Hai đồng xu của bà goá nghèo : cho với lòng quảng
đại
1. Hai
tác giả, hai góc nhìn
Nếu như, trong bài trước,
ta đã có dịp tìm hiểu về việc Ðức Giê-su quan sát thấy hành vi thờ phượng Thiên
Chúa đã bị lợi dụng để tiến hành các hoạt động thương mại, điều đã diễn ra
trong khu chư dân của đền thờ; thì ở đây ta sẽ thấy một quan sát khác của Ngài
về cách người ta bỏ tiền dâng cúng cho Ðền thờ, sự việc này có lẽ cũng diễn ra
trong khu chư dân, hoặc giả là trong khu vực phụ nữ. Thật vậy, tuy các sách Tin
Mừng không nói rõ là ở khu vực nào trong Ðền thờ, nhưng sự hiện diện của bà goá
nọ cho ta một chỉ dẫn rằng sự kiện không thể diễn ra trong khu vực dân
Ít-ra-en, là nơi các phụ nữ bị cấm vào, và đương nhiên cũng không trong khu
Thánh và Cực Thánh.
Câu chuyện này được thuật
lại bởi hai tác giả Tin Mừng : Thánh Mác-cô và Thánh Lu-ca. Ðể đọc ra ý nghĩa
liên quan đến chủ đề của cải của trình thuật này, thiết tưởng ta sẽ phải làm
một so sánh cách nào đó giữa hai tác giả.
Như ta biết, Tin Mừng
theo thánh Lu-ca có nhiều trích đoạn liên quan đến chủ đề tiền bạc, và ngài
thường trình bày các sự kiện dưới một lăng kính giải thích nhiều hơn là tường
thuật. Trong khi đó, thánh Mác-cô, một tác giả tường thuật các sự kiện cách cô
đọng nhất, thường kể chuyện không theo tính cách văn vẻ, cũng không mấy quan
tâm đến tính hợp lý của các sự kiện, do đó nhiều khi ta nhận thấy tính cách thô
sơ, thậm chí đôi lúc còn có vẽ lộn xộn nữa, trong các trình thuật của ngài.
Câu chuyện về bà goá
nghèo này được cả hai vị chèn vào một cách không mấy hợp lý trong văn cảnh của
nó. Nó đi liền sau câu khiển trách của Ðức Giê-su hướng về mấy ông kinh sư rằng
họ đã nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ cầu nguyện lâu
giờ (Mc 12,40 ; Lc 20,47). Và nó được đặt trước lời tiên báo về
sự sụp đổ của ngôi Ðền thờ (Mc 13,1-2 ; Lc 21,5-7). Ðó là điểm chung của
hai tác giả. Tuy nhiên, cách trình thuật của hai vị cũng mang nhiều dị biệt.
2. Theo thánh Mác-cô
a. Từ một quan sát
Bài tường thuật của thánh Mác-cô đặt câu
chuyện này vào cuối một chuỗi những giáo huấn mà Ðức Giê-su thực hiện nơi Ðền
thờ. Có lẽ, nó là phần kết được thêm vào và được trình bày như
một nhắc nhở "đầy "lưu ý của Ðức Giê-su đối với các môn đệ (điều này
ta cũng thấy nơi thánh Lu-ca). Theo như lời kể của Mác-cô, sau khi kết thúc một
loạt những giáo huấn của mình, Ðức Giê-su đã cố tình nán lại trong khu vực Ðền
thờ để quan sát xem người ta bỏ tiền vào thùng ra sao, rồi nhân đó Ngài dạy
riêng cho các môn đệ về cách thức nhận định mang tính chiều sâu liên quan đến
việc này : Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này đã
bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa
của họ mà đem bỏ vào đó ; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình
mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình (Mc
12,43-44 ; cf. Lc). Về điểm này, thánh Mác-cô có vẻ hợp lý hơn Lu-ca.
Theo trình thuật của
thánh Mác-cô, Ðức Giê-su, sau khi đã giảng dạy nhiều điều cho Dân trong Ðền
thờ, Ngài ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Ðền
thờ và quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao (Mc
12,41). Với quan sát này, Ngài đã thấy được điều sâu xa nơi hành vi của một bà
goá nghèo, điều mà chẳng mấy ai chú ý (điều này khác với sự quan sát và việc
nhận ra tính cách lạm dụng của những nhà buôn mà chúng ta đã thấy trong bài
trước, cũng là điều mà những người khác không để ý).
b.Dám cho tất cả
Vâng, Ðức Giê-su cố ý thực hiện việc quan sát
này để xem người ta dâng cúng cho Ðền thờ như thế nào. Rồi, Ngài đã nhận ra
hành vi đáng kể của bà goá nghèo nọ : bà đã cho cả phần cần thiết của
mình. Ta không có chỉ dẫn nào rõ hơn để biết xem rằng sau khi cho hết hai đồng
xu cuối cùng của mình, số phận của bà sẽ ra sao (như trong trường hợp của một
bà goá thời ngôn sứ Ê-li-a, ngay dưới đây), nhưng ta biết chắc một điều là số
tiền bà đã bỏ vào thùng là không đáng kể so với những người khác, và rằng đó
chính là tất cả tài sản còn lại của bà.
Như ta đã biết, trong Thánh Kinh, những bà goá
được coi là những người nghèo. Từ xa xưa, Luật của người Do thái luôn có những
qui định nhằm bảo vệ các bà khỏi những lạm dụng quyền lực của những kẻ mạnh thế
và những người giàu có. Ta có một câu chuyện khá quen thuộc khác kể về một bà
goá nghèo thời ngôn sứ Ê-li-a : bà đã chấp nhận nhường chút phần bánh cuối
cùng của bà và con trai bà cho vị ngôn sứ ; và rồi, một phép lạ đã được
thực hiện : hũ bột không vơi và lọ dầu không cạn trong suốt thời kỳ hạn hán và
đói kém trong vùng (xin xem 1V 17,7-16). Câu chuyện này có đôi nét gì tương
đồng với điều Ðức Giê-su quan sát thấy ở đây : một bà goá nghèo không còn
hy vọng sống còn qua thời kỳ hạn hán đói kém ; theo yêu cầu của vị ngôn
sứ, bà đã quyết định nhường cả chút phần ăn cuối cùng của mình và đứa con nhỏ
cho vị ngôn sứ - có một chút gì là chua chát trong tình huống này - ; và
rồi phép lạ đã được thực hiện. Vâng, bà đã sẵn lòng nhường cho vị ngôn sứ đến
cả chút phần lương thực cuối cùng của mình - đó chính là chút phương thế còn
xót lại có thể kéo dài sự sống của bà và con trai bà thêm một thời gian
ngắn. Cái mà bà đã cho, suy cho cùng, không phải chỉ là chút bánh nướng
cuối cùng, mà hơn thế nhiều, đó chính là sự sống còn của bà và con trai bà, cho
dù chỉ thêm được ít thời gian. Bà đã quyết định làm như thế với mục đích
cứu sống người của Chúa , đó là một người nào khác mà bà nghĩ
rằng người đó cần cho cuộc sống hơn là chính bà và con trai bà. Thật là cao
cả. Vâng, trong hoàn cảnh hạn hán và đói kém như thế, một chút của ăn vật chất
quả là quí giá để có thể sống còn lâu thêm, với hy vọng sẽ tìm được một lối
thoát hoặc một trợ giúp nào khác. Ai cũng có thể biết và hiểu rõ điều này,
nhưng có lẽ không có nhiều người đành lòng nhường phần của mình cho người khác.
Một vấn đề xã hội : lạm
dụng lòng quảng đại
Việc dâng cúng cho Ðền thờ là một hành vi tôn
giáo xã hội, như ta vừa nói trên, vốn là tốt đẹp nhằm phục vụ cho các công ích
xã hội và tôn giáo, phục vụ con người, nhưng cái đẹp đẻ và cao cả vốn nằm ở
phía xa hơn : dâng cúng với một ý hướng tốt, và quan trọng hơn nữa,
chính là dám rút từ cái túng thiếu của mình mà cho (Mc
12,44 ; Lc 21,4), như bà goá nọ đã làm. Có lẽ, những người đã từng sống
trong những khu xóm nghèo cảm được rõ hơn điều này : người nghèo dễ thông
cảm với nhau và dễ chia sẻ cho nhau dù chỉ là chút gì họ có. Họ chia sẻ cho
nhau không tính toán cũng như không điều kiện gì cả, chỉ đơn thuần là với lòng
thương cảm họ chia sớt cho người lân cận, khi thấy người đó cần.
Tuy nhiên, khi nghe kể rằng bà goá nọ đã
bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình , ta cũng cảm thấy
có một chút gì đó xót xa. Dường như, thánh Mác-cô muốn gợi ý, cách nào đó, đến
một vấn đề xã hội thời ngài. Vì, ta để ý thấy, ngay liền trước đó, Ðức Giê-su
đã lên tiếng khiển trách các ông kinh sư đã từng nuốt hết tài sản
của các bà góa (Mc 12,40 ; Lc 20,47). Tại sao lại là các kinh
sư ? Có lẽ chăng, trong khi giảng dạy Dân, họ đã nhấn quá mạnh đến việc
dâng cúng cho Ðền thờ như là một điều thiết yếu mà người ta phải thực hiện hầu
có thể được Thiên Chúa nhậm lời ? Có lẽ chăng, điều đó đã được nhấn mạnh quá
nhiều đến nỗi các bà goá nghèo, như ta vừa nghe kể, phải vắt cạn túi để dâng
nộp cho Ðền thờ ? Thật ra, ta không có chỉ dẫn nào rõ ràng về điểm này ngoài
điều gợi ý trên của thánh Mác-cô. Tuy nhiên, đã có một cái gì đó không bình
thường ở đây. Nếu hình ảnh bà goá mẫu mực thời ngôn sứ Ê-li-a đã được sử dụng
để nhấn mạnh và ép các bà goá của thời Chúa Giê-su phải đặt lên hàng đầu việc
đóng góp cho Ðền thờ hơn cả những nhu cầu thiết yếu của họ và con cái họ, thì
quả thật đó là một điều đáng phải lên tiếng. Và chính Ðức Giêu-su đã thực hiện
rồi.
3. Ðiều quan trọng :
lòng quảng đại
Tuy nhiên, một khía cạnh quan trọng hơn đã
được hai thánh Mác-cô và Lu-ca làm nỗi bật, đó là tấm lòng quảng đại, và chỉ có
tấm lòng quảng đại như thế mới là điều đáng kể dưới cái nhìn của Thiên Chúa, mà
Ðức Giê-su đã không quên chỉ rõ. Nó có giá trị hơn nhiều so với những số tiền
to lớn được dâng cúng. Nhưng ta cũng đừng quên rằng những khoảng đóng góp cụ
thể bằng vật chất đó của những người giàu có, cho dù là họ chỉ rút ra từ của dư
thừa của họ, vốn cũng cần thiết và thật hữu ích cho các hoạt động Ðền thờ.
Chúng có giá trị nhất định của chúng. Thật vậy, Ðức Giê-su không hề phủ nhận sự
hữu ích của các đóng góp này, Ngài chỉ làm một so sánh với một điều khác mang
giá trị hơn, điều mà bà goá nọ đã thực hiện.
Thật sự mà nói, những người đã không ngại dâng
cúng cho Ðền thờ vốn không phải là những người xấu. Họ đáng được coi là tốt vì
họ đã nhìn nhận rằng của cải vật chất họ thu tích được vốn là do ơn lành của
Chúa ban cho họ. Họ đáng được coi là tốt vì, với tấm lòng vừa chân thành vừa
quảng đại , họ đã không ngại trích dâng cho Thiên Chúa, theo niềm tin của
họ. Nếu ta so sánh họ với những người giàu chuyên khai thác người nghèo, vì họ
luôn cảm thấy còn chưa đủ giàu (như ta đã có dịp nói đến trong các bài trước
đây), thì quả thật, những người chúng ta đang nói tới cũng đáng được nể phục
cách nào đó. Ðương nhiên, với tư cách là con người, cũng có những người dâng
cúng vì chút hư danh, họ làm việc này với ý định khoe khoang và muốn được người
đời nể trọng vì đã rộng tay đóng góp cho hoạt động chung, họ làm
điều này không chỉ vì tấm lòng thành.
Qua đó, ta thấy rằng giá trị của của cải bạc
tiền không phải là không đáng kể. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn nhiều chính là
ở tấm lòng con người. Ðối với của lễ dâng cúng, không phải lễ vật và
trị giá của nó, mà chính tấm lòng chân thành và quảng đại của con người mới là
điều quan trọng và đáng kể.
4. Theo thánh Lu-ca
Bà goá nghèo, mẫu mực về
lòng quảng đại
Trong khi đó, nơi thánh Lu-ca, ta thấy đã có
một chuyển ý bất ngờ khiến ta có cảm giác là không có một liên hệ gì giữa câu
chuyện này với những điều trước đó. Mặt khác, ngài cũng không đặt Ðức Giê-su
vào trong tình trạng chú ý, mà chỉ mô tả rằng : Ngước mắt
lên nhìn, Ðức Giê-su nhìn thấy những người giàu đang bỏ tiền dâng cúng của họ
vào thùng tiền (Lc 21,1) và nhân đó Ngài đã nhận thấy hành vi của bà
goá nọ. Nếu thánh Mác-cô có ý cho một giải thích về điều khiển trách các ông
kinh sư trong khi gắn câu chuyện này với phần trước của nó và tách rời nó với
lời tiên báo theo sau, thì thánh Lu-ca dường như muốn làm ngược lại, ngài cắt
câu chuyện này ra khỏi văn mạch của lời khiển trách liền trước và cố ý nối kết
nó với lời tiên báo đi liền theo sau bằng câu dẫn nhập này : Nhân
có mấy người nói về đền thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ
dâng cúng . (Lc 21,5). Ðiều này dường như muốn cho thấy rằng
thánh Lu-ca có ý đề cao nhiều hơn đến tấm lòng quảng đại của bà goá nọ (điều mà
thánh Mác-cô cũng nhắm tới), nhưng ngài không có ý đặt liên hệ giữa nó với việc
moi tiền của các vị kinh sư như thánh Mác-cô đã làm ; đồng
thời, thánh Lu-ca lại muốn đặt tấm lòng quảng đại của bà goá vào trong
tâm khảm chung của toàn dân, nghĩa là ngài muốn nói về lòng quảng đại của Dân
Chúa trong việc đóng góp cho các hoạt động tôn giáo, đặc biệt là Ðền thờ.
Thật vậy, câu 21,5 liền theo sau câu chuyện, mà ta vừa trích, cho thấy rõ hơn
điều này. Tuy nhiên, xin mở ngay một dấu ngoặc, rằng : tất cả những điều
vừa được nói về của cải vật chất sẽ chẳng còn mấy giá trị, vì tự thân các công
trình do tay con người làm ra vốn mang tính chất tạm thời, điều mà lời tiên báo
về sự sụp đổ của ngôi Ðền thờ muốn gợi lên, ngay liền sau đó : Những
gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào
trên tảng đá nào (Lc 21,6). Vì quả thật, điều quan trọng hơn không nằm
ở những thứ mang tính cách vật chất đó, điều đáng kể chính là lòng quảng đại
của con người thể hiện trong hành vi dâng cúng, nó cho thấy lòng tin yêu và thờ
kính Thiên Chúa của họ, mà bà goá nọ được trưng dẫn như một mẫu mực.
Thật vậy, để có thể hiểu rõ hơn về điểm này,
ta hãy trở ngược dòng thật xa đến một bản văn Cựu Ước liên quan đến chủ đề dâng
cúng cho các hoạt động tôn giáo mà đoạn Tin Mừng đã gợi cho ta, đó là một tường
thuật về sự đáp ứng quảng đại của Dân trước lời kêu gọi của Mô-sê trong việc
quyên góp để xây dựng nơi Thờ Phượng kính Gia-vê (trong Xh 35,4tt ;
36,2-7).
Lòng quảng đại của Dân. Vai
trò tích cực của của cải vật chất
Khởi đi từ một điều hiển nhiên rằng tôn giáo
tồn tại trong lòng xã hội. Ðể có thể duy trì và truyền bá tôn giáo, người ta
cần những thừa tác viên chuyên nghiệp , là những người tự nguyện sẵn
sàng dành cả đời mình phục vụ cho tôn giáo của họ cũng như cho cộng đồng những
người cùng tín ngưỡng. Ðiều cần thiết và hợp lý là những thừa tác viện này nên
được dành riêng để chuyên lo đến sứ vụ đó của mình, họ phải không được quá bận
tâm về kế sinh nhai của chính bản thân.
Theo tinh thần phân công lao động xã hội, từ
xưa, trong Do Thái Giáo, được kể lại trong Thánh Kinh, điều này đã được nhìn
nhận và thực hiện dưới hình thức các loại đóng góp cho các hoạt động tôn giáo.
Chúng xuất hiện qua các loại hình thuế . Thật vậy, trong Thánh Kinh
Cựu Ước, ta thấy nói tới ba hình thức đóng góp : việc nộp thuế
thân , là một thứ thuế nộp theo đầu người (trong Xh 30,11-16) ; việc
quyên góp để xây dựng nơi Thờ Phượng (trong Xh 35,4tt ; 36,2-7) ; và
việc nộp thuế thập phân hàng năm (trong Ðnl 14,22-27.28-29 ; 26,12-15).
Mục đích của chúng rõ ràng là nhằm bảo đảm cho các hoạt động tôn giáo được thực
hiện liên tục và đều đặn bởi các thừa tác viên được chọn và, đặc biệt, loại thứ
ba vốn là một hình thức tương trợ : vừa để duy trì hoạt động tôn giáo, vừa
nhằm trợ giúp những người có nhu cầu trong xã hội như các thầy Lê-vi (là những
người thuộc về chi tộc không được chia tài sản riêng như các nhóm khác trong
Dân) và những người được coi là nghèo khổ, các trẻ mồ côi, bà goá và ngoại
kiều (xin xem Ðnl 14 ; 26).
Ðiều đó cho thấy rằng tiền bạc và của
cải vật chất giữ một vai trò đáng kể nào đó trong xã hội, không loại trừ xã hội
tôn giáo. Nói cách khác, sự đóng góp của những tín hữu cho các công trình tôn
giáo là điều cần thiết và chính đáng. Trình thuật về việc đóng góp của Dân
Chúa cho công trình xây dựng Lều Tạm sẽ cho ta một khẳng định về điểm này. Thật
vậy, để có thể xây dựng nơi Thờ Phượng để Thờ Kính Ðức Chúa, một trong những
điều cần thiết là sự đóng góp của các thành viên trong Dân. Vào thời Mô-sê, ông
đã nhân danh Thiên Chúa mà kêu gọi Dân thực hiện điều này. Ðáp lại lời kêu gọi
đó, họ đã rộng tay đóng góp nào là vật dụng, tư liệu, công sức lao động thủ
công cũng như nghệ thuật, vàng, bạc và mọi thứ cần thiết khác. Với lòng quảng
đại đó, họ đã đóng góp nhiều hơn rất nhiều so với nhu cầu đặt ra, và ông Mô-sê
đã phải ra lệnh ngưng cuộc quyên góp (xin xem Xh 36,2-7). Bên cạnh đó, ta còn
nghe nhiều mô tả về sự sang trọng và trang trọng của công trình Thờ Phượng
Thiên Chúa, công trình đã được thực hiện sau cuộc quyên góp nói trên (xin xem
Xh 36 - 39). Bản văn của Tin Mừng theo thánh Lu-ca muốn gợi lại cho ta cùng một
điều như vậy, như ta vừa thấy trên kia (Lc 21,5). Quả thật, của cải vật chất do
toàn dân đóng góp đã giúp cho dễ dàng hoá việc thực hiện các hoạt động mang
tính tôn giáo. Nói cách khác, của cải vật chất, ở đây, có vai trò như một công
cụ hữu ích cho hoạt động tôn giáo xã hội.
Tuy nhiên, nếu ta tiếp
tục theo dõi các giáo huấn trong Tin Mừng theo thánh Lu-ca, ta cũng sẽ thấy
rằng, ngoài những chỉ dẫn có tính cách tích cực về của cải vật chất,
ngài cũng không ngại phê bình những lạm dụng trong việc sử dụng tiền bạc,
và thậm chí ngài còn kết án chính tiền bạc như là một tên lừa đảo. Chúng ta sẽ
có dịp trở lại điều này trong các bài tiếp theo.
5. Ðể
kết
Vậy, tiền bạc của cải
được đóng góp cho hoạt động tôn giáo xã hội có giá trị nhất định của chúng, có
điều là phải biết thực hành thế nào cho phải và với tấm lòng khiêm nhu và quảng
đại.
Với hai lần quan sát của
Ðức Giê-su, ta đã có dịp thấy hai mặt tiêu cực và tích cực của tiền của, điều
mà Tân Ước muốn trình bày. Ta cũng sẽ thấy cùng một kết quả, khi ta tìm hiểu về
các câu trả lời của Ðức Giê-su cho những người đến chất vấn Ngài về chủ đề này.
Thật vậy, ta sẽ có dịp gặp nhiều loại hình chất vấn trong nhiều hoàn cảnh khác
nhau, nhưng câu trả lời luôn mang cùng một ý nghĩa, có chăng chỉ khác nhau theo
những cấp độ đặt điểm nhấn, hoặc theo những góc độ của vấn đề được đặt ra.
25/08/2002
An Thụ
https://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/KINHTHAN/CuaCaiTrongKT/CuaCai%2015.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét