụng vụ Thánh Thể tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa.

560. Việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem tỏ cho thấy Nước Thiên Chúa đang đến. Sự kiện đó, Đức Vua Messia sắp hoàn thành bằng cuộc Vượt Qua, là sự Chết và sự Sống lại của Người. Phụng vụ Hội Thánh khởi đầu Tuần Thanh bằng việc cử hành biến cố Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem, trong Chúa Nhật Lễ Lá.

 

Số 602-618: Cuộc khổ nạn của Đức Kitô

602. Chính vì thế thánh Phêrô có thể diễn tả đức tin tông truyền về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa như sau: “Anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tì tích, là Đức Kitô. Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này” (1 Pr 1,18-20). Các tội người ta phạm, tiếp theo sau tội tổ tông, khiến người ta phải chết[10]. Khi sai Con Một của Ngài đến trong thân phận tôi tớ[11], tức là trong thân phận loài người đã sa ngã và tất phải chết vì tội lỗi[12], “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5,21).

603. Vì không phạm tội, Chúa Giêsu không bao giờ biết đến việc bị Thiên Chúa loại bỏ[13]. Nhưng trong tình yêu cứu chuộc, một tình yêu hằng kết hợp Người với Chúa Cha[14], Người đã đảm nhận lấy chúng ta, những kẻ đang vì tội lỗi ma lạc đường lìa xa Thiên Chúa, đến độ trên thập giá, Người đã có thể thốt lên thay chúng ta: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con!” (Mc 15,34)[15]. Vì đã kết hợp Đức Kitô với chúng ta là các tội nhân, nên Thiên Chúa “đã chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp chính Con Một của Ngài vì hết thảy chúng ta” (Rm 8,32), để chúng ta “được giao hoà với Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Một Ngài” (Rm 5,10).

Thiên Chúa đã khởi xướng trong tình yêu cứu chuộc mọi người

604. Khi trao nộp Con của Ngài vì tội lỗi chúng ta, Thiên Chúa biểu lộ kế hoạch của Ngài là một kế hoạch của tình yêu lân mẫn, đi trước mọi công trạng của chúng ta: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10)[16]. “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8).

605. Tình yêu này không loại trừ một ai. Chúa Giêsu nhắc lại điều đó để kết luận dụ ngôn về con chiên lạc: “Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18,14). Người quả quyết Người “hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Lời tuyên bố quan trọng này không mang ý nghĩa hạn chế: lời đó đặt song đối tập thể nhân loại với một mình Đấng Cứu Chuộc, Đấng tự hien để cứu độ nhân loại ấy[17]. Hội Thánh, theo sau các Tông Đồ[18], dạy rằng: Đức Kitô đã chết cho tất cả mọi người không trừ một ai. “Trước kia, hiện nay cũng như sau này, không có một ai mà Người [Đức Kitô] không chịu khổ nạn cho”[19].

Cả cuộc đời của Đức Kitô là của lễ dâng hiến Chúa Cha

606. Con Thiên Chúa, Đấng từ trời xuống, không phải để làm theo ý Người, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Người”[20], “khi vào trần gian, Người nói: ‘Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài’… theo ý đó, chúng ta được thánh hóa, nhờ Chúa Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, một lần cho mãi mãi” (Dt 10,5-10). Ngay từ phút đầu tiên Người nhập thể, Chúa Con đã gắn bó với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa trong sứ vụ cứu chuộc của mình: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Ngài” (Ga 4,34). Hy lễ của Chúa Giêsu “đền bù tội lỗi cả thế gian” (1 Ga 2,2) là sự diễn tả tình yêu hiệp thông của Người với Chúa Cha: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình” (Ga 10,17). Thế gian phải “biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy” (Ga 14,31).

607. Sự khao khát gắn bó với kế hoạch yêu thương cứu chuộc của Chúa Cha truyền cảm hứng cho cả cuộc đời Chúa Giêsu[21], bởi vì cuộc khổ nạn cứu chuộc của Người là lý do việc Người nhập thể: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này! Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến” (Ga 12,27). “Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?” (Ga 18,11). Và trên thập giá, trước khi mọi sự “đã hoàn tất” (Ga 19,30), Người nói: “Tôi khát!” (Ga 19,28).

“Chiên xoá tội trần gian”

608. Sau khi chấp nhận làm phép rửa cho Chúa Giêsu giữa các tội nhân[22], ông Gioan Tẩy Giả đã thấy và giới thiệu Người là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian[23]. Như vậy ông cho thấy rằng Chúa Giêsu đồng thời vừa là Người Tôi trung đau khổ, im lặng chịu đem đi làm thịt[24] và mang lấy tội lỗi muôn người[25], vừa là Chiên Vượt Qua, biểu tượng cho việc Cứu Chuộc Israel trong cuộc Vượt Qua đầu tiên[26]. Cả cuộc đời của Đức Kitô diễn tả sứ vụ của Người: phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người[27].

Chúa Giêsu tự do gắn bó với tình yêu cứu chuộc của Chúa Cha

609. Khi gắn bó với tình yêu của Chúa Cha đối với loài người trong trái tim nhân loại của mình, Chúa Giêsu “đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1), bởi vì “không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mang vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Như vậy, nhân tính của Người trong cuộc khổ nạn và cái chết, đã trở thành dụng cụ tự do và hoàn hảo của tình yêu thần linh của Người, một tình yêu muốn cứu độ mọi người[28]. Thật vậy, Người đã tự do chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết vì tình yêu đối với Cha Người và đối với loài người mà Người muốn cứu độ: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10,18). Do đó, Con Thiên Chúa đã tự do tột bậc khi Người tiến tới cái Chết[29].

Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu thực hiện trước việc tự nguyện dâng hiến mạng sống của mình

610. Chúa Giêsu đã diễn tả cách hết sưc rõ ràng việc Người tự nguyện dâng hiến chính mình trong bữa tiệc Người ăn với mười hai Tông Đồ[30] “trong đêm bị nộp” (1 Cr 11,23). Hôm trước ngày chịu nạn, khi còn hoàn toàn tự do, Chúa Giêsu đã biến bữa Tiệc cuối cùng vơi các Tông Đồ của Người thành lễ tưởng niệm việc Người tự nguyện dâng hiến chính mình cho Chúa Cha[31] để cứu độ nhân loại: “Đây là Mình Thầy, bị nộp vì anh em” (Lc 22,19). “Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).

611. Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã thiết lập lúc đó, sẽ là “việc tưởng niệm”[32] hy tế của Người. Người bao gồm các Tông Đồ vào sự dâng hiến chính mình Người và dạy họ lưu truyền việc dâng hiến này mãi mãi[33]. Như vậy, Chúa Giêsu đã đặt các Tông Đồ của Người làm tư tế của Giao Ước Mới: “Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17,19)[34].

Cơn hấp hối trong vườn Giêtsêmani

612. Chúa Giêsu đã tham dự trước chén của Giao Ước Mới khi Người tự hiến trong bữa Tiệc Ly[35], rồi Người nhận lấy chén đó từ tay Chúa Cha trong cơn hấp hối của Người tại vườn Giêtsêmani[36], khi Người “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl 2,8)[37]. Chúa Giêsu cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này…” (Mt 26,39). Như vậy Người diễn tả nỗi khiếp sợ mà bản tính nhân loại của Người cảm nghiệm trước cái Chết. Thật vậy, bản tính nhân loại của Chúa Giêsu, cũng như của chúng ta, được nhắm đến sự sống vĩnh cửu; nhưng khác với chúng ta, bản tính nhân loại của Người hoàn toàn không có tội[38], mà tội mới gây nên sự chết[39]; nhưng đặc biệt, bản tính nhân loại của Người đã được đảm nhận bởi Ngôi Vị thần linh của “Đấng khơi nguồn sự sống”[40], “Đấng hằng sống”[41]. Khi chấp nhận thánh ý Chúa Cha bằng ý chí nhân loại của mình[42], Chúa Giêsu chấp nhận cái Chết có giá trị cứu chuộc của mình, để “tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể ma đưa lên cây thập giá” (1 Pr 2,24).

Cái chết của Đức Kitô là hy lễ duy nhất và tối hậu

613. Cái chết của Đức Kitô đồng thời vừa là hy lễ Vượt Qua, mang lại ơn Cứu Chuộc tối hậu cho loài người[43], nhờ Con Chiên, Đấng xoá tội trần gian[44], vừa là hy lễ của Giao Ước Mới[45], cho con người lại được hiệp thông với Thiên Chúa[46], khi giao hòa con người với Thiên Chúa nhờ máu đổ ra cho muôn người được tha tội[47].

614. Hy lễ này của Đức Kitô là duy nhất, hy lễ đó hoàn tất và vượt hơn hẳn mọi hy lễ[48]. Trước hết, hy lễ đó là một hồng ân của chính Thiên Chúa Cha: Chúa Cha trao nộp Con của Ngài để giao hòa chúng ta với Ngài[49]. Đồng thời, đây là sự dâng hiến của Con Thiên Chúa làm người, Đấng, vì tình yêu[50], tự ý dâng hiến mạng sống mình[51] cho Cha của Người nhờ Chúa Thánh Thần[52], để đền bù sự bất tuân của chúng ta.

Chúa Giêsu đền thay sự bất tuân của chúng ta bằng sự vâng phục của Người

615. “Cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rm 5,19). Chúa Giêsu, bằng sự vâng phục cho đến chết của Người, đã hoàn thành việc đền thay của Người Tôi trung đau khổ, là hiến thân làm hy lễ đền tội, mang lấy tội lỗi của muôn người và làm cho họ nên công chính khi gánh lấy tội lỗi của họ[53]. Chúa Giêsu đã đền bù các lỗi lầm của chúng ta và tạ tội với Chúa Cha vì tội lỗi của chúng ta[54].

Trên thập giá, Chúa Giêsu hoàn tất hy tế của Người

616. Tình yêu thương đến cùng[55] mang lại cho hy lễ của Đức Kitô giá trị Cứu Chuộc và đền bù, đền tội và tạ tội. Người đã biết và yêu thương tất cả chúng ta khi Người dâng hiến mạng sống mình[56]. “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người, thì mọi người đều chết” (2 Cr 5,14). Không một ai, dù là người thánh thiện nhất, có khả năng mang lấy trên mình tội lỗi của mọi người và hiến mình làm hy lễ vì mọi người. Nơi Đức Kitô, sự hiện hữu của Ngôi Vị Chúa Con vừa vượt hơn hẳn vừa bao gồm tất cả các nhân vị, khiến cho Đức Kitô là Đầu của toàn thể nhân loại, và làm cho hy tế của Người có giá trị cứu chuộc cho tất cả mọi người.

617. Công đồng Triđentinô dạy: “Bằng cuộc khổ nạn rất thánh của Người trên cây thập giá, Đức Kitô đã lập công cho chúng ta được nên công chính”[57], qua đó nêu rõ tính duy nhất của hy tế của Đức Kitô, Đấng là tác giả của ơn cứu độ vĩnh cửu[58]. Vì vậy khi tôn kính Thánh Giá, Hội Thánh ca hát rằng: “Kính chào Thánh Giá, niềm hy vọng duy nhất của chúng con!”[59]

Sự tham dự của chúng ta vào hy tế của Đức Kitô

618. Thánh giá là hy tế duy nhất của Đức Kitô, Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người[60]. Nhưng bởi vì, trong Ngôi Vị Thiên Chúa nhập thể của Người, “một cách nào đó Người đã tự kết hợp với toàn thể mọi người”[61], nên Người đã “ban cho mọi người một khả năng để, theo cách Thiên Chúa biết, họ được kết hợp vào mầu nhiệm Vượt Qua”[62]. Người kêu gọi các môn đệ vác thập giá mình mà theo Người[63], bởi vì Người đã chịu khổ nạn vì chúng ta, đã để lại một gương mẫu cho chúng ta dõi bước theo Người[64]. Quả thật, Người cũng muốn những người đầu tiên hưởng nhờ hy tế cứu chuộc của Người được kết hợp vào hy tế ấy [65]. Điều đó được thực hiện, một cách cao cả nhất, nơi Mẹ Người, Mẹ được kết hợp vào mầu nhiệm cuộc khổ nạn cứu chuộc của Người một cách mật thiết hơn bất cứ ai khác[66].

“Đây là chiếc thang thật và duy nhất của thiên đàng, và ngoài thập giá, không có chiếc thang nào khác để lên trời”[67].

 

Số 2816: Vương quyền của Đức Kitô đạt được nhờ cái chết và sự Phục Sinh của Người

2816. Trong Tân Ước, cùng một từ Basileia có thể dịch là “vương quyền” (danh từ trừu tượng), “nước” (danh từ cụ thể) hay “vương triều” (danh từ chỉ việc cai trị). Nước Thiên Chúa đang ở trước chúng ta. Nước đó đã gần đến trong Ngôi Lời nhập thể, đã được loan báo trong toàn bộ Tin Mừng, và đã đến trong sự chết và sống lại của Đức Kitô. Nước Thiên Chúa đến từ bữa Tiệc Ly và trong bí tích Thánh Thể, Nước đó đang ở giữa chúng ta. Nước đó sẽ đến trong vinh quang, khi Đức Kitô trao nó lại cho Cha Người:

“Có thể nói, Nước Thiên Chúa là chính Đức Kitô, Đấng chúng ta hằng ngày khát khao Người đến, và chúng ta mong mỏi việc Người ngự đến mau mau được tỏ hiện cho chúng ta. Đàng khác, cũng như Người là sự phục sinh bởi vì chúng ta được sống lại trong Người, thì cũng vậy, Người có thể được hiểu là Nước Thiên Chúa bởi vì chúng ta sẽ được hiển trị trong Người”[68].

 

Số 654, 1067-1068, 1085, 1362: Mầu Nhiệm Vượt Qua và phụng vụ

654. Trong mầu nhiệm Vượt Qua có hai khía cạnh: Đức Kitô, nhờ sự Chết của Người, giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, nhờ sự Phục Sinh của Người, mở đường cho chúng ta tiến vào cuộc sống mới. Trước hết, đây là sự công chính hoá, phục hồi chúng ta trong ân sủng của Thiên Chúa[69], để “cũng như Đức Kitô đã được sống lại từ cõi chết…, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6,4). Đời sống mới này cốt tại việc chiến thắng cái chết của tội lỗi, và việc tham dự mới vào ân sủng[70]. Đời sống mới hoàn thành ơn được làm nghĩa tử, bởi vì người ta trở thành anh em của Đức Kitô, như chính Chúa Giêsu gọi các môn đệ Người sau cuộc phục sinh của Người: “Về báo cho anh em của Thầy” (Mt 28,10)[71]. Anh em đây không phải do bản tính, nhưng do hồng ân của ân sủng, bởi vì ơn được làm nghĩa tử cho chúng ta thật sự thông phần vào sự sống của Người Con Một, sự sống đó đã được mạc khải trọn ven trong sự Phục Sinh của Người.

l067. “Công trình cứu chuộc nhân loại và tôn vinh Thiên Chúa cách trọn hảo này, đã được tiên báo trong Cựu Ước qua những công trình vĩ đại của Chúa, nay được Đức Kitô thực hiện, đặc biệt bằng mầu nhiệm Vượt Qua, nghĩa là bằng cuộc tử nạn hồng phúc, sự sống lại từ cõi chết và lên trời vinh hiển của Người; qua đó, ‘Người đã chết để tiêu diệt sự chết của chúng ta và sống lại đe tái lập sự sống’. Chính từ cạnh sườn Đức Kitô an nghỉ trên thập giá mà bí tích kỳ diệu của toàn thể Hội Thánh đã được phát sinh”[72]. Vì vậy, trong phụng vụ, Hội Thánh chủ yếu cử hành mầu nhiệm Vượt Qua, qua mầu nhiệm đo Đức Kitô đã thực hiện công trình cứu độ chúng ta.

1068. Hội Thánh loan báo và cử hành mầu nhiệm này của Đức Kitô trong phụng vụ của mình, để các tín hữu được sống nhờ mầu nhiệm đó và làm chứng cho mầu nhiệm đó trong trần gian:

“Nhờ phụng vụ, nhất là trong hy tế Thánh Thể của Chúa, ‘công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện’. Phụng vụ góp phần rất nhiều để giúp các tín hữu, qua cuộc sống mình, diễn tả và biểu lộ cho người khác mầu nhiệm Đức Kitô và bản chất đích thực của Hội Thánh”[73].

1085. Trong phụng vụ của Hội Thánh, Đức Kitô chủ yếu biểu lộ và hoàn thành mầu nhiệm Vượt Qua của Người. Trong cuộc đời trần thế, Chúa Giêsu đã loan báo mầu nhiệm Vượt Qua của Người bằng lời giảng dạy và tham dự trước vào mầu nhiệm đó bằng các hành động của Người. Khi Giờ của Người đến[74], Chúa Giêsu đã sống biến cố độc nhất của lịch sử, một biến cố không qua đi: Chúa Giêsu chịu chết, chịu mai táng, sống lại từ cõi chết và ngự bên hữu Chúa Cha “một lần cho mãi mãi” (Rm 6,10; Dt 7,27; 9,12). Đó là biến cố xác thực, đã xảy ra trong lịch sử của chúng ta, nhưng là biến cố độc nhất. Tất cả những biến cố khác của lịch sử đã xảy ra một lần rồi qua đi, chìm vào dĩ vãng. Trái lại, mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô không thể chỉ tồn tại trong quá khứ, bởi vì chính Người đã dùng cái chết của Người mà huỷ diệt sự chết, và bất cứ điều gì Đức Kitô là, bất cứ điều gì Người đã làm và đã chịu vì tất cả mọi người, những điều đó đều tham dự vào tính vĩnh cửu của Thiên Chúa, va như vậy đều vượt trên mọi thời gian và luôn là hiện tại. Biến cố Thập Giá và Phục Sinh vẫn đang tồn tại và lôi kéo mọi sự tới sự sống.

1362. Bí tích Thánh Thể là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, là hiện tại hoá hy tế duy nhất của Người, và dâng hy tế duy nhất đó cách bí tích, trong phụng vụ của Hội Thánh là Thân Thể Người. Trong tất cả các Kinh nguyện Thánh Thể, chúng ta đều thấy, sau các lời tường thuật về việc Chúa thiết lập Thánh Thể, một kinh nguyện được gọi là kinh Tưởng Niệm (anamnesis hoặc memoriale).

Đọc thêm:



[1] X. Ga 13,1.

[2] X. Mc 8,31-33; 9,31-32; 10,32-34.

[3] X. Mt 23,37a.

[4] X. Lc 19,41.

[5] X. Ga 6,15.

[6] X. Mt 21,1-11.

[7] X. Ga 18,37.

[8] X. Mt 21,15-16; Tv 8,3.

[9] X. Lc 19,38; 2,14.

[10] X. Rm 5,12; 1 Cr 15,56.

[11] X. Pl 2,7.

[12] X. Rm 8,3.

[13] X. Ga 8,46.

[14] X. Ga 8,29.

[15] X. Tv 22,1.

[16] X. 1 Ga 4,19.

[17] X. Rm 5,18-19.

[18] X. 2 Cr 5,15; 1 Ga 2,2.

[19] CĐ Carisia (năm 853), De libero arbitrio hominis et de praedestinatione, canon 4: Ds 624.

[20] X. Ga 6,38.

[21] X. Lc 12,50; 22,15; Mt 16,21-23.

[22] X. Lc 3,21; Mt 3,14-15.

[23] X. Ga 1,29.36.

[24] X. Is 53,7; Gr 11,19.

[25] X. Is 53,12.

[26] X. Xh 12,3-14; Ga 19,36; 1 Cr 5,7.

[27] X. Mc 10,45.

[28] X. Dt 2,10.17-18; 4,15; 5,7-9.

[29] X. Ga 18,4-6; Mt 26,53.

[30] X. Mt 16,20.

[31] X. 1 Cr 5,7.

[32] X. 1 Cr 11,25.

[33] X. Lc 22,19.

[34] X. CĐ Triđentinô, Sess. 22a, Doctrina de sanctissimo Missae Sacrificio, c. 2: DS 1752; Sess. 23a, Doctrina de sacramento Ordinis, c.1: DS 1764.

[35] X. Lc 22,20.

[36] X. Mt 26,42.

[37] X. Dt 5,7-8.

[38] X. Dt 4,15.

[39] X. Rm 5,12.

[40] X. Cv 3,15.

[41] X. Kh 1,18; Ga 1,4; 5,26.

[42] X. Mt 26,42.

[43] X. 1 Cr 5,7; Ga 8,34-36.

[44] X. Ga 1,29; 1 Pr 1,19.

[45] X. 1 Cr 11,25.

[46] X. Xh 24,8.

[47] X. Mt 26,28; Lv 16,15-16.

[48] X. Dt 10,10.

[49] X. 1 Ga 4,10.

[50] X. Ga 15,13.

[51] X. Ga 10,17-18.

[52] X. Dt 9,14.

[53] X. Is 53,10-12.

[54] X. CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 7: DS 1529.

[55] X. Ga 13,1.

[56] X. Gl 2,20; Ep 5,2.25.

[57] CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 1: DS 1529.

[58] X. Dt 5,9.

[59] Additio liturgica ad Hymnum “Vexilla Regis”: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v, 2 (Typis Polyglottis Vaticanis 1974) 313; v. 4 (Typis Polyglottis Vaticanis 1974) 1129.

[60] X. 1 Tm 2,5.

[61] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 22: AAS 58 (1966) 1042.

[62] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 22: AAS 58 (1966) 1043.

[63] X. Mt 16,24.

[64] X. 1 Pr 2,21.

[65] X. Mc 10,39; Ga 21,18-19; Cl 1,24.

[66] X. Lc 2,35.

[67] Thánh Rôsa Lima: P.Hansen, Vita mirabilis […] venerabilis sororis Rosae de sancta Maria Limensis (Romae 1664) 137.

[68] Thánh Cyprianô, De dominica Oratione, 13: CCL 3A, 97 (PL 4, 545).

[69] X. Rm 4,25.

[70] X. Ep 2,4-5; 1 Pr 1,3.

[71] X. Ga 20,17.

[72] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 5: AAS 56 (1964) 99.

[73] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 2: AAS 56 (1964) 97-98.

[74] X. Ga 13,1; 17,1.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét