Trang

Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2024

HUẤN DỤ LỄ THÁNH PHÊRÔ VÀ THÁNH PHAOLÔ (29.06.2024) - CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI

 

HUẤN DỤ LỄ THÁNH PHÊRÔ VÀ THÁNH PHAOLÔ (29.06.2024) - CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI

Vatican News
 
Vatican News (29.06.2024) - Sau khi dâng thánh lễ tại đền thờ thánh Phêrô, lúc 12 giờ trưa, Đức Thánh Cha đã đến cửa sổ Dinh Tông Toà để cùng đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô. Trước khi đọc kinh, ngài có một bài huấn dụ ngắn về hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Sau đây là toàn văn bài huấn dụ của Đức Thánh Cha:

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

KINH TRUYỀN TIN

LỄ THÁNH PHÊRÔ VÀ THÁNH PHAOLÔ

Quảng trường Thánh Phêrô

Thứ Bảy, ngày 29.06.2024

[hình và video]

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Hôm nay, lễ trọng kính hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, trong Tin Mừng Chúa Giêsu nói với ông Simon, mà Người đặt tên là Phêrô: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời” (Mt 16,19). Đây là lý do tại sao chúng ta thường thấy Thánh Phêrô được trình bày với hai chiếc chìa khóa lớn trong tay, như bức tượng ở Quảng trường này. Những chiếc chìa khóa đó tượng trưng cho thừa tác vụ thẩm quyền mà Chúa Giêsu đã giao phó cho ngài để phục vụ toàn thể Giáo hội. Bởi vì thẩm quyền là một việc phục vụ, thẩm quyền không phải là để được phục vụ, không phải độc tài.

Tuy nhiên, chúng ta hãy cẩn thận để hiểu rõ ý nghĩa của tất cả những điều này. Thật vậy, chìa khóa của Phêrô là chìa khóa Nước Trời, mà Chúa Giêsu không ví như một két sắt hay một căn phòng bọc thép, nhưng bằng những hình ảnh khác: một hạt giống nhỏ, một viên ngọc quý, một kho báu giấu kín, một nắm men ( xem Mt 13,1-33), nghĩa là, như một điều gì đó quý giá và giàu sang, nhưng đồng thời lại nhỏ bé và kín đáo. Vì thế, để đạt được điều đó, điều cần thiết không phải là kích hoạt các cơ chế và ổ khóa bảo mật nhưng là trau dồi những đức tính như kiên nhẫn, để tâm, kiên trì, khiêm tốn và phục vụ.

Vì vậy, sứ mạng mà Chúa Giêsu giao phó cho Phêrô không phải là chặn cửa nhà, chỉ cho phép một số ít khách được chọn vào nhà, nhưng là giúp mọi người tìm được lối vào, trung thành với Tin Mừng của Chúa Giêsu. Tất cả, tất cả đều có thể vào.

Và Phêrô sẽ làm như vậy trong suốt cuộc đời của mình, một cách trung thành, cho đến khi tử đạo, sau khi chính mình kinh nghiệm được, dù với những khó khăn và nhiều lần sa ngã, niềm vui và sự tự do nảy sinh từ cuộc gặp gỡ với Chúa. Trước tiên, để mở cửa cho Chúa Giêsu, ông phải hoán cải, và hiểu rằng thẩm quyền là một sự phục vụ, và điều đó không hề dễ dàng đối với ông. Chúng ta hãy nghĩ đến câu chuyện: ngay sau khi ông nói với Chúa Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô”, thì Thầy đã phải quở trách ông vì ông không chịu chấp nhận lời tiên báo về cuộc khổ nạn và cái chết của Người trên thập giá (xem Mt 16,21-23).

Phêrô nhận được chìa khóa Nước Trời không phải vì ông là người hoàn hảo, không, là một tội nhân; nhưng vì ông khiêm nhường và trung thực, và Chúa Cha đã ban cho ông một đức tin chân thực (x. Mt 16:17). Vì vậy, khi phó thác bản thân cho lòng thương xót của Thiên Chúa, Phêrô đã có thể nâng đỡ và củng cố anh em mình, như ông đã được yêu cầu (xem Lc 22,32).

Hôm nay chúng ta hãy tự hỏi: tôi có nuôi dưỡng, với ân sủng của Thiên Chúa, ước muốn bước vào Nước của Người, trở thành người bảo vệ chào đón người khác không? Và để làm được điều này, tôi có để mình được “mài dũa”, làm mềm mại, được uốn nắn bởi Chúa Giêsu và Thánh Thần của Người, Đấng sống trong chúng ta, mỗi người chúng ta không?

Xin Mẹ Maria, Nữ vương các Tông đồ, và các Thánh Phêrô và Phaolô, qua lời cầu bầu của các ngài, giúp chúng ta trở thành người hướng dẫn và nâng đỡ lẫn nhau đến gặp gỡ Chúa Giêsu.

Nguồn: vaticannews.va/vi

GIÁO LÝ VỀ CẦU NGUYỆN CỦA ĐỨC BÊNÊĐICTÔ XVI - BÀI 33: THÁNH PHÊRÔ

 



GIÁO LÝ VỀ CẦU NGUYỆN CỦA ĐỨC BÊNÊĐICTÔ XVI - BÀI 33: THÁNH PHÊRÔ

avatarBản dịch của Giuse Phan Văn Phi, O.Cist.
29/06/2024
Nhờ trung thành cầu nguyện liên lỉ, Chúa giải thoát chúng ta khỏi mọi xiềng xích, hướng dẫn chúng ta qua từng đêm tối bị giam cầm, đêm tối có thể làm hao mòn tâm hồn chúng ta.

WHĐ (29.06.2024) – Trong buổi Tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 09.05.2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI tiếp tục trình bày loạt bài giáo lý về cầu nguyện với bài thứ 33: Thánh Phêrô. Sau đây là toàn văn bài giáo lý của Đức Thánh Cha.

ĐỨC BÊNÊĐICTÔ XVI

TIẾP KIẾN CHUNG

Quảng trường Thánh Phêrô

Thứ Tư, 09 tháng 05 năm 2012

Anh chị em thân mến,

Tôi muốn bàn về bối cảnh cuối cùng của cuộc đời thánh Phêrô được kể trong Sách Công vụ Tông đồ: việc giam cầm của thánh nhân theo lệnh của vua Hêrôđê Ác-ríp-pa I, và việc thánh nhân được giải thoát qua sự can thiệp kỳ diệu của sứ thần Chúa, trong đêm trước cuộc xử án ngài ở Giêrusalem (x. Cv 12,1-17).

Một lần nữa, trình thuật được đánh dấu bằng lời cầu nguyện của Giáo hội. Quả thật, thánh Luca đã viết: “Đang khi ông Phêrô bị giam giữ như thế, thì Hội Thánh không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông” (Cv 12,5). Và sau khi được dẫn ra khỏi nhà tù một cách kỳ diệu, dịp ngài đến thăm nhà bà Maria, mẹ của Gioan Máccô, thánh Luca quả quyết rằng “ở đó có khá đông người đang tụ họp và cầu nguyện” (Cv 12,12). Việc thánh Phêrô bị giam cầm và được giải thoát, là việc kéo dài suốt đêm, được đặt giữa hai chú thích quan trọng này, cho thấy thái độ của cộng đoàn Kitô hữu khi phải đối diện với bắt bớ hiểm nguy. Sức mạnh lời cầu nguyện không ngừng của Giáo hội lên đến Thiên Chúa và Chúa nghe cùng thực hiện một cuộc giải thoát bất ngờ và không thể tưởng tượng nổi, bằng cách gửi thiên sứ của Người tới.

Câu chuyện nhắc lại các yếu tố chính của việc giải phóng dân Israel khỏi ách nô lệ Ai Cập, Lễ Vượt Qua của người Do Thái. Vì nó đã xảy ra trong biến cố căn bản này, ở đây cũng là hành động chính được thực hiện bởi thiên sứ của Chúa, là vị đã giải thoát thánh Phêrô. Và chính các hành động của vị Tông đồ, người được yêu cầu vội vã đứng lên, cột dây đai và thắt lưng, phản ảnh hành động của dân được tuyển chọn, trong đêm được giải thoát nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa khi họ được mời vội vàng ăn thịt chiên, cột dây thắt lưng, chân đi giày, tay cầm gậy, sẵn sàng rời khỏi Ai Cập (x. Xh 12,11). Như vậy, thánh Phêrô có thể kêu lên: “Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hêrôđê” (Cv 12,11). Nhưng thiên sứ không những chỉ nhắc lại việc giải thoát dân Israel khỏi tay Ai Cập, mà còn là sự phục sinh của Đức Kitô. Quả thật, Sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết: “Bỗng thiên sứ của Chúa đứng bên cạnh ông, và ánh sáng chói rực cả phòng giam. Thiên sứ đập vào cạnh sườn ông Phêrô, đánh thức ông và bảo: “Đứng dậy mau đi!”. Xiềng xích liền tuột khỏi tay ông” (Cv 12,7). Ánh sáng chiếu đầy phòng giam, chính hành động đánh thức vị Tông đồ, nhắc lại ánh sáng giải phóng của Lễ Vượt Qua của Chúa, là ánh sáng xua tan bóng tối của đêm đen và sự dữ. Sau cùng, lời mời gọi: “Khoác áo choàng vào và đi theo tôi!” (Cv 12,8), vang lên trong tâm hồn chúng ta lời mời gọi ban đầu của Đức Giêsu (x. Mc 1,17), được lặp lại sau khi phục sinh ở biển hồ Tibêria, nơi Chúa hai lần nói với thánh Phêrô rằng: “Hãy theo Thầy” (Ga 21,19-22). Đây là một lời mời gọi khẩn trương để “đi theo”: vì chỉ nhờ thoát ra khỏi chính mình để bắt đầu cuộc hành trình với Chúa và làm theo thánh ý Người, mà chúng ta mới bước vào sự tự do đích thực.

Tôi muốn nhấn mạnh đến một khía cạnh khác, nơi thái độ của thánh Phêrô trong tù. Quả thật, trong khi cộng đoàn Kitô hữu kiên trì cầu nguyện cho thánh Phêrô thì thánh nhân lại “đang ngủ” (Cv 12,6). Trong bối cảnh hiểm nguy cấp thời và nghiêm trọng như vậy, đó là một thái độ có vẻ kỳ cục, nhưng quả thật, thái độ này chứng tỏ sự an tâm, tin tưởng và tín thác vào Thiên Chúa, thánh nhân biết mình được bao bọc bằng sự liên đới cầu nguyện của dân chúng, và thánh nhân đã hoàn toàn tín thác trong tay Chúa. Như vậy, lời cầu nguyện của chúng ta phải chuyên cần, trong tình liên đới với tha nhân, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng biết chúng ta một cách mật thiết và chăm sóc cho chúng ta như Đức Giêsu đã dạy rằng: “Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ…” (Mt 10,30-31). Thánh Phêrô coi đêm bị giam cầm và được giải thoát khỏi nhà tù của mình như giây phút riêng để “đi theo” Chúa, Đấng đã xua tan bóng tối của đêm đen cùng tháo tung xiềng xích nô lệ và hiểm nguy của sự chết. Đây là một cuộc giải thoát phi thường, được kể lại bằng một vài đoạn diễn tả một cách chính xác: được thiên sứ hướng dẫn, bất chấp các lính canh gác, đi qua vọng canh thứ nhất, rồi vọng canh thứ hai, thiên sứ và ông tới trước cửa sắt thông ra phố. Cửa tự động mở ra trước mặt hai người (x. Cv 12,10). Thánh Phêrô và thiên sứ của Chúa cùng nhau đi một đoạn đường dài, đến khi hoàn hồn, vị Tông đồ mới nhận ra rằng Chúa thực sự đã giải thoát ông, và ý thức được như vậy, Phêrô đi đến nhà bà Maria, mẹ của ông Máccô, là nơi nhiều môn đệ tụ họp cầu nguyện; một lần nữa, phản ứng của cộng đoàn khi gặp khó khăn và nguy hiểm là tín thác vào Thiên Chúa, làm cho mối liên hệ của mình với Chúa thêm mãnh liệt hơn.

Ở đây tôi thấy có vẻ hữu ích để nhắc lại một hoàn cảnh khó khăn khác mà cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã trải qua. Thánh Giacôbê cho chúng ta biết trong thư của ngài. Đây là một cộng đoàn đang bị khủng hoảng, khó khăn, không phải vì bị bắt bớ nhưng vì có sự ghen tương và tranh chấp nội bộ (x. Gc 3,14-16). Và thánh Tông đồ thắc mắc tại sao có tình trạng này. Ngài tìm thấy hai lý do chính: thứ nhất là người ta để cho mình bị thống trị bởi những đam mê, bởi sự độc tài của ý muốn của họ, và bởi ích kỷ (x. Gc 4,1-2a), thứ hai là thiếu cầu nguyện – “anh em đã không xin” (Gc 4,2b) – hoặc sự hiện diện của một lời cầu nguyện mà không thể định nghĩa được như: “Anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc” (Gc 4,3). Theo thánh Giacôbê thì tình trạng này sẽ thay đổi nếu toàn thể cộng đoàn đồng lòng khi thưa chuyện với Thiên Chúa, nếu họ cầu nguyện chăm chỉ và đồng tâm. Quả thật, ngay cả những thảo luận về Thiên Chúa cũng có thể mất đi sức mạnh bên trong của nó, và việc làm nhân chứng cũng trở thành khô héo, nếu không được linh hoạt, nâng đỡ và đi kèm bởi cầu nguyện, bởi một cuộc đối thoại sống động liên tục với Chúa. Đây là một nhắc nhở quan trọng đối với chúng ta và cộng đoàn của chúng ta, dù nhỏ như gia đình, hoặc lớn hơn, như giáo xứ, giáo phận, và toàn thể Giáo hội. Điều này làm cho tôi nghĩ rằng trong cộng đoàn của thánh Giacôbê, họ đã cầu nguyện, nhưng cầu nguyện sai, vì họ đã chỉ cầu xin cho những ham muốn của họ. Chúng ta phải không ngừng học phải cầu nguyện thế nào, cầu nguyện thực sự, để hướng chúng ta về Thiên Chúa mà không hướng về những gì có lợi cho mình.

Trái lại, cộng đoàn đồng hành với thánh Phêrô khi ngài ở trong tù thật sự là một cộng đoàn hợp nhất cầu nguyện suốt đêm. Và một niềm vui không gì có thể ngăn cản nổi đã tràn ngập tâm hồn tất cả mọi người khi vị Tông đồ bất ngờ gõ cửa. Đó là niềm vui và sự kinh ngạc trước hành động của Thiên Chúa là Đấng nghe họ. Như vậy, lời cầu nguyện cho thánh Phêrô dâng lên từ Giáo hội và thánh nhân trở về trong Giáo hội để kể lại việc “sứ thần Chúa đã dẫn mình ra khỏi nhà tù thế nào” (Cv 12,17). Trong Giáo hội này, nơi mà ngài được đặt như một đá tảng (x. Mt 16,18), thánh Phêrô kể lại việc giải thoát trong “Lễ Phục Sinh” của ngài: ngài cảm nghiệm được rằng chính vì đi theo Đức Giêsu mà chúng ta tìm thấy tự do thật, chúng ta được bao bọc bởi ánh sáng Phục Sinh, và chính nhờ điều này mà chúng ta có thể làm nhân chứng, đến nỗi tử vì đạo, rằng Chúa là Đấng Phục Sinh, cùng thực sự “đã sai thiên sứ của Người và cứu thoát tôi khỏi tay Hêrôđê” (Cv 12,11). Việc tử đạo mà sau đó thánh Phêrô chịu ở Rôma sẽ kết hợp thánh nhân với Đức Kitô một cách vĩnh viễn, Đấng đã nói với Phêrô: khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn, để ám chỉ Phêrô phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa (x. Ga 21,18-19).

Anh chị em thân mến, câu chuyện về việc thánh Phêrô được giải thoát, mà thánh Luca kể lại, cho chúng ta biết rằng Giáo hội, cũng như mỗi người chúng ta, phải trải qua đêm đen thử thách, nhưng việc tỉnh thức cầu nguyện không ngừng sẽ nâng đỡ chúng ta. Tôi cũng thế, từ giây phút đầu tiên được chọn làm người kế vị thánh Phêrô, tôi luôn luôn cảm thấy được nâng đỡ bởi lời cầu nguyện của anh chị em, lời cầu nguyện của Giáo hội, đặc biệt là trong những lúc khó khăn. Tôi hết lòng cảm ơn anh chị em. Nhờ trung thành cầu nguyện liên lỉ, Chúa giải thoát chúng ta khỏi mọi xiềng xích, hướng dẫn chúng ta qua mỗi đêm tối bị giam cầm, đêm tối có thể làm hao mòn tâm hồn chúng ta. Người ban cho chúng ta bình an trong tâm hồn để đối diện với những khó khăn của cuộc sống, ngay cả việc bị chối bỏ, bị chống đối và bị bách hại. Câu chuyện của thánh Phêrô cho thấy sức mạnh của lời cầu nguyện. Mặc dù bị xiềng xích, thánh nhân vẫn cảm thấy an tâm tin tưởng với xác tín rằng mình không bao giờ cô độc: cộng đoàn đang cầu nguyện cho mình, Chúa đang ở gần mình; hay đúng hơn thánh nhân biết rằng “sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cr 12,9). Đồng tâm nhất trí cầu nguyện liên lỉ là một công cụ quý giá để khắc phục những thử thách có thể nảy sinh trên đường đời, bởi vì chính việc kết hợp cách mật thiết với Thiên Chúa cũng cho phép chúng ta được kết hợp mật thiết với tha nhân.

Trích từ: Tác phẩm "Cầu nguyện" của Đức Bênêđictô XVI

GIÁO LÝ VỀ CẦU NGUYỆN CỦA ĐỨC BÊNÊĐICTÔ XVI - BÀI 32: THÁNH STÊPHANÔ, VỊ TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI

 


GIÁO LÝ VỀ CẦU NGUYỆN CỦA ĐỨC BÊNÊĐICTÔ XVI - BÀI 32: THÁNH STÊPHANÔ, VỊ TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI

 Bản dịch của Giuse Phan Văn Phi, O.Cist.
 
Đền thờ mới đích thực, nơi Thiên Chúa ngự trị đó chính là Con của Người, Đấng đã mặc lấy xác phàm...

WHĐ (27.06.2024) – Trong buổi Tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 02.05.2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI tiếp tục trình bày loạt bài giáo lý về cầu nguyện với bài thứ 32: Thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi. Sau đây là toàn văn bài giáo lý của Đức Thánh Cha.

ĐỨC BÊNÊĐICTÔ XVI

TIẾP KIẾN CHUNG

Quảng trường Thánh Phêrô

Thứ Tư, 02 tháng 05 năm 2012

Anh chị em thân mến,

Trong những chương gần đây, chúng ta đã thấy trong kinh nguyện cá nhân và cộng đoàn, việc đọc và suy niệm Lời Chúa, mở ra cho chúng ta sự lắng nghe Thiên Chúa nói với chúng ta và đổ tràn ánh sáng để chúng ta hiểu hiện tại. Chương này tôi muốn nói đến tấm gương của thánh Stêphanô, một trong 7 Phó tế đầu tiên của Giáo hội, như sách Công vụ Tông đồ kể lại, vào giây phút chịu tử đạo của ngài đã cho thấy mối tương quan hiệu quả giữa Lời Chúa và việc cầu nguyện đã được minh chứng.

Thánh Stêphanô bị dẫn ra tòa án, trước Thượng Hội đồng Do Thái, vì bị cáo là đã tuyên bố “Chúa Giêsu sẽ phá hủy đền thờ và đảo lộn các tục lệ do Môsê truyền lại” (Cv 6,14). Trong cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã thực sự loan báo việc phá hủy Đền thờ Giêrusalem: “Các ông hãy phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Nhưng như thánh sử Gioan nhận xét rằng: “Nhưng đền thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói” (Ga 2,21-22).

Diễn từ của thánh Stêphanô trước Thượng Hội đồng Do Thái là một bài diễn văn dài nhất trong Sách Công vụ Tông đồ, và được triển khai dựa trên lời tiên tri vừa nói trên đây của Chúa Giêsu, Đấng là Đền thờ mới, khai mạc việc phụng tự mới và thay thế các hy tế cũ bằng việc dâng hiến chính mình Người trên Thập giá. Thánh Stêphanô muốn chứng tỏ sự vô căn cứ của những lời cáo buộc ngài là khuynh đảo luật Môsê và minh họa quan điểm của ngài về lịch sử cứu độ, về giao ước giữa Thiên Chúa và loài người. Thánh nhân đã đọc lại toàn bộ trình thuật Kinh Thánh, hành trình chứa đựng trong Kinh Thánh, để chứng tỏ rằng hành trình ấy dẫn đến “nơi” có sự hiện diện chung kết của Thiên Chúa chính là Đức Giêsu Kitô, đặc biệt là cuộc khổ nạn, cái chết và sự sống lại của Chúa.

Thánh Stêphanô cũng giải thích vai trò của bản thân làm môn đệ Đức Giêsu theo quan điểm ấy, ở chỗ theo Người cho đến chỗ tử đạo. Bởi vậy, việc suy niệm Kinh Thánh giúp cho thánh nhân có thể hiểu được sứ vụ của mình, đời sống của mình, các hoàn cảnh hiện tại của mình. Như thế, thánh nhân đã được ánh sáng của Thánh Thần soi dẫn, bởi mối liên hệ thân tình với Chúa, đến độ các phần tử thuộc Hội Đồng Do Thái thấy rằng dung nhan của thánh nhân “như thể dung nhan của một thiên thần” (Cv 6,15). Dấu hiệu của ơn trợ giúp thần linh này gợi lại dung nhan rạng ngời của Môsê khi ông xuống Núi Sinai sau cuộc hội ngộ cùng Thiên Chúa (x. Xh 34,29-35; 2Cr 3,7-8).

Trong bài nói của mình, thánh Stêphanô bắt đầu bằng ơn gọi của Ápraham, một khách lữ hành đi đến một miền đất được Thiên Chúa ấn định, nơi ông đã chiếm hữu như là một lời hứa mà thôi; sau đó ngài tiến sang Giuse, người bị anh em mình bán nhưng đã được Thiên Chúa hỗ trợ và giải thoát, sau cùng đến Môsê, vị đã trở thành dụng cụ của Thiên Chúa trong việc giải phóng dân Ngài nhưng đồng thời cũng là vị nhiều lần bị dân ấy loại trừ. Cái xuất phát từ những biến cố ấy được Kinh Thánh thuật lại, những biến cố cho thấy việc sốt sắng lắng nghe của thánh Stêphanô, đó là Thiên Chúa, Đấng không bao giờ ngừng tiến tới với con người, cho dù Ngài thường đụng phải tình trạng chống đối cứng lòng, và đó là những gì chân thực trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Bởi thế, ngài thấy toàn thể Cựu Ước là tiền thân cho việc xuất hiện của chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hóa thành nhục thể, Đấng – như các vị cha ông xưa – cũng gặp phải các thứ trở ngại, chối bỏ và chết chóc. Vì thế, thánh Stêphanô nói đến Giosuê, đến Đavít và đến Salômôn, những con người có liên hệ tới việc xây dựng đền thờ, và ngài kết luận bằng những lời của ngôn sứ Isaia (Is 66,1-2): “Chúa phán: Trời là ngai của Ta, còn đất là bệ dưới chân Ta. Các ngươi sẽ xây cho Ta nhà nào, và nơi nào, sẽ là chốn Ta nghỉ ngơi? Chẳng phải chính tay Ta đã làm nên mọi sự ấy sao?” (Cv 7,49-50).

Trong việc suy niệm của mình về tác động của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ, bằng việc nhấn mạnh đến chước cám dỗ thiên thu bất tận là loại trừ Thiên Chúa và hành động của Thiên Chúa, ngài khẳng định rằng Đức Giêsu là Đấng Công Chính được các ngôn sứ đã loan báo; nơi Người, chính Thiên Chúa đã tỏ mình ra hiện diện một cách đặc thù và vĩnh viễn: Đức Giêsu là “nơi chốn” thờ phượng đích thực. Thánh Stêphanô không chối bỏ tầm quan trọng của đền thờ qua một thời gian nào đó, nhưng thánh nhân đã nhấn mạnh rằng: “Đấng Tối Cao không ở trong những ngôi nhà do tay người phàm làm ra” (Cv 7,48).

Đền thờ mới đích thực, nơi Thiên Chúa ngự trị đó chính là Con của Người, Đấng đã mặc lấy xác phàm; chính nhân tính của Chúa Kitô, Đấng Phục Sinh, đã quy tụ các dân nước lại và liên kết họ nơi bí tích Mình Máu Thánh Người. Câu nói đền thờ “không do tay người phàm làm ra” cũng được thấy nơi thần học của thánh Phaolô, cũng như nơi Thư gửi tín hữu Do Thái; thân thể Đức Giêsu, một thân thể Người đã mặc lấy để hiến mình như một hy lễ đền tội, thân thể của Đức Giêsu chính là đền thờ mới của Thiên Chúa, nơi hiện diện của Thiên Chúa hằng sống; trong Đức Kitô, Thiên Chúa và loài người, Thiên Chúa và thế gian thực sự giao hòa với nhau: Đức Giêsu nhận lấy nơi mình tất cả tội lỗi của nhân loại để ném vào tình yêu của Thiên Chúa cũng như để “làm bùng cháy” trong tình yêu này. Đến với Thập giá, đi vào mối hiệp thông với Đức Kitô, nghĩa là đi vào sự biến đổi này. Đó là bước vào mối liên hệ với Thiên Chúa, bước vào đền thờ đích thực.

Sự sống và những lời nói của thánh Stêphanô đột nhiên bị ngắt quãng khi ngài bị ném đá, thế nhưng cuộc tử đạo của ngài đã hoàn tất đời sống và sứ điệp của ngài: thánh nhân đã trở nên một với Đức Kitô, việc suy niệm của ngài về tác động của Thiên Chúa trong lịch sử, về Lời hằng sống, lời được nên trọn nơi Đức Giêsu, được dự phần vào cùng lời nguyện cầu của Thập giá. Quả thật, trước khi trút hơi thở cuối cùng, thánh nhân đã kêu lên rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con” (Cv 7,59), những lời thánh nhân đã lặp lại Thánh vịnh 31 (Tv 31,6), và bắt chước những lời cuối cùng Đức Giêsu trên Thập giá: “Lạy Cha, Con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Sau hết, như Đức Giêsu, thánh Stêphanô đã kêu lớn tiếng trước mặt những kẻ đang ném đá mình: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (Cv 7,60). Chúng ta cần lưu ý rằng, nếu như lời cầu nguyện này của thánh Stêphanô phản ảnh lời cầu nguyện của Đức Giêsu, thì nó được ngỏ cùng một người nào khác, vì lời nguyện cầu này được ngỏ cùng Chúa; đó là Đức Giêsu, Đấng mà Stêphanô chiêm ngưỡng thấy hiển vinh ở bên hữu Chúa Cha: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” (Cv 7,55).

Anh chị em thân mến, chứng tá của thánh Stêphanô mang lại cho chúng ta một số chỉ dẫn về việc cầu nguyện và cuộc sống của chúng ta. Chúng ta có thể tự hỏi: từ đâu mà vị tử đạo đầu tiên kín múc được sức mạnh để đương đầu với những người bách hại Ngài và đạt tới sự hiến chính mạng sống mình như vậy? Câu trả lời thật đơn giản: thưa từ quan hệ của Ngài với Thiên Chúa, từ sự hiệp thông của thánh nhân với Chúa Kitô, từ sự suy niệm về lịch sử cứu độ, từ việc nhìn thấy hoạt động của Thiên Chúa, đạt tới tột đỉnh trong Chúa Giêsu Kitô. Cả kinh nguyện của chúng ta cũng phải được nuôi dưỡng bằng việc lắng nghe Lời Chúa, trong sự hiệp thông với Chúa Giêsu và Giáo hội của Người.

Một yếu tố thứ hai nữa, thánh Stêphanô thấy báo trước hình ảnh và sứ vụ của Chúa Giêsu, trong lịch sử tương quan yêu thương giữa Thiên Chúa và loài người. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đền thờ không do tay con người làm ra, trong đó sự hiện diện của Thiên Chúa Cha trở nên gần gũi đến độ đi vào trong xác thể của chúng ta để đem Thiên Chúa cho chúng ta, để mở cửa trời cho chúng ta. Vì thế, kinh nguyện của chúng ta phải là một sự chiêm ngắm Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha, Đức Giêsu như là Chúa tể đời sống hằng ngày của tôi. Nơi Người, dưới sự hướng dẫn của Thánh Linh, cả chúng ta cũng có thể thân thưa với Thiên Chúa, kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, với lòng tín thác con thảo, ngỏ lời với một người Cha yêu thương vô biên.

Trích từ: Tác phẩm "Cầu nguyện" của Đức Bênêđictô XVI