Trang

Thứ Năm, 27 tháng 6, 2024

Bài giảng ĐTC -lễ thánh Phêrô và Phaolô

 


  
Bài giảng ĐTC -lễ thánh Phêrô và Phaolô
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29.06.2023): Chúa Giêsu là ai đối vơi tôi?

Thánh Phêrô và Phaolô, hai vị Tông đồ đầy lòng yêu mến Chúa, hai trụ cột đức tin của Giáo hội. Khi chúng ta chiêm ngắm cuộc đời của các ngài, hôm nay Tin Mừng chất vấn chúng ta với câu hỏi mà Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ của mình: “Phần các con, các con nói gì? Đối với các con, Thầy là ai?” (Mt 16, 15). Đó là câu hỏi căn bản, quan trọng nhất: Chúa Giêsu là ai đối với tôi? Chúa Giêsu là ai trong cuộc đời tôi? Chúng ta hãy xem hai Tông đồ đã trả lời thế nào.
Câu trả lời của thánh Phêrô có thể được tóm tắt trong một từ: theo. Phêrô đã sống theo Chúa. Hôm đó, tại Xêdarê Philipphê, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ. Phêrô đã trả lời bằng một lời tuyên xưng đức tin thật đẹp: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16); một câu trả lời không chê vào đâu được, rõ ràng, chính xác, có thể nói là một câu trả lời “giáo lý” hoàn hảo. Nhưng câu trả lời này là kết quả của một cuộc hành trình: chỉ sau khi đã sống cuộc mạo hiểm thú vị bước theo Chúa, sau khi đã bước đi với Người và theo sau Người trong một thời gian dài, mà Phêrô mới đạt tới sự trưởng thành thiêng liêng này, vốn dẫn ngài, nhờ ân sủng, nhờ ân sủng thuần túy, đến một lời tuyên xưng đức tin rõ ràng như thế.
Quả thế, thánh sử Mátthêu cho chúng ta biết rằng mọi sự bắt đầu trên bờ biển Galilê, khi Chúa Giêsu đi ngang qua và đã gọi ngài, cùng với Anrê, anh của ngài; và “lập tức bỏ lưới, các ông đi theo Người” (Mt 4, 20). Phêrô đã bỏ tất cả để theo Chúa. Và Tin Mừng nhấn mạnh “lập tức”. Phêrô không nói với Chúa Giêsu rằng mình phải suy nghĩ về điều đó, ngài không tính toán xem điều đó có phù hợp với mình không, ngài không tìm cớ để trì hoãn quyết định; ngài đã bỏ lưới mà đi theo Người, không đòi hỏi bất kỳ an toàn nào trước. Ngài phải khám phá mọi sự từng ngày sau đó, bằng cách đi theo Chúa Giêsu và bước theo sau Người. Và không phải ngẫu nhiên mà những lời cuối cùng, được thuật lại trong các Tin Mừng, mà Chúa Giêsu nói với ngài là “Con hãy theo Thầy” (Ga 21, 22), nghĩa là đi theo Người.
Thánh Phêrô nói với chúng ta rằng đối với câu hỏi “Chúa Giêsu là ai đối với tôi?”, trả lời bằng một công thức giáo thuyết không thể chê vào đâu được thì chưa đủ, thậm chí không phải bằng một ý tưởng mà chúng ta đưa ra cho mình một lần cho tất cả. Không. Chính bằng cách đi theo Chúa mà chúng ta học biết Người mỗi ngày. Chính bằng cách trở thành môn đệ của Người và đón nhận Lời Người mà chúng ta trở nên bạn hữu của Người và cảm nghiệm được tình yêu của Người biến đổi chúng ta. Đối với chúng ta cũng vậy, điều “lập tức” này vang vọng lại. Nếu chúng ta có thể trì hoãn nhiều điều trong cuộc sống, thì việc đi theo Chúa Giêsu không thể được trì hoãn; đối với điều này, chúng ta không thể do dự, chúng ta không thể tìm lý do thoái thác. Chúng ta hãy lưu ý vì một số lý do thoái thác được khoác lên mình tấm áo thiêng liêng, như khi chúng ta nói “Tôi không xứng đáng”, “Tôi không có khả năng”, “tôi, tôi có thể làm gì được?” Đó là mánh khóe của ma quỷ vốn cướp đi niềm tin của chúng ta vào ân sủng của Thiên Chúa, bằng cách làm cho chúng ta tin rằng mọi sự sẽ tùy thuộc vào khả năng của chúng ta.
Tách mình ra khỏi những thứ an toàn của chúng ta – những thứ an toàn trần thế -, ngay lập tức, và đi theo Chúa Giêsu mỗi ngày: đó là chỉ dẫn mà Phêrô đưa ra cho chúng ta hôm nay bằng cách mời gọi chúng ta trở thành một Giáo-hội-đi-theo. Một Giáo-hội-đi-theo. Một Giáo hội muốn trở thành môn đệ của Chúa và thành người tôi tớ khiêm nhường của Tin Mừng. Chỉ bằng cách này, Giáo hội mới có thể đối thoại với mọi người, và trở thành một nơi đồng hành, gần gũi và hy vọng cho những người nữ người nam của thời đại chúng ta. Chỉ bằng cách này, ngay cả người ở xa nhất, thường đang nhìn chúng ta cách nghi ngờ hay dửng dưng, cuối cùng sẽ có thể nhận ra cùng với Đức Giáo hoàng  Bênêđíctô: “Giáo hội là nơi gặp gỡ với Con Thiên Chúa hằng sống và, như thế, Giáo hội là nơi gặp gỡ giữa chúng ta” (Bài giảng Chúa Nhật II Mùa Vọng, ngày 10/12/2006).
Và bây giờ, chúng ta hãy đến với vị Tông đồ của các dân tộc. Nếu câu trả lời của Phêrô hệ tại ở việc đi theo, thì câu trả lời của Phaolô hệ tại ở việc loan báo, loan báo Tin Mừng. Đối với ngài cũng thế, mọi sự bắt đầu bằng ân sủng, theo sáng kiến của Chúa. Trên đường đi Damas, khi ngài đang kiêu hãnh bách hại các Kitô hữu, bị rào cản bởi xác tín tôn giáo của mình, thì Chúa Giêsu phục sinh đến gặp ngài và làm ngài mù lòa bằng ánh sáng của Người. Đúng hơn, nhờ ánh sáng này, Saolô nhận ra mình bị mù như thế nào. Bị nhốt kín trong sự kiêu ngạo về việc giữ luật cứng nhắc của mình, ngài khám phá ra nơi Chúa Giêsu sự hoàn thành mầu nhiệm cứu độ.
Giờ đây, ngài coi tất cả những an toàn của về mặt con người và tôn giáo của mình là “rác rưởi” so với sự cao cả là biết được Chúa Kitô (x. Pl 3, 7-8). Như thế, Phaolô đã cống hiến đời mình để khi khắp đất liền và biển khơi, các thành phố và làng mạc, không quản ngại khó khăn và bách hại, để loan báo Chúa Giêsu-Kitô. Nhìn vào câu chuyện của ngài, dường như càng loan báo Tin Mừng, ngài càng hiểu biết Chúa Giêsu. Việc loan báo Lời Chúa cho người khác cho phép ngài thấm nhập vào chiều sâu của mầu nhiệm Thiên Chúa, Đấng mà ngài đã viết “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng !” (1Cr 9, 16); Đấng mà ngài tuyên xưng: “Đối với tôi, sống là Chúa Kitô”.
Do đó, thánh Phaolô nói với chúng ta rằng đối với câu hỏi “Chúa Giêsu là ai đối với tôi?”, chúng ta không trả lời bằng lòng sùng đạo sâu kín riêng tư để mặc chúng ta yên thân, mà không rung động bởi mối quan tâm mang Tin Mừng đến cho người khác. Thánh Tông đồ dạy cho chúng ta rằng chúng ta càng lớn lên trong đức tin và trong sự hiểu biết mầu nhiệm Chúa Kitô hơn nữa khi chúng ta loan báo và làm chứng cho Người. Và điều đó luôn xảy ra: khi chúng ta loan báo Tin Mừng, chúng ta được loan báo Tin Mừng. Đó là một kinh nghiệm hằng ngày: khi chúng ta loan báo Tin Mừng, chúng ta được loan báo Tin Mừng. Lời Chúa mà chúng ta mang đến cho người khác sẽ trở lại với chúng ta bởi vì, chúng ta cho đi bao nhiêu, chúng ta sẽ nhận được nhiều hơn bấy nhiêu (x. Lc 6, 38). Và điều đó cũng cần thiết cho Giáo hội ngày nay: đặt việc loan báo ở trung tâm. Trở thành một Giáo hội không bao giờ mệt mỏi lặp đi lặp lại với chính mình: “Đối với tôi, sống là Chúa Kitô” và “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng”. Một Giáo hội cần loan báo Tin Mừng như cần dưỡng khí để thở; một Giáo hội không thể sống mà không thông truyền vòng tay yêu thương của Thiên Chúa và niềm vui của Tin Mừng.
Thưa anh chị em, chúng ta hãy mừng thánh Phêrô và Phaolô. Các ngài đã trả lời câu hỏi căn bản của cuộc sống – Chúa Giêsu là ai đối với tôi? – bằng cách đi theo Chúa Kitô và loan báo Tin Mừng. Thật đẹp khi lớn lên như một Giáo hội đi theo, như một Giáo hội khiêm tốn không bao giờ coi là đã thủ đắc được việc tìm kiếm Chúa. Thật đẹp khi trở thành một Giáo hội hướng ra bên ngoài, không tìm thấy niềm vui của mình nơi những thứ của thế gian nhưng trong việc loan báo Tin Mừng cho thế giới, để gieo vào lòng mọi người câu hỏi về Thiên Chúa. Mang Chúa Giêsu đến khắp mọi nơi, với lòng khiêm tốn và niềm vui: trong thành Rôma của chúng ta, trong các gia đình của chúng ta, trong các mối tương quan và các khu phố, trong xã hội dân, trong Giáo hội, trong chính trị, trên toàn thế giới, đặc biệt là ở những nơi có nghèo đói, suy thoái, sự gạt ra bên lề xã hội.
Và, hôm nay, khi một số anh em Tổng Giám mục của chúng ta lãnh nhận dây Pallium, một dấu hiệu của sự hiệp thông với Giáo hội Rôma, tôi muốn nói với họ: anh em hãy trở thành những tông đồ như thánh Phêrô và Phaolô. Anh em hãy trở thành những người môn đệ đi theo và những tông đồ loan báo, hãy mang lại vẻ đẹp của Tin Mừng đến mọi nơi, cho toàn thể Dân Thiên Chúa. Và cuối cùng, tôi muốn gởi lời chào thân ái đến Phái đoàn của Tòa Thượng phụ Đại kết, được gởi đến bởi người Anh rất yêu quý là Đức Bartôlômêô. Xin cảm ơn sự hiện diện của quý vị, xin cảm ơn: chúng ta hãy cùng nhau tiến bước trong việc đi theo và loan báo Lời Chúa, bằng cách lớn lên trong tình huynh đệ. Xin thánh Phêrô và Phaolô đồng hành và cầu bầu cho tất cả chúng ta.
Nguồn: xuanbichvietnam.net (30.06.2023)
 
Đức Phanxicô, Huấn dụ Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29.06.2023): Phêrô là tảng đá, hòn đá, và là viên sỏi
Anh chị em thân mến, chào anh chị em !
Trong bài Tin Mừng hôm nay, lễ trọng kính hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, Chúa Giêsu nói với ông Simon, một trong Nhóm Mười Hai: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16, 18). Phêrô là một danh xưng có nhiều nghĩa: nó có thể có nghĩa là tảng đá, hòn đá, hay đơn giản là viên sỏi. Và, trên thực tế, nếu chúng ta nhìn vào cuộc đời của thánh Phêrô, chúng ta khám phá ra một chút về cả ba khía cạnh này nơi tên của ngài.
Thánh Phêrô là một tảng đá: có nhiều lúc ngài mạnh mẽ và kiên định, chân thật và quảng đại. Ngài bỏ mọi sự để đi theo Chúa Giêsu (x. Lc 5, 11); ngài nhận ra Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống (Mt 16, 16); ngài nhảy xuống biển để bơi nhanh về phía Đấng Phục Sinh (x. Ga 21, 7). Rồi, ngài mạnh dạn và can đảm rao giảng Chúa Giêsu trong Đền Thờ, trước và sau khi bị bắt và bị đánh đòn (x. Cv 3, 12-26; 5, 25-42). Truyền thống cũng cho chúng ta biết về sự kiên định của ngài khi đối diện với cuộc tử đạo, vốn đã xảy ra ngay tại đây (x. Clement of Rome, Thư gởi tín hữu Côrintô, V, 4).
Tuy nhiên, thánh Phêrô cũng là một hòn đá: ngài là một tảng đá và cũng là một hòn đá, có thể nâng đỡ người khác – một hòn đá mà, được xây dựng trên Chúa Kitô, có tác dụng nâng đỡ anh chị em trong việc xây dựng Giáo hội (x. 1P 2, 4-8; Êp 2, 19-22). Chúng ta cũng khám phá ra điều này trong cuộc đời của ngài: ngài đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu cùng với Anrê, anh của ngài, Giacôbê và Gioan (x. Mt 4, 18-22); ngài xác nhận ước muốn của các Tông đồ đi theo Chúa (x. Ga 6, 68); ngài thúc đẩy và khuyến khích việc cùng nhau loan báo Tin Mừng (x. Cv 15, 7-11). Ngài là “hòn đá”, là một điểm tựa đáng tin cậy cho toàn thể cộng đoàn.
Thánh Phêrô là một tảng đá, ngài là một hòn đá, và thậm chí ngài cũng là một viên sỏi: sự nhỏ bé của ngài thường lộ ra. Đôi khi ngài không hiểu Chúa Giêsu đang làm gì (x. Mc 8, 32-33; Ga 13, 6-9); khi đối mặt với việc Chúa Giêsu bị bắt, thánh Phêrô đã để cho sự sợ hãi lấn át mình và phủ nhận Chúa Giêsu, rồi hoán cải và khóc lóc cay đắng (x. Lc 22, 54-62), nhưng ngài không tìm thấy can đảm để đứng dưới thập giá. Ngài nhốt mình trong Phòng Trên cùng với những người khác vì sợ bị bắt (x. Ga 20, 19). Ở Antiôkia, ngài cảm thấy xấu hổ khi ở với những người ngoại giáo trở lại – và thánh Phaolô đã kêu gọi ngài về điều này và yêu câu ngài phải nhấn quán về điều này (x. Gl 2, 11-14); cuối cùng, theo truyền thống “Quo vadis”, ngài cố gắng chạy trốn khi đối diện với cuộc tử đạo, nhưng gặp Chúa Giêsu trên đường và lấy lại can đảm để quay lại.
Đây là tất cả trong Phêrô: sức mạnh của tảng đá, độ tin cậy của hòn đá, và sự nhỏ bé của một viên sỏi. Ngài không phải là một siêu nhân – ngài là một người như chúng ta, như mọi người chúng ta, nói “xin vâng” cách quảng đại với Chúa Giêsu trong sự bất toàn của ngài. Nhưng đó chính xác là như thế – cũng như nơi thánh Phaolô và nơi tất cả các thánh – dường như chính Thiên Chúa là Đấng làm cho Phêrô mạnh mẽ nhờ ân sủng của Người, Đấng kết hợp chúng ta với tình yêu của Người, và tha thứ cho chúng ta bằng lòng thương xót của Người. Và chính với nhân tính đích thực này mà Chúa Thánh Thần hình thành nên Giáo hội. Thánh Phêrô và Phaolô là những con người thực. Và ngày nay, hơn bao giờ hết, chúng ta cần những con người thực.
Bây giờ, chúng ta hãy nhìn vào bên trong và tự hỏi mình một số câu hỏi từ tảng đá, từ hòn đá và từ viên sỏi. Từ tảng đá: Trong chúng ta có nhiệt thành, sốt sắng, say mê vì Chúa và Tin Mừng không? Hay có cái gì dễ vỡ vụn? Và rồi, chúng ta có phải là những hòn đá, không phải là nhũng hòn đá gây vấp ngã, nhưng là loại đá mà Giáo hội có thể được xây dựng? Chúng ta có làm việc cho hiệp nhất không, chúng ta có quan tâm đến người khác không, đặc biệt là người yếu thế nhất? Cuối cùng, suy nghĩ về viên sỏi: chúng ta có ý thức được sự nhỏ bé của mình không? Và trên hết, trong sự yếu đuối của mình, chúng ta có phó thác bản thân cho Chúa, Đấng hoàn thành những điều vĩ đại qua những người khiêm nhường và chân thành không?
Xin Đức Maria, Nữ Vương các thánh Tông đồ, giúp chúng ta bắt chước sức mạnh, lòng quảng đại và sự khiêm nhường của thánh Phêrô và Phaolô.
Nguồn: xuanbichvietnam.net (30.06.2023)
 
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29.06.2022): Nhanh chóng trỗi dậy và chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa
Anh chị em thân mến,
Chứng tá của hai vị Tông đồ vĩ đại là Phêrô và Phaolô hôm nay một lần nữa trở nên sống động trong phụng vụ của Giáo Hội. Thiên thần của Chúa nói với thánh Phêrô, đang bị vua Hêrôđê giam tù: "Trỗi dậy mau đi! (Cv 12,7); còn thánh Phaolô, đã nói khi nhìn lại toàn bộ cuộc đời và việc tông đồ của ngài: "Tôi đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa" (2 Tm 4,7). Chúng ta hãy suy tư về hai câu - "nhanh chóng trỗi dậy"  "chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa" - và hỏi xem chúng gợi ý điều gì cho cộng đồng Kitô hữu ngày nay, khi đang trong tiến trình thượng hội đồng.
Mau chóng trỗi dậy và theo Chúa Kitô đến nơi Người muốn
Trước hết, sách Công vụ Tông đồ thuật lại với chúng ta về đêm thánh Phêrô được giải thoát khỏi xiềng xích của ngục tù. Một thiên thần của Chúa vỗ vào cạnh sườn của ngài khi ngài đang ngủ, "đánh thức ngài và nói rằng: Hãy nhanh chóng trỗi dậy" (12,7). Thiên thần đánh thức ngài dậy và yêu cầu ngài đứng lên. Cảnh này gợi nhớ Lễ Phục sinh, bởi vì chúng ta tìm thấy ở đây hai động từ được sử dụng trong các trình thuật về việc sống lại: đánh thức và trỗi dậy. Có nghĩa là thiên thần đã đánh thức thánh Phêrô khỏi giấc ngủ của sự chết và thúc đẩy ngài trỗi dậy, tức là sống lại, đi ra ngoài ánh sáng, để mình được Chúa dẫn bước đi qua mọi cánh cửa đóng kín dọc trên đường (x. c. 10). Hình ảnh này rất có ý nghĩa đối với Giáo hội. Cũng thế, chúng ta, các môn đệ của Chúa và là cộng đoàn Kitô hữu, được kêu gọi mau chóng trỗi dậy để bước vào mầu nhiệm của sự sống lại và để mình được Chúa dẫn dắt trên những con đường mà Người muốn chỉ cho chúng ta.
Sự tầm thường trong đời sống thiêng liêng
Chúng ta vẫn còn gặp nhiều hình thức phản kháng trong nội tâm, những điều ngăn cản chúng ta lên đường. Đôi khi, với tư cách là Giáo hội, chúng ta bị thắng vượt bởi sự lười biếng và chúng ta thích ngồi và suy ngẫm về một ít điều chắc chắn mà chúng ta đang có, thay vì trỗi dậy để hướng tầm nhìn về những chân trời mới, về phía biển rộng mở. Chúng ta thường như thánh Phêrô bị xiềng xích, bị cầm tù bởi tập quán, sợ hãi trước những thay đổi và bị trói buộc vào xiềng xích của thói quen hàng ngày. Nhưng theo cách này, chúng ta sa vào sự tầm thường trong đời sống thiêng liêng, chúng ta có nguy cơ "tà tà vừa đủ", ngay cả trong đời sống mục vụ. Lòng nhiệt thành của chúng ta với sứ vụ phai dần và thay vì là một dấu hiệu của sức sống và sự sáng tạo, cuối cùng chúng ta trở nên dửng dưng và thờ ơ. Sau đó, dòng chảy mạnh mẽ của sự mới mẻ và sự sống, đó là Tin Mừng trong tay chúng ta - như Cha de Lubac viết - trở thành một đức tin "rơi vào chủ nghĩa hình thức và thói quen, [...] một tôn giáo của các nghi lễ và lòng sùng kính, của đồ trang sức và niềm an ủi tầm thường... Một Kitô giáo giáo sĩ trị, hình thức, buồn tẻ và cứng cỏi "(Bi kịch của Chủ nghĩa nhân văn vô thần, Milan 2017, 103-104).
Giáo hội của tất cả mọi người
Thượng Hội đồng mà chúng ta đang tiến hành hiện nay kêu gọi chúng ta trở thành một Giáo hội trỗi dậy, một Giáo hội không co cụm trong chính mình, nhưng có khả năng tiến về phía trước, bỏ lại sau lưng những nhà tù của chính mình và bắt đầu gặp gỡ thế giới, với lòng can đảm mở rộng các cánh cửa.
Một Giáo hội không có xiềng xích và bức tường, trong đó mọi người có thể cảm thấy được chào đón và đồng hành, một Giáo hội nơi nghệ thuật lắng nghe, đối thoại và tham gia được vun đắp dưới thẩm quyền duy nhất của Chúa Thánh Thần. Giáo hội tự do và khiêm nhường, "nhanh chóng trỗi dậy" và không chần chừ hay né tránh những thách đố của thời đại hiện nay. Một Giáo Hội không nằm lỳ trong những hàng rào thánh thiêng của mình, nhưng được thúc đẩy bởi lòng nhiệt thành rao giảng Tin Mừng và mong muốn gặp gỡ và đón nhận mọi người.
Chúng ta đừng quên từ này: tất cả mọi người, mọi người. Anh em hãy đi đến ngã tư đường và mang tất cả mọi người, người mù, người câm điếc, què quặt, bệnh nhân, người công chính, kẻ tội lỗi: tất cả mọi người, tất cả! Lời này của Chúa phải vang lên, vang dội trong tâm trí và trái tim: tất cả mọi người, trong Hội Thánh có chỗ cho mọi người. Và nhiều khi chúng ta trở thành một Giáo hội rộng mở nhưng lại gạt bỏ dân chúng, lên án họ. Hôm qua có một người đã nói với tôi rằng: "Đối với Giáo hội, đây không phải là lúc giải tán, mà là lúc chào đón".
Mỗi người thực hiện sứ vụ được uỷ thác
Trong bài đọc thứ hai, chúng ta nghe lời Thánh Phaolô, những lời ngài khẳng định sau khi nhìn lại cả cuộc đời mình: “Tôi đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa” (2Tm 4,7). Thánh Tông đồ đang đề cập đến vô số tình huống, một số được đánh dấu bởi sự bắt bớ và đau khổ, trong đó ngài đã không tiếc thân mình trong việc rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu. Giờ đây, vào cuối đời, ngài thấy rằng một cuộc "chiến đấu" quyết liệt vẫn đang diễn ra trong lịch sử, vì nhiều người không sẵn sàng chấp nhận Chúa Giêsu, chỉ thích theo đuổi lợi ích của mình và theo các vị thầy khác. Thánh Phaolô đã chiến đấu trong các cuộc chiến đấu của chính ngài và giờ đây đã hoàn tất cuộc chạy đua, ngài yêu cầu Timôthêô và các anh em trong cộng đoàn tiếp tục công việc của ngài bằng sự quan tâm, rao giảng và dạy dỗ. Mỗi người, tóm lại, thực hiện sứ vụ được uỷ thác cho họ và phải làm phần việc của mình.
Tôi có thể làm gì cho Giáo hội?
Lời khuyên của thánh Phaolô cũng là lời sự sống cho chúng ta; nó giúp chúng ta nhận ra rằng, trong Giáo hội, tất cả chúng ta đều được kêu gọi trở thành môn đệ truyền giáo và đóng góp phần của chính mình. Đây là hai câu hỏi xuất hiện trong đầu tôi. Đầu tiên là: Tôi có thể làm gì cho Giáo hội? Không phàn nàn về Giáo hội, nhưng dấn thân cho Giáo hội. Tham gia với niềm đam mê và sự khiêm tốn: với niềm đam mê, bởi vì chúng ta không được tiếp tục là những khán giả thụ động; khiêm tốn, bởi vì dấn thân trong cộng đoàn không bao giờ có nghĩa là chiếm vị trí trung tâm, coi bản thân mình tốt hơn và không để người khác đến gần. Đó là ý nghĩa của một Giáo hội hiệp hành: mọi người đều tham gia, không có cá nhân nào thay thế cho người khác hoặc ở trên người khác. Không có Kitô hữu hạng nhất hay hạng nhì, tất cả đều được kêu gọi.
Tiếp tục "cuộc chiến chính nghĩa"
Tham gia cũng có nghĩa là tiếp tục "cuộc chiến chính nghĩa" mà thánh Phaolô nói. Vì đó là một "cuộc chiến", vì việc rao giảng Tin Mừng không bao giờ là trung lập; nó không để mọi thứ theo cách của chúng; nó không chấp nhận thỏa hiệp với suy nghĩ của thế giới này, nhưng thay vào đó, thắp sáng ngọn lửa của vương quốc Thiên Chúa giữa sự thống trị của quyền lực con người, cái ác, bạo lực, tham nhũng, bất công và bị gạt ra ngoài lề xã hội. Kể từ khi Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, và trở thành người thay đổi lịch sử, "một cuộc chiến quan trọng giữa sự sống và cái chết, giữa hy vọng và tuyệt vọng, giữa cam chịu điều tồi tệ nhất và đấu tranh cho điều tốt nhất đã bắt đầu. Một cuộc chiến sẽ không có hiệp định đình chiến cho đến khi hoàn toàn đánh bại tất cả các thế lực thù hận và hủy diệt (C.M. MARTINI, Bài giảng lễ Phục Sinh, 4/4/1999).
Giáo hội có thể cùng nhau làm điều gì để giúp cho thế giới mà chúng ta đang sống nhân đạo hơn?
Vậy câu hỏi thứ hai là: Là Giáo hội, chúng ta có thể cùng nhau làm điều gì để giúp cho thế giới mà chúng ta đang sống nhân đạo hơn, công bình và liên đới hơn, cởi mở hơn với Thiên Chúa và tình huynh đệ giữa loài người? Chắc chắn chúng ta không được rút lui vào những nhóm Giáo hội của chúng ta và tiếp tục gắn chặt vào một số cuộc tranh luận không có kết quả của chúng ta, nhưng thay vào đó, hãy giúp đỡ lẫn nhau để được dậy men trong khối bột thế giới này. Cùng nhau, chúng ta có thể và phải tiếp tục chăm sóc sự sống con người, bảo vệ thụ tạo, phẩm giá của công việc, các vấn đề của gia đình, chăm sóc người già và tất cả những người bị bỏ rơi, bị từ chối hoặc bị đối xử khinh miệt. Nói cách khác, chúng ta được kêu gọi trở thành một Giáo hội thúc đẩy văn hóa quan tâm và cảm thông đối với những người dễ bị tổn thương. Một Giáo Hội chiến đấu chống lại mọi hình thức tham nhũng và mục nát, bao gồm cả những thành phố của chúng ta và những nơi chúng ta thường lui tới, để niềm vui của Tin Mừng có thể tỏa sáng trong đời sống của mọi người. Đây là "cuộc chiến tốt" của chúng ta.
Được kêu gọi "nhanh chóng trỗi dậy"
Thưa anh chị em, hôm nay, theo một truyền thống tốt đẹp, tôi đã làm phép các dây Pallium cho các Tổng Giám mục chính toà được bổ nhiệm trong thời gian gần đây, nhiều người trong số các ngài hiện diện trong Thánh lễ này. Trong sự hiệp thông với thánh Phêrô, các ngài được kêu gọi "nhanh chóng trỗi dậy" để phục vụ như những lính canh bảo vệ đàn chiên và "chiến đấu tốt", không bao giờ đơn độc, nhưng cùng với tất cả đoàn dân thánh thiện và trung thành của Thiên Chúa.
Chào đón Phái đoàn của Tòa Thượng phụ
Tôi thân ái chào đón Phái đoàn của Tòa Thượng phụ do người anh em thân yêu của tôi là Đức Thượng phụ Bartolomeo cử đến. Cảm ơn sự hiện diện của quý vị ở đây! Chúng ta hãy cùng nhau hành trình, bởi vì chỉ cùng nhau, chúng ta mới có thể là hạt giống của Tin Mừng và là chứng nhân của tình huynh đệ.
Xin thánh Phêrô và thánh Phaolô chuyển cầu cho chúng ta, cho thành Roma, cho Giáo hội và cho toàn thế giới của chúng ta. Amen.
Vào cuối Thánh lễ, Đức Thánh Cha đã trao các dây Pallium cho các tân tổng giám mục. Các ngài sẽ chính thức nhận dây này từ Sứ thần Toà Thánh trong một Thánh lễ được cử hành tại giáo phận của các ngài.
Nguồn: vaticannews.va/vi
 
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29.06.2021): Tự do vì đã được giải thoát
Anh chị em thân mến,
Hai vị Tông Đồ vĩ đại của Tin Mừng và hai trụ cột của Giáo hội: Thánh Phêrô và thánh Phaolô. Hôm nay chúng ta mừng kính các ngài. Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn hai vị nhân chứng đức tin tuyệt vời này. Trọng tâm câu chuyện của các ngài không phải là năng khiếu và khả năng của chính các ngài nhưng là cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, Đấng đã thay đổi cuộc đời các ngài. Các ngài đã sống kinh nghiệm tình yêu chữa lành và giải thoát và vì thế các ngài trở thành các tông đồ và các thừa tác viên giải phóng tha nhân.
Thánh Phêrô và thánh Phaolô được tự do vì các ngài được giải thoát. Chúng ta hãy suy nghĩ về điểm mấu chốt này.
Thánh Phêrô, người ngư phủ ở Galilê, trên hết, được giải thoát khỏi cảm giác bất xứng và cay đắng của thất bại nhờ tình yêu thương vô điều kiện của Chúa Giêsu. Dù là một ngư phủ chuyên nghiệp, đã nhiều lần giữa đêm đen, thánh nhân nếm trải mùi vị cay đắng của sự thất bại vì không đánh bắt được gì (x. Lc 5, 5; Ga 21, 5) và trước những tấm lưới trống rỗng, ngài bị cám dỗ buông mái chèo; dù mạnh mẽ và nóng nảy, ngài thường bị khuất phục trước nỗi sợ hãi (x. Mt 14, 30); mặc dù là môn đệ nhiệt thành của Chúa, ngài vẫn tiếp tục suy luận theo kiểu thế gian và không thể hiểu và chấp nhận ý nghĩa của Thập giá Chúa Kitô (x. Mt 16,22); dù ngài nói sẵn sàng hiến mạng sống vì Chúa, nhưng chỉ cần bị nghi ngờ là người của Chúa cũng đủ khiến ngài sợ hãi và chối bỏ Thầy (x. Mc 14, 66-72).
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã yêu thánh Phêrô một cách nhưng không và đặt cược vào ngài. Chúa khuyến khích ngài đừng bỏ cuộc, hãy thả lưới xuống biển lần nữa, bước đi trên mặt nước, can đảm nhìn vào sự yếu đuối của mình, bước theo Chúa trên con đường Thập giá, hy sinh mạng sống vì anh em mình, chăn dắt đoàn chiên của Người. Vì vậy, Chúa đã giải thoát ngài khỏi nỗi sợ hãi, khỏi những tính toán chỉ dựa trên sự chắc chắn của con người, khỏi những lo lắng của thế gian, ban cho ngài can đảm để mạo hiểm và niềm vui cảm nhận mình là người chài lưới con người. Chúa kêu gọi chính ngài củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Người đã trao cho ngài – như chúng ta đã nghe trong Tin Mừng – chìa khóa để mở những cánh cửa dẫn đến cuộc gặp gỡ với Chúa và quyền năng để trói buộc và cởi mở: để ràng buộc anh chị em của mình với Chúa Kitô và tháo gỡ những nút thắt và xiềng xích trong cuộc sống của họ. (x. Mt 16:19).
Tất cả những điều đó có thể xảy ra chỉ vì – như chúng ta đã nghe trong bài đọc một – chính Phêrô đã được giải thoát. Xiềng xích trói buộc ngài đã bị phá vỡ, và cũng như trong đêm dân Israel được giải thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập, ngài được lệnh phải vội vàng trỗi dậy, thắt lưng và xỏ dép để ra đi. Sau đó, Chúa mở các cánh cửa trước mặt ngài (xem Cv 12:7-10).
Do đó, lịch sử của thánh Phêrô là lịch sử của giải thoát, bẻ gãy xiềng xích, ra khỏi ngục tù giam kín ngài, như lịch sử của dân Israel được giải phóng khỏi ách nô lệ của Ai Cập. Thánh Phêrô sống kinh nghiệm của lễ Vượt Qua: Chúa đã giải thoát ngài.”
Cả thánh Phaolô cũng cảm nghiệm được sự giải thoát của Chúa Kitô. Ngài đã được giải phóng khỏi chế độ nô lệ áp bức nhất, của cái tôi của ngài, và khỏi Saulô, tên của vị vua đầu tiên của Israel, để trở thành Phaolô, có nghĩa là “nhỏ bé”. Ngài cũng được giải thoát khỏi lòng nhiệt thành tôn giáo đã khiến ngài nhiệt thành bảo vệ các truyền thống của cha ông (xem Gl 1, 14) và bách hại các Kitô hữu khốc liệt. Việc tuân giữ tôn giáo chính thức và kiên quyết bảo vệ truyền thống, thay vì giúp ngài mở lòng đón nhận tình yêu của Chúa và của anh em, lại khiến ngài trở nên cứng nhắc. Thiên Chúa đã giải thoát ngài khỏi điều này; tuy thế Chúa không miễn chuẩn cho ngài khỏi những yếu đuối và khó khăn, và những điều này giúp cho sứ vụ loan báo Tin Mừng của ngài đạt nhiều thành quả hơn: những vất vả của việc tông đồ, đau bệnh thể lý (x. Gl 4, 13-14); bạo lực và bách hại, đắm tàu, đói khát (x. 2Cr 12, 7-10).
Như thế thánh Phaolô hiểu rằng “những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” (1Cr 1,27); chúng ta có thể làm mọi việc nhờ Người, Đấng ban sức mạnh cho chúng ta (x. Pl 4, 13); và không điều gì có thể tách chúng ta khỏi tình yêu của Người (x. Rm 8,35-39). Vì lý do này, vào cuối đời – như chúng ta đã nghe trong bài đọc thứ hai – thánh Phaolô đã có thể nói: “Chúa đã phù hộ tôi” và “Ngươi sẽ giải thoát tôi khỏi mọi đòn tấn công của ma quỷ” (2 Tim 4:17). Thánh Phaolô đã có kinh nghiệm về lễ Vượt Qua: Chúa đã giải thoát ngài.
Anh chị em thân mến, Giáo hội nhìn vào hai vĩ nhân của đức tin này và nhìn thấy hai vị Tông đồ đã giải phóng sức mạnh của Tin Mừng trên toàn thế giới. Các ngài làm được như vậy, chỉ vì trước hết các ngài được giải thoát nhờ cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô. Người không phán xét các ngài, không sỉ nhục các ngài, nhưng yêu thương, gần gũi chia sẻ cuộc sống của các ngài, nâng đỡ các ngài bằng lời cầu nguyện của chính Người và đôi khi nhắc nhở các ngài để giúp các ngài hoán cải. Chúa Giêsu cũng làm như thế với chúng ta: Người bảo đảm với chúng ta về sự gần gũi của Người bằng cách cầu nguyện cho chúng ta và chuyển cầu với Chúa Cha; và nhẹ nhàng trách móc khi chúng ta mắc sai lầm, để chúng ta tìm thấy sức mạnh để đứng dậy và tiếp tục cuộc hành trình.
Chúng ta cũng đã được Chúa chạm đến; chúng ta cũng đã được giải thoát. Tuy nhiên, chúng ta luôn cần được giải phóng, bởi vì chỉ có một Giáo hội tự do mới là một Giáo hội đáng tin cậy. Giống như thánh Phêrô, chúng ta được kêu gọi để được giải thoát khỏi cảm giác thất bại khi đối mặt với việc đánh cá đôi khi không thành công của chúng ta; để thoát khỏi nỗi sợ hãi đang làm chúng ta bất động và khiến chúng ta sợ hãi, khép kín trong sự chắc chắn của chúng ta và cướp đi sự can đảm của lời ngôn sứ. Giống như thánh Phaolô, chúng ta được kêu gọi để thoát khỏi thói hư vinh giả hình; thoát khỏi sự cám dỗ khoe mình với sức mạnh của thế gian hơn là với sự yếu đuối dành chỗ cho Thiên Chúa; thoát khỏi một tôn giáo khiến chúng ta cứng nhắc và thiếu linh hoạt; thoát khỏi những liên kết mơ hồ với quyền lực và nỗi sợ bị hiểu lầm và tấn công.
Hai thánh Phêrô và Phaolô để lại cho chúng ta hình ảnh một Giáo hội được giao phó trong tay chúng ta, nhưng được Chúa hướng dẫn bằng lòng trung thành và tình yêu dịu dàng. Một Giáo hội yếu đuối, nhưng lại tìm thấy sức mạnh trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Một Giáo hội được giải phóng tự do và có khả năng mang lại cho thế giới sự tự do mà tự thế giới không thể mang lại: tự do khỏi tội lỗi và sự chết, khỏi sự cam chịu, khỏi cảm giác bất công và mất hy vọng làm cuộc sống của những người trong thời đại của chúng ta không xứng với nhân phẩm.
Chúng ta hãy hỏi: các thành phố của chúng ta, xã hội của chúng ta và thế giới của chúng ta cần tự do ở mức độ nào? Bao nhiêu xiềng xích phải được phá vỡ và bao nhiêu cánh cửa đã đóng bấy lâu nay cần được mở! Chúng ta có thể giúp mang lại sự tự do này, nhưng chỉ khi trước tiên chúng ta để cho mình được tự do bởi sự mới mẻ của Chúa Giê-su, và bước đi trong sự tự do của Chúa Thánh Thần.
Hôm nay các tân Tổng Giám mục nhận dây Pallium. Đây là dấu hiệu hiệp nhất với thánh Phêrô. Dấu hiệu này nhắc lại sứ mệnh của người mục tử, người hiến mạng sống mình vì đàn chiên. Chính khi hiến mạng sống của mình, mục tử được tự do, trở thành phương tiện mang lại tự do cho anh chị em của mình.
Cũng hôm nay, chúng ta cũng có được sự tham dự của Phái đoàn từ Tòa Thượng Phụ Constantinople, đại diện cho Đức Thượng phụ Bartolomeo. Sự hiện diện của anh em là một dấu hiệu quý giá của sự hiệp nhất trên hành trình giải thoát chúng ta khỏi những khoảng cách khiến các tín đồ trong Chúa Kitô chia rẽ như một cách gương mù gương xấu. Xin cảm ơn sự hiện diện của anh em.
Nguồn: vaticannews.va/vi
 
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29.06.2020): Hiệp nhất và lời tiên tri
Trong ngày lễ mừng kính hai Thánh Tông đồ của thành Roma này, tôi xin chia sẻ với anh chị em hai từ chính: hiệp nhất và lời tiên tri.
Hiệp nhất
Chúng ta mừng lễ hai nhân vật rất khác nhau: Thánh Phêrô, một ngư dân suốt ngày với thuyền và lưới, Thánh Phaolô là một nhà trí thức Pharisêu giảng dạy ở các hội đường. Khi thi hành sứ vụ, Thánh Phêrô giảng dạy cho người Do Thái, và Thánh Phaolô rao giảng cho dân ngoại. Khi có bất đồng ý kiến họ đã tranh luận sôi nổi, Thánh Phaolô đã không ngần ngại viết như vậy trong thư gửi tín hữu Galata (Gal 2,11). Nói chung họ là hai người rất khác nhau nhưng họ xem nhau như là anh em như vẫn thường xảy ra trong các gia đình rất gắn bó với nhau, nơi có thể xảy ra nhiều tranh luận nhưng luôn yêu thương nhau. Sự gắn bó giữa Thánh Phêrô và Phaolô không đến từ những khuynh hướng tự nhiên, nhưng từ Thiên Chúa. Thiên Chúa không ra lệnh cho chúng ta phải thích nhau nhưng là yêu thương nhau. Chính Thiên Chúa đã kết hiệp chúng ta nhưng không làm cho chúng ta nên giống hệt nhau.
Nguồn mạch sự hiệp nhất: cầu nguyện
Bài đọc I của Thánh lễ hôm nay cho chúng ta thấy nguồn mạch của sự hiệp nhất. Bài đọc tường thuật lại kinh nghiệm của Giáo Hội tiên khởi trong thời gian bị khủng hoảng: Vua Hêrôđê giận dữ, sự bách hại kinh hoàng các tín hữu, Thánh Giacôbê Tông đồ đã bị giết. Thánh Phêrô bị bắt. Cộng đoàn như rắn mất đầu, mọi người đều lo sợ cho mạng sống của mình. Tuy nhiên, ngay chính lúc bi thảm đã không có người nào trốn chạy, không người nào tìm cách cứu mình, không người nào bỏ rơi người khác, nhưng họ hiệp nhất cùng nhau trong lời cầu nguyện. Họ đã tìm được sức mạnh từ lời cầu nguyện. Cũng nhờ cầu nguyện sự hiệp nhất của họ mạnh hơn bất cứ sự đe dọa nào. Bản văn viết: “Đang khi ông Phêrô bị giam giữ như thế, thì Hội Thánh không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông” (Cv 12,5). Hiệp nhất là một nguyên tắc được kích hoạt bằng cầu nguyện, bởi vì cầu nguyện cho phép Chúa Thánh Thần can thiệp vào đời sống của chúng ta và giúp chúng ta mở rộng lòng đón nhận niềm hy vọng, cầu nguyện giúp thu ngắn những khoảng cách và giữ chặt chúng ta với nhau trong những lúc khó khăn.
Trong khó khăn không than phiền và đổ lỗi, nhưng cầu nguyện
Chúng ta hãy cùng quan tâm đến một khía cạnh khác: trong giây phút khó khăn, không ai than phiền về sự xấu xa, bách hại của Hêrôđê. Không có ai có những lời xúc phạm đến Hêrôđê. Chúng ta thì trái lại, chúng ta đã quen lăng mạ những người có trách nhiệm. Đối với các tín hữu tiên khởi, than phiền được xem như là một việc vô ích, nhàm chán. Các Kitô hữu không mất thời gian để than phiền thế giới, xã hội, than phiền về mọi thứ không đúng. Than phiền không thay đổi được gì. Chúng ta hãy nhớ rằng than vãn là cánh cửa thứ hai bị đóng lại trước Chúa Thánh Thần, như tôi đã nói điều này trong ngày Lễ Ngũ Tuần: Thứ nhất là thần tượng chính mình, thứ hai là thái độ duy nạn nhân và thứ ba là thái độ bi quan. Ba thái độ này đóng cửa lòng mình trước Chúa Thánh Thần.
Các Kitô hữu đã không đổ lỗi, họ cầu nguyện. Trong cộng đoàn đó không ai nói: “Nếu Phêrô cẩn thận hơn thì chúng ta đã không bị rơi và hoàn cảnh như thế này”. Không, họ không than phiền Phêrô; họ cầu nguyện cho ông. Họ không nói xấu sau lưng Phêrô; họ thưa chuyện với Thiên Chúa.
Phép lạ của cầu nguyện: xiềng xích mở toang
Ngày nay chúng ta có thể tự hỏi: “Chúng ta có đang bảo vệ sự hiệp nhất bằng lời cầu nguyện không? Chúng ta có đang cầu nguyện cho nhau không?” Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta cầu nguyện nhiều hơn và than phiền ít hơn? Sự việc sẽ xảy ra giống như Phêrô trong tù: nhiều cánh cửa đang đóng kín sẽ được mở ra, nhiều xiềng xích sẽ bị vỡ tung. Chúng ta cùng cầu xin ơn biết cầu nguyện cho nhau. Thánh Phaolô đã khuyến khích các Kitô hữu cầu nguyện cho tất cả mọi người, nhất là các nhà lãnh đạo (1Tm 2, 1-3). Đó là nhiệm vụ Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta. Chúng ta có thực hiện điều đó không? Hay chúng ta chỉ nói và thế là đủ? Thiên Chúa mong đợi nơi chúng ta khi cầu nguyện thì cũng biết quan tâm đến những người không suy nghĩ như chúng ta, những người từ chối không muốn tiếp xúc với chúng ta, những người chúng ta cảm thấy rất khó tha thứ. Cầu nguyện là phương cách duy nhất để mở toang xiềng xích. Chỉ có cầu nguyện mới dẫn đến sự hiệp nhất.
Dây Pallium sự hiệp nhất giữa đàn chiên và Vị Mục tử
Hôm nay các dây Pallium được làm phép, rồi được trao cho Niên trưởng Hồng y đoàn và các Tổng Giám mục đã được bổ nhiệm trong năm vừa qua. Dây Pallium nhắc nhở sự hiệp nhất giữa đàn chiên và Vị Mục tử, giống Đức Giêsu mang chiên trên vai để không bao giờ xa rời chiên. Hôm nay, theo truyền thống tốt đẹp chúng ta liên kết cách đặc biệt Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople. Thánh Phêrô và Thánh Anrê là hai anh em, chúng ta trao đổi những cuộc viếng thăm huynh đệ vào những dịp lễ khi có thể. Chúng ta làm điều đó không chỉ vì lịch sự xã giao nhưng là hành trình cùng nhau tiến tới mục đích Thiên Chúa đã vạch ra cho chúng ta: đó là sự hiệp thông trọn vẹn. Hôm nay, vì đại dịch phái đoàn của Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople không thể đến đây được, nhưng khi cầu nguyện trước mộ Thánh Phêrô tôi cảm nhận trong tâm hồn sự hiện diện gần gũi với người anh em yêu dấu Batolomeo. Mọi người đang ở đây với chúng ta.
Lời tiên tri
Từ thứ hai là lời tiên tri, Đức Giêsu đã thách đố các tông đồ. Ngài hỏi Phêrô: “Còn anh, anh bảo thầy là ai?” (Mt 16, 25). Lúc đó Phêrô nhận ra rằng Thiên Chúa không quan tâm người khác nghĩ thế nào, nhưng là cá nhân ông, người quyết định theo Ngài.
Cuộc đời Thánh Phaolô cũng đã thay đổi sau cuộc thách đố tương tự khi Đức Giêsu hỏi: “Saolo, Saolo, sao ngươi bắt bớ ta?” (Cv 9, 4). Thiên Chúa đã đánh động vào nơi sâu thẳm của tâm hồn Phaolô: không chỉ ngã xuống trên đường Damas, Ngài đã đánh đổ tính tự phụ của Phaolô về lòng nhiệt thành sống đạo. Kết quả là, từ Saolo kiêu hãnh đến Phaolô, có nghĩa là “nhỏ bé”.
Chỉ những người mở lòng với những điều bất ngờ của Thiên Chúa mới có thể trở thành tiên tri
Những thách đố và hoán cải đã được tiếp theo bằng những lời tiên tri: “Anh là Phêrô nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16, 18); và với Phaolô: “người ấy là lợi khí ta đã chọn để mang danh ta đến trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và con cái Israel” (Cv 9, 15). Lời tiên tri được công bố khi chúng ta chấp nhận những thử thách bởi Thiên Chúa, không phải khi chúng ta giữ mọi sự im lặng trong tầm kiểm soát của mình. Nó không nảy sinh từ những suy nghĩ của tôi, từ con tim đóng kín của tôi. Nó nảy sinh nếu chúng ta để cho Thiên Chúa thách đố chúng ta. Khi Tin Mừng đảo lộn những điều chắc chắn, thì những lời tiên tri được loan báo. Chỉ những người mở lòng với những điều bất ngờ của Thiên Chúa mới có thể trở thành tiên tri. Thánh Phêrô và thánh Phaolô là những vị tiên tri nhìn thấy tương lai. Thánh Phaolô là người đầu tiên tuyên xưng Chúa Giêsu là “Đức Kitô, là con của Thiên Chúa hằng Sống” (Mt 16,16). Thánh Phaolô, người đã tiên báo trước về cái chết của mình: “Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chính Chúa sẽ trao phần thưởng đó cho tôi” (2Tm 4, 8).
Thế giới cần những lời tiên tri chân thật
Ngày nay chúng ta cần những lời tiên tri, những lời tiên tri chân thật, không phải những người nói huyên thuyên về những điều không thể thực hiện được, nhưng là những chứng nhân Tin Mừng với những điều có thể. Điều cần thiết không phải là biểu diễn những phép lạ, nhưng là đời sống diễn tả phép lạ của tình yêu Thiên Chúa. Không phải sức mạnh có tính thuyết phục, nhưng là sự chân thật thẳng thắn trong thái độ, quan điểm và lời nói. Không phải nói huyên thuyên nhưng là cầu nguyện. Không phải giảng thuyết nhưng là phục vụ. Không phải lý thuyết nhưng là chứng nhân. Chúng ta không cần phải trở nên giàu, đúng hơn là yêu người nghèo. Tìm kiếm không phải sự công nhận của thế giới này, nhưng là niềm vui của thế giới sẽ đến. Không phải những kế hoạch mục vụ, nhưng là những mục tử hiến mạng vì đàn chiên: những người yêu Thiên Chúa. Đó là cách Thánh Phêrô và Thánh Phaolô rao giảng Đức Giêsu, người yêu Thiên Chúa say đắm, cuồng nhiệt. Trước khi bị đóng đinh vào thập giá, Thánh Phêrô không nghĩ đến mình nhưng nghĩ đến Đức Giêsu và tự cho mình không xứng đáng chết như Đức Giêsu, Phêrô đã xin dựng ngược thập giá. Trước khi bị chém đầu, Phaolô chỉ nghĩ đến việc hiến dâng mạng sống; Phaolô đã viết rằng ông muốn “đổ máu làm lễ tế” (Tm 4, 6). Đó là lời tiên tri. Và nó đã thay đổi lịch sử.
Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã nói tiên tri về Thánh Phêrô rằng: “Anh là Đá, trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Lời tiên tri cũng tương tự cho chúng ta. Nó được tìm thấy trong quyển cuối của Kinh Thánh, nơi Đức Giêsu hứa với các nhân chứng trung thành của Ngài: “một viên sỏi trắng, trên đó có khắc một tên mới” (Kh 2,17). Cũng như Thiên Chúa đã đổi Simon thành Phêrô, Ngài cũng kêu gọi mỗi người chúng ta để biến đổi chúng ta trở thành những viên đá sống động để xây dựng và làm mới lại một Giáo Hội và đổi mới nhân loại. Những người phá hủy sự hiệp nhất và dập tắt lời tiên tri luôn luôn tồn tại, vào lúc này, Thiên chúa tin tưởng chúng ta và Ngài hỏi bạn: “Con có muốn trở thành người xây dựng sự hiệp nhất không? Con có muốn trở thành tiên tri của Nước Trời ở thế gian này không?” Hãy để chúng ta bị thách thức bởi Đức Giêsu và can đảm trả lời: “Vâng, con muốn!”
Nguồn: vaticannews.va/vi
 
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29.06.2019): Thánh Phêrô và Thánh Phaolô là những chứng nhân
Hai tông đồ Phêrô và Phaolô ở trước chúng ta như những nhân chứng. Họ không bao giờ mệt mỏi loan báo và sống cho sứ mạng, trong hành trình từ vùng đất của Chúa Giêsu đến Roma. Tại đây các ngài đã làm chứng cho ​​đến cùng, hiến chính mạng sống như những vị tử đạo. Nếu chúng ta đi đến gốc rễ chứng tá của các ngài, chúng ta sẽ thấy nơi họ là chứng nhân của cuộc sốngchứng nhân của sự tha thứ và chứng nhân của Chúa Giêsu.
Chứng nhân của cuộc sống
Dẫu cho, cuộc sống của họ đã không sạch sẽ và chính trực. Cả hai từ bản chất đều nhiệt thành trong việc giữ đạo: Phêrô, một môn đệ từ giây phút đầu tiên (x. Ga 1, 41), Phaolô thậm chí “không mệt mỏi với các truyền thống của cha ông” (Gal 1, 14). Nhưng họ đã phạm phải những sai lầm to lớn: Phêrô đã chối Chúa, Phaolô đã bắt bớ Hội thánh của Chúa. Cả hai đều trở nên trần trụi trước những câu hỏi của Chúa Giê-su: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” (Ga 21,15); “Phaolô, Phaolô, tại sao anh lại bắt bớ ta? (Cv 9,4). Phêrô rất buồn trước những câu hỏi của Chúa Giêsu, Phaolô bị mù bởi những lời của Ngài. Chúa Giêsu gọi họ bằng tên và thay đổi cuộc sống của họ. Và sau tất cả những phiêu lưu, Ngài tin tưởng họ, hai tội nhân hoán cải. Chúng ta có thể tự hỏi: tại sao Chúa không cho chúng ta hai nhân chứng chính trực, với một hồ sơ sạch sẽ, với một cuộc sống không nhiễm uế? Tại sao lại là Phêrô, khi Gioan đã có rồi? Tại sao là Phaolô mà không phải là Banaba?
Điểm khởi đầu của đời sống Kitô hữu không phải là họ xứng đáng
Có một giáo huấn tuyệt vời ở đây: điểm khởi đầu của đời sống Kitô hữu không phải là xứng đáng; với những người nghĩ rằng họ tốt, Chúa có thể làm được rất ít. Khi chúng ta coi bản thân mình tốt hơn những người khác, đó là khởi đầu của sự kết thúc. Chúa không thực hiện phép lạ với người nghĩ rằng mình công chính, nhưng với người biết rằng họ đang thiếu thốn. Ngài không bị cuốn hút bởi tài năng của chúng ta, đó không phải là lý do Ngài yêu chúng ta. Ngài yêu chúng ta như hiện tại của chúng ta và Ngài tìm kiếm những ai không tự cho mình là đủ, nhưng sẵn sàng mở lòng ra với Ngài. Vì thế, Phêrô và Phaolô trong suốt trước Chúa. Lập tức Phêrô nói với Chúa Giêsu: “Con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). Phaolô viết rằng “tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ” (1 Cr 15, 9).
Sự tha thứ của Chúa: bí mật giúp người tội lỗi tiến bước
Trong cuộc sống, họ giữ sự khiêm nhường này cho đến cùng: Phêrô bị đóng đinh trong tư thế lộn ngược, vì ngài không nghĩ mình xứng đáng để bắt chước Chúa của mình; Phaolô luôn thích tên gọi mình, Phaolô có nghĩa là “nhỏ” và quên đi tên gọi khai sinh, Saulo, tên vị vua đầu tiên của dân tộc Israel. Họ hiểu rằng sự thánh thiện không nằm ở chỗ nâng mình lên, nhưng là hạ mình xuống: không phải là leo lên trong bảng xếp hạng, mà là mỗi ngày phó thác sự nghèo khó của mình cho Chúa, Đấng làm những điều vĩ đại nơi những ai khiêm nhường. Đâu là bí mật giúp họ tiến bước nơi sự yếu đuối? Là sự tha thứ của Chúa.
Nhân chứng của sự tha thứ
Do đó, chúng ta tái khám phá nơi họ là nhân chứng của sự tha thứ. Nơi những cú ngã, họ đã khám phá ra sức mạnh của lòng thương xót Chúa, điều đã làm cho họ được tái sinh. Trong sự tha thứ của Ngài, họ đã tìm thấy một sự bình an và niềm vui không thể đánh mất. Với những gì họ đã trải qua, họ có thể đã sống với cảm giác tội lỗi: bao nhiêu lần Phêrô đã nghĩ về việc chối Chúa của mình! Bao nhiêu xáo trộn đối với Phaolô, người đã làm điều tồi tệ với rất nhiều người vô tội! Đối với con người, họ đã thất bại. Nhưng họ đã gặp một tình yêu lớn hơn những thất bại của họ, một sự tha thứ mạnh mẽ đến nỗi chữa lành cảm giác tội lỗi. Chỉ khi chúng ta trải nghiệm được sự tha thứ của Chúa, chúng ta mới thực sự tái sinh. Tại đó người ta mới bắt đầu lại, từ sự tha thứ; tại đó chúng ta tìm lại được chính mình: trong Bí Tích Hoà Giải.
Nhân chứng của Chúa Giêsu
Là nhân chứng của sự sống, nhân chứng của sự tha thứ, và trên hết Phêrô và Phaolô là nhân chứng của Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng hôm nay, Ngài hỏi: “Dân chúng nói Con Người là ai?” Các câu trả lời gợi lên những nhân vật trong quá khứ: “Gioan Tẩy Giả, Elia, Giêrêmia hoặc một trong số các tiên tri”. Họ là những người phi thường, nhưng tất cả đã chết. Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô” (x. Mt 16,13.14.16). Đấng Kitô, nghĩa là Mêsia - Đấng Thiên Sai. Đó là một từ không nói về quá khứ, mà là tương lai: Mêsia là Đấng được trông đợi, người mới, Đấng mang đến cho thế giới sự xức dầu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không phải là quá khứ, mà là hiện tại và tương lai. Không phải là một nhân vật xa xôi để nhớ, nhưng là Đấng mà Phêrô nói với ngôi thứ hai: Thầy là Đấng Kitô. Đối với Phêrô, Chúa Giêsu hơn cả một nhân vật trong lịch sử, Ngài là con người của sự sống: là người mới, không phải là người đã thấy; người mới của tương lai, không phải là ký ức của quá khứ. Do đó, nhân chứng này không phải là người biết câu chuyện về Chúa Giêsu, mà là người sống một câu chuyện về tình yêu với Chúa Giêsu. Bởi vì, sau tất cả, nhân chứng nhất quyết tuyên bố: rằng Chúa Giêsu đang sống và là bí mật của cuộc sống. Thật sự, chúng ta thấy rằng Phêrô, sau khi đã nói: Thầy là Đấng Kitô, còn nói thêm: “Con Thiên Chúa hằng sống” (câu 16). Lời chứng được sinh ra từ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu sống.
Cũng nơi trung tâm cuộc đời của Phaolô, chúng ta tìm thấy cùng một từ tràn ra từ trái tim của Phêrô: Đức Kitô. Phaolô lặp đi lặp lại danh xưng này nhiều lần, gần bốn trăm lần trong các lá thư của mình! Đối với Phaolô, Đức Kitô không chỉ là mẫu mực, gương mẫu, điểm tham chiếu: nhưng đó là sự sống. Phaolô viết: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô” (Pl 1,21). Chúa Giêsu là hiện tại và tương lai của ngài, đến nỗi ngài xem quá khứ là rác rưởi so với mối lợi tuyệt vời là được biết về Chúa Kitô (x. Pl 3,7-8).
“Tôi có làm mới lại cuộc gặp gỡ của tôi với Chúa Giêsu mỗi ngày không?”
Trước những nhân chứng này, chúng ta tự hỏi: “Tôi có làm mới lại cuộc gặp gỡ của tôi với Chúa Giêsu mỗi ngày không?” Có lẽ chúng ta tò mò về Chúa Giêsu, chúng ta quan tâm đến những điều của Giáo hội hoặc các tin tức tôn giáo. Chúng ta mở các trang web, báo chí và nói về những điều thiêng liêng. Nhưng đấy vẫn là điều mà người ta nói, để tìm tòi, về quá khứ. Chúa Giêsu không quan tâm đến điều đó lắm. Ngài không cần các phóng viên tinh thần, hay Kitô hữu ở bề mặt. Ngài tìm kiếm những nhân chứng, những người mỗi ngày nói với Ngài: “Lạy Chúa, Ngài là cuộc sống của con”.
Tình yêu không thước đo
Gặp được Chúa Giêsu, trải nghiệm sự tha thứ của Ngài, các Tông đồ đã làm chứng cho ​​một cuộc sống mới: họ không cứu lấy mình, họ đã tự hiến. Họ không bằng lòng với thước đo nửa vời, nhưng họ đã dùng thước đo duy nhất có thể đối với những người theo Chúa Giêsu: đó là một tình yêu không thước đo. Họ “đổ máu ra làm lễ tế (x. 2 Tm 4,6).
Đừng trở thành những Kitô hữu âm ấm
Chúng ta xin ơn để không trở thành những Kitô hữu âm ấm, những người sống theo thước đo nửa vời, những người để cho tình yêu nguội lạnh. Chúng ta tìm lại mối tương quan hàng ngày với Chúa Giêsu và sức mạnh tha thứ của Ngài. Chúa Giêsu, giống như với Phêrô, cũng hỏi bạn: “Tôi là ai đối với bạn?” “Bạn có yêu tôi không?” Hãy để những lời này vào trong chúng ta và đốt cháy ước muốn không hài lòng với mức tối thiểu, nhưng nhắm đến tối đa, và chúng ta cũng trở nên nhân chứng sống của Chúa Giêsu.
Dây Pallium: các Mục tử không sống cho mình, mà cho đàn chiên
Hôm nay, những dây Pallium được làm phép cho các Tổng Giám mục được bổ nhiệm vào năm ngoái. Pallium nhắc nhớ đến con chiên mà Vị Mục Tử được kêu gọi vác trên vai: đó là dấu hiệu cho thấy các Mục tử không sống cho mình, mà cho đàn chiên; đó là dấu hiệu cho thấy, để sở hữu nó phải để mất sự sống, cho đi sự sống.
Một phái đoàn Toà Thượng phụ Chính Thống chia sẻ với chúng ta hôm nay, theo một truyền thống tốt đẹp. Tôi kính chào với lòng cảm mến. Sự hiện diện của quý vị nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không thể đánh mất nhau trên hành trình hướng tới sự hiệp nhất trọn vẹn giữa các tín hữu, trong sự hiệp thông ở mọi cấp độ. Bởi vì cùng nhau, được hoà giải bởi Thiên Chúa và chúng ta tha thứ cho nhau, chúng ta được mời gọi trở nên chứng nhân của Chúa Giêsu bằng cuộc sống của chúng ta.
Nguồn: vaticannews.va/vi
 
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29.06.2011): Thầy không gọi các con là tôi tớ, nhưng là bạn hữu
Anh chị em thân mến,
“Thầy không gọi các con là tôi tớ, nhưng là bạn hữu” (x. Ga 15,15).
Sáu mươi năm đã qua kể từ ngày tôi được thụ phong linh mục, một lần nữa tôi lại nghe thấy từ sâu thẳm lòng mình những lời Chúa Giêsu nói cùng anh em tân linh mục chúng tôi vào cuối buổi lễ truyền chức do Đức hồng y Tổng giám mục Faulhaber chủ sự, qua giọng nói hơi yếu ớt nhưng quả quyết của ngài. Theo cử hành phụng vụ thời ấy, Đức giám mục đọc lời ban năng quyền giải tội cho các tân chức: “Không còn là tôi tớ nữa, nhưng là bạn hữu”: ngay lúc bấy giờ tôi đã hiểu rõ những lời này không chỉ là nghi thức, không đơn giản chỉ là nhắc lại một câu Sách Thánh. Tôi biết, vào đúng lúc ấy, chính Chúa đã nói với tôi một cách rất riêng tư. Trong bí tích Rửa Tội và bí tích Thêm Sức, Người đã đưa chúng ta lại kề bên Người, Người đã đón nhận chúng ta vào gia đình của Thiên Chúa. Nhưng điều đang diễn ra lúc này lại còn lớn lao hơn nữa. Chúa gọi tôi là bạn của Người. Chúa đón nhận tôi vào nhóm những người Chúa đã đặc biệt hiểu rõ, do đó cũng được nhận biết Chúa một cách rất đặc biệt. Chúa ban cho tôi một khả năng đáng sợ là thực thi điều mà chỉ một mình Người, Con của Thiên Chúa, mới có thể nói và làm một cách chính đáng: Ta tha tội cho con. Chúa muốn tôi – bằng quyền năng của Người – có thể nhân danh Chúa mà nói, (“Tôi” tha tội), đó không chỉ là lời nói, mà còn là một hành động, đang làm biến đổi thực tại ở mức sâu xa nhất, tôi biết đàng sau những lời đó là cả cuộc khổ nạn Chúa đã chịu cho chúng ta và vì chúng ta. Tôi biết cái giá của tha thứ: khi chịu khổ nạn, Chúa đã đi xuống tận vực sâu tăm tối gớm ghiếc các tội lỗi của chúng ta. Người phải đi vào bóng đêm của tội lỗi chúng ta, chỉ nhờ thế mà tình trạng tăm tối ấy mới được biến đổi. Và bằng cách ban cho tôi quyền tha tội, Chúa để cho tôi nhìn xuống vực thẳm của con người, nhìn vào nỗi đau đớn vô hạn Chúa phải chịu vì loài người chúng ta, và điều này khiến cho tôi nhận ra tình yêu vô hạn của Người. Người tin cậy tôi: “Không còn là tôi tớ nữa, nhưng là bạn hữu”. Người uỷ thác cho tôi những lời truyền phép trong bí tích Thánh Thể. Người uỷ nhiệm tôi công bố lời Người, giải thích đúng lời Người và mang lời ấy đến cho mọi người hôm nay. Người ký thác chính bản thân Người cho tôi. “Các con không còn là tôi tớ, nhưng là bạn hữu”: Những lời này mang lại niềm vui nội tâm lớn lao, nhưng đồng thời, cũng đáng kinh sợ đến nỗi ta có thể cảm thấy sợ hãi khi đã trải qua mấy chục năm cảm nhận được sự yếu đuối của con người chúng ta và lòng nhân hậu vô biên của Chúa.
“Không còn là tôi tớ nữa, nhưng là bạn hữu”: lời này tự thân chứa đựng trọn cả một chương trình cho một đời linh mục. Tình bạn là gì? Idem velle, idem nolle – muốn những điều giống nhau, ghét những điều giống nhau: đó là cách diễn tả tình bạn thời cổ xưa. Tình bạn là một sự hiệp thông trong tư duy và trong ý muốn. Chúa cũng nói chính điều đó cho chúng ta cách rõ ràng hơn hết: “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14). Vị Mục Tử gọi tên từng con chiên của mình (x. Ga 10,3). Người biết tên tôi. Tôi không phải là một hiện hữu vô danh trong vũ trụ vô cùng. Người đích thân biết tôi. Tôi có biết Người không? Tình bạn mà Người đoái ban cho tôi chỉ có thể có nghĩa rằng chính tôi cũng ra sức hiểu biết Người nhiều hơn; rằng trong Kinh Thánh, trong các Bí Tích, trong kinh nguyện, trong sự hiệp thông với các thánh, trong những ai đến với tôi, do Chúa gửi đến, tôi ra sức ngày một nhận biết Người hơn nữa. Tình bạn không chỉ là biết về một con người, nhưng trên hết, là sự thông hiệp của ý chí. Nghĩa là ý muốn của tôi càng ngày càng tương hợp với thánh ý Chúa. Vì thánh ý Chúa không phải điều gì ở bên ngoài và xa lạ với tôi, điều mà hầu như tôi muốn phục tùng hay từ khước cũng được. Không, trong tình bạn, ý muốn của tôi nên một với thánh ý Chúa, và thánh ý Chúa trở nên ý muốn của tôi: đây chính là cách tôi thực sự trở nên chính mình. Vượt lên và trên cả sự thông hiệp tư duy và ý muốn, Chúa còn nhắc đến yếu tố thông hiệp thứ ba: Chúa hiến mạng sống mình cho chúng ta (x. Ga 15, 13; 10, 15). Lạy Chúa, xin giúp con hiểu biết Chúa ngày một hơn. Xin giúp con nên một với thánh ý Chúa ngày một hơn. Xin hãy giúp con sống cuộc đời con không phải cho bản thân con, nhưng trong sự hiệp nhất với Chúa để sống cuộc đời con cho tha nhân. Xin hãy giúp con trở nên bạn của Chúa ngày một hơn.
Lời của Chúa Giêsu về tình bằng hữu cần phải được nhìn trong bối cảnh của diễn từ về cây nho. Chúa liên kết hình ảnh cây nho với nhiệm vụ được trao cho các môn đệ: “Thầy cắt cử anh em để anh em ra đi sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15,16). Nhiệm vụ đầu tiên cho các môn đệ – cho bạn hữu Người – là ra đi, bước ra khỏi bản thân và đi tới tha nhân. Ở đây chúng ta nghe vang vọng những lời của Chúa Phục sinh nói với các môn đệ ở cuối Tin Mừng theo Thánh Matthêô: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (x. Mt 28,19tt). Chúa đòi chúng ta ra khỏi lằn ranh thế giới của riêng mình và đem Tin Mừng đến cho tha nhân, để cho Tin Mừng được loan đi khắp nơi và từ đây thế giới được mở ra cho Nước Thiên Chúa. Chúng ta được nhắc bảo rằng Thiên Chúa còn bước ra khỏi địa vị của Người, gạt bỏ vinh quang của mình để đi tìm chúng ta, mang lại cho chúng ta ánh sáng và tình yêu của Người. Chúng ta muốn theo bước Thiên Chúa là Đấng đi theo đường lối này, chúng ta muốn rời bỏ sức ì của thói lấy mình làm trung tâm, để Chúa có thể bước vào thế giới chúng ta.
Sau lệnh truyền lên đường, Chúa Giêsu nói tiếp: sinh hoa trái thì hoa trái còn tồn tại. Chúa mong đợi hoa trái nào nơi chúng ta? Hoa trái tồn tại là hoa trái nào? Giờ đây, hoa trái của cây nho là quả nho và chính từ quả nho mà rượu nho được làm ra. Chúng ta cùng suy nghĩ một chút về hình ảnh này. Để trái nho được chín tốt, cần có nắng, nhưng cũng cần có mưa nữa, cả ngày lẫn đêm. Để cho nho quý thành rượu, các quả nho cần phải được ép, cần phải kiên nhẫn chờ nước nho ép lên men, cần có sự chăm sóc cẩn thận để giúp cho quy trình hóa rượu. Rượu nho quý được đánh giá không chỉ bởi độ ngọt, nhưng còn bởi những vị phong phú và tinh tế, hương thơm đa dạng sinh ra trong quá trình chín muồi và lên men. Đó chẳng phải là hình ảnh của nhân sinh, và đặc biệt là của đời sống linh mục chúng ta sao? Chúng ta cần cả nắng lẫn mưa, cả lúc hân hoan cũng như khi gặp nghịch cảnh, cả khi chịu thanh luyện và thử thách cũng như lúc vui mừng được đồng hành với Tin Mừng. Khi suy nghĩ lại, chúng ta có thể tạ ơn Chúa về cả hai đàng: về những thử thách và những niềm vui, về những lúc u tối và những ngày tươi sáng. Cả hai đàng, chúng ta đều có thể nhận biết được sự hiện diện bền vững của tình yêu Thiên Chúa không ngừng nâng đỡ và bảo vệ chúng ta.
Tuy nhiên bây giờ chúng ta phải đặt câu hỏi: Chúa mong chờ thứ hoa trái nào nơi chúng ta? Rượu nho là hình ảnh của tình yêu: đó là hoa trái đích thực và tồn tại, thứ hoa trái mà Thiên Chúa mong muốn nơi chúng ta. Nhưng đừng quên trong Cựu Ước, thứ rượu nho được mong chờ từ trái nho quý, hơn tất cả, là hình ảnh về sự công chính, phát xuất từ một đời sống tuân giữ luật Chúa. Đó là điều không được bãi bỏ vì cho rằng nhãn quan Cựu ước đã lỗi thời – không, điều này vẫn còn đúng. Nội dung đích thực và gồm tóm mọi Lề luật vẫn là lòng mến Chúa và yêu thương tha nhân. Nhưng tình yêu song đôi này không chỉ là ngọt ngào, mà còn mang trong mình của cải quý giá là lòng kiên nhẫn, sự khiêm hạ và được lớn lên khi biết bỏ ý riêng mình mà sống theo thánh ý Thiên Chúa, theo ý của Đức Giêsu, người bạn của chúng ta mong muốn. Chỉ bằng cung cách này, khi toàn thể con người chúng ta mang lấy những phẩm tính của sự thật và sự chính trực, thì tình yêu mới trở nên chân thực, chỉ khi đó mới là trái chín. Trung thành với Đức Kitô và Hội Thánh của Người là đòi hỏi nội tại phải thực thi và điều đó luôn bao gồm đau khổ. Đây chính là cách mà niềm vui đích thực được lớn lên. Ở mức độ sâu xa, bản chất của tình yêu, của hoa trái đích thực, tương hợp với ý niệm lên đường, tiến bước: nghĩa là quên mình, tự hiến, nơi bản thân điều đó đã mang dấu chỉ thập giá. Về điểm này, Đức Grêgôriô Cả đã từng nói: nếu bạn đang gắng sức đến với Chúa, hãy cẩn thận đừng đến với Người duy một mình bạn mà thôi – một câu châm ngôn mà linh mục chúng ta cần ghi nhớ mỗi ngày (H Ev 1:6:6 PL 76, 1097tt).
Các bạn thân mến, có lẽ tôi đã dừng lại quá lâu với những suy niệm nội tâm của mình về sáu mươi năm thừa tác vụ linh mục. Bây giờ đến lúc chúng ta lưu tâm đến phận sự đặc biệt phải thực hiện ngày nay.
Trong ngày lễ mừng hai Thánh Phêrô và Phaolô, lời cầu chúc thân ái nhất của tôi trước tiên xin dành cho Đức Thượng phụ Bartholomaios I và Phái đoàn ngài đã cử đến, là những người tôi muốn bày tỏ lời cám ơn chân thành về chuyến viếng thăm được hoan nghênh nhất của các ngài nhân dịp phúc lộc này là lễ các Thánh Tông đồ Bổn mạng của Rôma. Tôi cũng xin chúc mừng quý Đức Hồng y, Giám mục hiền đệ của tôi, quý vị đại sứ và quý giới chức dân sự, cũng như quý linh mục và quý linh mục đồng khóa, quý tu sĩ và giáo dân. Tôi xin cám ơn tất cả quý vị về sự hiện diện của quý vị và những kinh nguyện của quý vị.
Quý Đức Tổng giám mục trưởng giáo tỉnh được bổ nhiệm kể từ lễ kính hai Thánh Tông Đồ năm ngoái, bây giờ sẽ nhận lãnh dây Pallium. Điều này có ý nghĩa gì? Trước hết có ý nhắc nhở chúng ta về ách êm ái Chúa Giêsu trao cho chúng ta (x. Mt 11, 29tt). Ách của Chúa Giêsu cũng chính là tình bạn của Người. Đó là ách của tình bạn và do đó là “ách ngọt ngào”, nhưng như thế cũng chính là ách đòi phải nỗ lực, cái ách tôi luyện con người chúng ta. Cái ách của thánh ý Chúa, vốn là ý muốn của chân lý và tình yêu. Đối với chúng ta, trước hết và trên hết, đó là ách dẫn đưa người khác tới tình bạn hữu với Đức Kitô và sẵn sàng phục vụ tha nhân, chăm sóc họ như những mục tử. Dây Pallium còn gợi cho chúng ta ý nghĩa: dây được dệt bằng len của những con chiên được ban phép lành vào ngày lễ kính Thánh Anê. Như vậy dây Pallium nhắc nhở chúng ta về một Đấng Mục tử, vì yêu chúng ta, đã tự mình trở thành một Chiên Con. Dây Pallium nhắc nhở chúng ta về Đức Kitô, Đấng đã lên đường băng qua núi non và hoang mạc, nơi có con chiên là nhân loại bị lạc lối. Dây Pallium còn nhắc chúng ta về Đấng đã vác chiên con – nhân loại – tôi - lên vai của mình, để mang tôi về nhà. Như vậy dây Pallium nhắc nhở, cả chúng ta nữa, là những mục tử đang đảm nhận sứ vụ của Chúa, cũng phải mang tha nhân theo với chúng ta, vác họ trên vai và đưa về cho Chúa Kitô. Dây Pallium nhắc chúng ta rằng chúng ta được gọi làm mục tử coi sóc bày chiên của Chúa, bày chiên vốn luôn mãi là của Chúa chứ không trở thành bày chiên của chúng ta. Sau cùng, Pallium cũng có nghĩa một cách cụ thể là sự thông hiệp của các mục tử trong Hội Thánh với Phêrô và với các vị kế tục ngài – có nghĩa là chúng ta phải là những mục tử cho sự hiệp nhất và trong sự hiệp nhất, và chỉ trong sự hiệp nhất do Phêrô đại diện mà chúng ta thực sự dẫn đưa mọi người về với Đức Kitô.
Các bạn thân mến, có lẽ tôi đã nói quá dài về sáu mươi năm sứ vụ linh mục. Nhưng vào lúc này tôi cảm thấy được nhắc bảo phải nhìn lại những gì đã ghi dấu ấn trong sáu thập niên vừa qua. Tôi cảm thấy được nhắc bảo phải nói với anh em, với tất cả các linh mục, giám mục và với các giáo hữu của Hội Thánh, lời của hy vọng và khích lệ; lời đã chín muồi trong trải nghiệm lâu dài nhận biết Thiên Chúa là Đấng tốt lành nhường nào. Tuy nhiên, trên hết mọi sự, đây là thời gian để cảm tạ tri ân: cảm tạ Chúa vì tình bằng hữu Người đã ban cho tôi và Người mong ước ban cho tất cả chúng ta. Cảm tạ tất cả những ai đã huấn luyện và đồng hành với tôi. Và tất cả những điều đó được gồm tóm trong lời nguyện xin một ngày kia Chúa sẽ đón nhận chúng ta trong sự thiện hảo của Người và mời chúng ta chiêm ngưỡng niềm vui của Người. Amen.
WHĐ (05.07.2011)


Các bài giảng và huấn dụ của Đức Thánh Cha trong ngày lễ thánh Phêrô và Phaolô:
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét