Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này mời gọi các
tín hữu hãy tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa.
Ed 17: 22-24
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nhắc đồng bào
của mình bị lưu đày ở Ba-by-lon nhớ rằng Đức Chúa hạ bệ những kẻ tự cao tự đại
và nâng cao kẻ khiêm nhường. Từ một chồi non, Ngài có thể làm phát sinh một cây
đại thụ vươn mình lên trên mọi đỉnh non cao.
2Cr 5: 6-10
Trong phần mở đầu thư thứ hai gởi
tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu hãy tin tưởng vào cuộc sống
được đức tin hướng dẫn và tin tưởng vào cái chết vào lúc chúng ta được đoàn tụ
với Đức Ki-tô.
Mc 4: 26-34
Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su cũng
dùng hình ảnh tương tự để mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào sự phát triển kỳ
diệu của Nước Trời, khởi đi từ một hạt giống nhỏ bé nhưng sau trở thành một vụ
mùa bội thu, hay khởi đi từ một hạt cải nhỏ nhất trong mọi hạt giống, nhưng sau
thành một cây cao bóng cả.
BÀI ĐỌC I (Ed 17: 22-24)
Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a,
ngôn sứ Ê-dê-ki-en trước khi được gọi làm ngôn sứ đã là tư tế. Cũng như ngôn sứ
Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã liên kết tinh thần tư tế với trào lưu ngôn sứ.
Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã sống tấm thảm kịch lớn lao
của những năm đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên, vào thời kỳ quân Ba-by-lon
xâm chiếm vương quốc Giu-đa. Ông đã chứng kiến tận mắt thành thánh
Giê-ru-sa-lem bị vây hãm và bị chiếm lần đầu tiên vào năm 598 trước Công
Nguyên, và thành phần ưu tú bị dẫn đi lưu đày. Ê-dê-ki-en thuộc nhóm lưu đày đầu
tiên này. Chính trong cảnh lưu đày, tư tế Ê-dê-ki-en được Thiên Chúa gọi làm
ngôn sứ của Ngài.
1. Sứ vụ ngôn sứ
Ông cực lực tố cáo tội lỗi của
dân Ít-ra-en, không chừa một ai, từ hoàng gia, tư tế cho đến dân chúng, mọi người
đều có tội. Ông thấy trước những án phạt khác sắp xảy đến. Trong thảm họa, ông
rao giảng sự sám hối cá nhân: mỗi người phải tự mình sám hối.
Tai họa bất ngờ xảy đến vào năm
587 trước Công Nguyên khi quân đội Ba-by-lon xâm chiếm lần thứ hai,
Giê-ru-sa-lem bị cướp phá và thiêu hủy, Đền Thờ bị tàn phá thành bình địa.
Trong hoàn cảnh bi thương của đất nước, ngôn sứ Ê-dê-ki-en trở thành vị ngôn sứ
của niềm hy vọng; ông tiên báo Ít-ra-en sẽ được phục hưng. Dụ ngôn mà chúng ta
đọc hôm nay trích từ 7: 22-24. Đây là một
trong những hình ảnh mà ngôn sứ sử dụng để khơi lên niềm hy vọng ở nơi đồng bào
ông, đặc biệt những người lưu đày ở Ba-by-lon: dân Ít-ra-en sẽ hồi sinh và sẽ
có một tương lai tuyệt vời.
2. Cây hương bá cao lớn
Cây hương bá cao lớn và chồi non
được ngắt từ ngọn cây muốn nói lên điều gì? Vị ngôn sứ dùng hình ảnh cây hương
bá cao lớn trong hai ẩn dụ. Ở chương 31, cây hương bá cao lớn biểu tượng Ai-cập
và Pha-ra-ô ngạo mạng và quyền thế:
“Ngươi so sánh sự vĩ đại của
ngươi với ai?
Với cây trắc bá, cây hương nam
núi Li-băng,
cành to, lá rườm rà, thân to lớn
ngọn vút lên giữa các tầng mây?
…..
Trên cành cây, mọi giống chim trời
đến làm tổ,
dưới bóng lá cành, mọi dã thú nẩy
nở sinh sôi,
và dưới bóng nó, vô số dân tộc đến
cư ngụ.
…..
Vì thế, Đức Chúa là Thiên Chúa
phán thế này:
Nó tự cao tự đại vì có thân to lớn,
ngọn vươn lên trên các tầng mây, nó cậy mình cao rồi sinh lòng kiêu ngạo, nên
Ta sẽ trao nó vào tay kẻ thống lãnh các dân, để xử với nó theo sự gian ác của
nó, Ta sẽ loại trừ nó. Những kẻ ngoại bang, những kẻ hung dữ nhất trong các dân
tộc, sẽ đốn ngã và bỏ mặc nó… Trên đống đổ nát của nó, mọi thứ chim trời đến ở;
nơi cành của nó, mọi dã thú đến nương mình.” (Ed 31: 2-3, 6, 10-13).
Trong ẩn dụ này, vị ngôn sứ nhắm
đến Pha-ra-ô Hóp-ra mà vua Giu-đa là Xít-ki-gia-hu cố dựa vào một cách nguy hiểm
để kháng cự lại vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-nô-xo. Nhiều thế kỷ sau này, sách
Đa-ni-en sẽ lấy lại hình ảnh tương tự trong một thị kiến được áp dụng cho vua
Na-bu-cô-đô-nô-xo (Đn 4: 7-11).
Trong một ẩn dụ khác thuộc
chương 17 và trước ẩn dụ chúng ta đọc, Ê-dê-ki-en hình dung một cây to lớn, bị
con phượng hoàng bẻ ngọn:
“Con phượng hoàng to lớn
có cánh rộng, lông dài, mình đầy
lông sặc sỡ;
nó đến núi Li-băng bẻ ngọn cây
hương bá.
Nó ngắt búp ngọn cây
đưa về đất thương nghiệp
đặt vào thành con buôn” (Ed 17:
1, 4).
Con phượng hoàng to lớn là vua
Na-bu-cô-đô-nô-xo. Vào năm 597, vua đã bắt vua Giơ-hô-gia-kim lưu đày sang
Ba-by-lon. Li-băng chỉ đất Pa-lét-tin. Đoạn, con phượng hoàng “lấy giống cây của
xứ ấy rồi đem đặt vào nơi ươm trồng…” (Ed 17: 5-6). Bằng hình ảnh này, ngôn sứ
Ê-dê-ki-en gợi lên cách hành xử của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo. Sau khi đã bắt vua
Giơ-hô-gia-kim lưu đày, vua đặt vua Xít-khi-gia-hu lên làm vua ở Giê-ru-sa-lem
để làm chư hầu và thần dân của mình.
3. Một chồi non
Ẩn dụ của 17: 22-24 trả lời cho ẩn
dụ trên. Đức Chúa sắp ra tay trừng phạt những kẻ thù của dân Ngài. Chính Ngài sẽ
“ngắt một chồi non” từ đỉnh ngọn cây. Ngài sẽ trồng nó trên núi cao của
Ít-ra-en và chồi non này sẽ thành một cây hương bá.
“Tất cả cây cối ngoài đồng ruộng
sẽ nhận biết chính Ta là Đức
Chúa.
Ta hạ thấp cây cao và nâng cao
cây thấp,
Ta làm cho cây xanh tươi phải
khô héo
và cây khô héo được xanh tươi”
(Ed 17: 24).
Qua ẩn dụ này, ngôn sứ
Ê-dê-ki-en muốn nói với những kẻ lưu đày bất hạnh rằng Thiên Chúa sẽ ra tay cứu
giúp họ, đưa họ trở về cố hương và phục hưng dân tộc của họ.
Tuy nhiên, sấm ngôn này được hiểu
một cách chính xác hơn: trong ẩn dụ này cũng như trong ẩn dụ theo sau, chồi non
được ngắt từ đỉnh ngọn cây là chồi non vương đế. Đây là tương lai của hậu duệ
nhà Đa-vít mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en thoáng thấy, chứ không phục hưng thể chế quân
chủ tương lai mà vị ngôn sứ không một chút tin tưởng. Các vị vua đã là những mục
tử xấu. Chính họ đã gây nên biết bao tội bất trung với Đức Chúa, Thiên Chúa của
mình và đã dẫn đưa dân Ít-ra-en đến bờ vực thẳm hủy diệt. Tuy nhiên, hình ảnh
này lấy lại hình ảnh của ngôn sứ I-sai-a, loan báo vua Mê-si-a là vua Đa-vít
tương lai: “Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ” (Is 11: 1), hay còn là
hình ảnh của ngôn sứ Giê-rê-mi-a và ngôn sứ Da-ca-ri-a, cả hai đều tiên báo rằng
Đức Chúa sẽ làm nảy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực (Gr 23: 5; 33:
15; Dcr 3: 8; 6: 12).
Ẩn dụ của Ê-dê-ki-en dẫn chúng
ta đến ngưỡng cửa Tin Mừng. Chúa Giê-su sẽ diễn tả theo một cách tương tự vóc
dáng nhỏ bé của Nước Trời vào lúc khởi sự: như hạt cải nhỏ nhất trong các hạt
giống, nhưng khi mọc lên thành một cây xum xuê cành lá “đến nỗi chim trời có thể
làm tổ dưới bóng”.
Các thế hệ sau này vẫn hằng nhớ
đến ngôn sứ Ê-dê-ki-en, vì ông đã tiên báo cuộc hồi sinh dân Ít-ra-en. Thị trấn
nhỏ, ở đó vị ngôn sứ đã sống và chết trong cảnh lưu đày, được gọi Tel-Aviv.
Chính để tôn vinh sấm ngôn của ông mà Nhà Nước Ít-ra-en hiện nay đã lấy tên thị
trấn này mà đặt tên cho một trong những thành phố của họ.
BÀI ĐỌC II (2Cr 5: 6-10)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ
hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô trong suốt bốn tuần Chúa Nhật. Thư
này được gọi là thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, nhưng trong thực tế không là
thư thứ hai, ít nữa là thư thứ tư trong số những thư mà thánh Phao-lô viết cho
các tín hữu Cô-rin-tô. Thư này được biên soạn hoặc vào cuối năm 56 hay vào cuối
năm 57.
Đây là bức thư riêng tư nhất mà
thánh nhân đã viết, bức thư ngỏ lời trực tiếp nhất với những đối thủ của ngài,
bức thư nồng nàn nhất khi thánh nhân nói về sứ mạng của mình và là bức thư thấm
thía nhất khi thánh nhân phác họa bốn bức tranh về những nỗi đắng cay lẫn những
niềm vui mà ngài đã kinh qua. Đây là một chứng liệu duy nhất, nhờ đó chúng ta
biết được vài chi tiết về những nỗi gian truân mà thánh nhân đã đối mặt và những
ân sủng mà thánh nhân đã nhận được.
1. Hoàn cảnh của bức thư
Thánh Phao-lô đã thiết lập Giáo
đoàn Cô-rin-tô vào những năm 50-52.
Không bao lâu sau khi thánh nhân ra đi, cuộc khủng hoảng đầu tiên làm
chao đảo cộng đoàn non trẻ này. Thánh nhân viết thư can thiệp, thư này đã bị thất
lạc, không được bảo tồn đến chúng ta. Sau một thời gian tạm lắng, thánh nhân viết
thư thứ hai có lẽ vào mùa xuân 56, thư này hiện nay được gọi “thư thứ nhất gởi
tín hữu Cô-rin-tô”.
Rất lo âu, thánh nhân sai cộng
tác viên của mình là ông Ti-tô đến Cô-rin-tô. Lúc đó, sau những biến cố mà
chúng ta không được biết rõ, thánh Phao-lô buộc phải rời Ê-phê-xô. Thánh nhân đến
thành Trô-a và đợi ông Ti-tô ở đó, nhưng không gặp; sau đó, ngài đến
Ma-kê-đô-ni-a, ông Ti-tô cuối cùng đến gặp ngài ở đó và đem đến những tin tốt
lành. Chính vào thời điểm đó, thánh nhân viết thư này hiện nay được gọi “thư thứ
hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô”.
2. Ý nghĩa của đoạn thư hôm nay
Đoạn trích thư chúng ta đọc hôm
nay thuộc vào phần thứ nhất của thư này, ở đó thánh nhân đưa ra tầm mức cao cả
và những thăng trầm của sứ vụ truyền giáo (2: 14-7: 4).
Những kinh nghiệm truyền giáo của
thánh Phao-lô đã đem lại cho đức tin của ngài một nền tảng không lay chuyển và
đã cho phép ngài củng cố những xác tín của mình mà thánh nhân kể ra: niềm xác
tín về thân xác sống lại (2Cr 4: 14), về “một chút gian truân tạm thời trong hiện
tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2Cr 4:
17) và về việc được đoàn tụ với Đức Ki-tô ngay khi từ giã cõi đời này.
Chính niềm xác tín sau cùng này
mà đoạn trích thư quy chiếu đến, niềm xác tín này phải giúp cho người Ki-tô hữu
một thái độ đầy tin tưởng khi đối mặt với cái chết và phải là nguồn động viên
khích lệ họ thực hành nhân đức.
3. Niềm xác tín khi đối mặt với cái chết
“Ở lại trong thân xác này là lưu
lạc xa Chúa”: Ở đây, thánh Phao-lô diễn tả tư tưởng của mình rất gần với quan
niệm Hy-lạp: “thân xác là ngục tù giam hãm linh hồn”. Thánh nhân nói: “Điều
chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa”.
Tuy nhiên, thánh Phao-lô tránh
dùng từ “linh hồn”, từ này có thể gợi lên trong tâm trí người đọc nhị nguyên
thuyết Hy-lạp (không phải thánh nhân vừa mới nói về thân xác sống lại, vốn xa lạ
với tư tưởng Hy-lạp đó sao?). Vả lại, Do Thái giáo đã khai triển khái niệm về
“cái tôi tinh thần” có thể hưởng một cuộc sống hạnh phúc cá nhân, như sách Khôn
Ngoan làm chứng.
Sau cùng, thật thích hợp khi
liên kết chặc chẽ đoạn văn này với phần khai triển trước đó, ở đó thánh nhân gợi
lên kinh nghiệm của mình. Suốt sứ vụ của ngài, thánh nhân đã gặp phải những hiểm
nguy nghiêm trọng nhất, những mối đe dọa chết người. Ấy vậy, Ơn Quan Phòng của
Thiên Chúa luôn luôn bảo vệ che chở ngài cho tai qua nạn khỏi. Phải đọc lại lời
minh chứng phi thường này của thánh nhân, chúng ta mới có thể cảm nhận những
gian truân mà thánh nhân đã kinh qua: “Chúng tôi bị dồn ép tứ bề, nhưng không bị
đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi;
bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt” (2Cr 4: 8-9). Lý do của những cứu giúp
được nhắc đi nhắc lại ở đây: “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó
của Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng
tôi” (4: 10). Nói cách khác, ở giữa những gian truân trăm chiều này, kề cận với
cái chết, thánh nhân, một cách nào đó, đã kinh qua trước từ cái chết đến sự sống,
nhờ bàn tay cứu độ của Thiên Chúa. Niềm xác tín từ kinh nghiệm này tăng cường
niềm xác tín về Mặc Khải.
Từ đó, niềm xác tín mà thánh
nhân nhắm đến là giây phút tối hậu, giây phút sẽ vượt qua từ tư thế của người
tin đến tư thế của người được thấy Chúa nhãn tiền: “Chúng tôi tiến bước nhờ
lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa”. Trong thứ nhất gởi các tín hữu
Cô-rin-tô, thánh nhân đã diễn tả cùng một tư tưởng: “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ
như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có
ngần có hạn, mai sao tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi” (1Cr 13:
12).
4. Làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự
Thánh nhân muốn chúng ta hiểu rằng
ngài thích rời bỏ thân xác này hơn để được đoàn tụ với Đức Ki-tô, nhưng trước
tiên phải “làm đẹp lòng Chúa”. Thánh nhân cũng đã diễn tả ước muốn này với các
tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của ngài: “Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước
của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại
đời này thì cần thiết hơn, vì anh em” (Pl 1: 23-24).
Điều quan trọng chính là: người
Ki-tô hữu phải biết rằng mình sẽ được hội ngộ với Đức Ki-tô, nhưng trước tiên
phải hành động một cách thích đáng, họ sẽ bị xét xử theo những công việc của
mình. Thánh Phao-lô không xác định phải chăng cuộc phán xét trước Tòa Án của Đức
Ki-tô được định vị vào ngày Chung Thẩm hay là cuộc phán xét riêng vào lúc mỗi
người từ giã cõi đời này.
TIN MỪNG (Mc 4: 26-34)
Chúa Giê-su rao giảng cho đám
đông bằng dụ ngôn, từ những hình ảnh đơn sơ giản dị được lấy ra từ đời thường,
để dẫn đưa họ vào những thực tại cao vời khôn ví của Nước Trời. Văn chương Đông
Phương (Ai-cập, Cận Đông) thích những bí nhiệm, các sách khải huyền Do thái được
điểm tô với những bí nhiệm này. Các dụ ngôn rất gần với thể loại văn chương
này. Tuy nhiên, Chúa Giê-su giải thích các dụ ngôn cho các môn đệ, vì sau này,
họ sẽ tiếp tục sự nghiệp của Ngài mà loan báo Lời rõ ràng và phong phú cho quần
chúng.
Tin Mừng Mác-cô đề nghị cho
chúng ta hai dụ ngôn: dụ ngôn hạt giống tự mọc lên và dụ ngôn hạt cải: dụ ngôn
thứ nhất thuộc nguồn riêng của Mác-cô, dụ ngôn thứ hai chung với Mát-thêu (13:
31-32) và Lu-ca (13: 18-19).
1. Dụ ngôn hạt giống tự mọc lên (4: 26-29)
Bản văn của ngôn sứ Ê-dê-ki-en
(Bài Đọc I) giúp chúng ta hiểu dụ ngôn hạt giống tự mọc lên này. Chính Đức Chúa
sẽ trồng một chồi non mà Ngài đã ngắt từ ngọn hương bá. Vì Đức Chúa trồng, chắc
chắn chồi non này sẽ mọc và lớn lên: “Nó sẽ trổ cành và kết trái”. Cũng vậy
trong dụ ngôn hạt giống tự mọc lên, hình ảnh Nước Thiên Chúa được phát triển
trong thầm lặng nhưng vững chắc. Có lẽ không dụ ngôn nào đem đến niềm an ủi hơn
dụ ngôn này. Thiên Chúa hiện diện và hành động trong thế giới và hành động của
Ngài chắc chắn rồi sẽ sinh hoa kết quả, dù bên ngoài âm thầm lặng lẽ. Thời gian
cũng không được tính đến.
Phải chăng dụ ngôn này muốn nói
rằng người Ki-tô hữu không cần phải hành động bởi vì “đêm hay ngày, người ấy có
ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy
không biết”? Không phải như thế! Việc dọn đất được nêu lên, vấn đề đất có thuận
lợi hay không cho hạt giống phát triển đã được bàn đến trong một dụ ngôn khác
(dụ ngôn người gieo giống: 4: 1-9). Chúng ta không những có bổn phận cầu xin
cho “Nước Chúa trị đến”, nhưng còn phải góp phần mình vào việc xây dựng Nước
Chúa ở ngay trong cõi thế này. Ở đây, vấn đề được nêu lên đó là quyền năng tất
thắng của Thiên Chúa, Ngài hướng dẫn Triều Đại của Ngài cho đến lúc phát triển
viên mãn: đó sẽ là mùa thu hoạch.
Tuy nhiên, phải chăng Chúa
Giê-su dùng dụ ngôn này nhằm nhắn gởi những người nôn nóng và bạo động, tức là
nhóm Nhiệt Thành được nuôi dưỡng bằng những giấc mơ đầy tham vọng của họ mà vài
người trong số họ là môn đệ của ngài? Thật ra, Ngài muốn dẫn các môn đệ của
Ngài đến một sự hiểu biết đầy đủ hơn về sứ mạng của Ngài. Ngài đã đến gieo Lời
Ngài và Lời Ngài sẽ sinh hoa kết trái. Họ phải đặt trọn niềm tin tưởng tuyệt đối
vào quyền năng của Lời Ngài, tuy nhiên, chiều kích năng động của lời này cốt yếu
là nội tại và tinh thần.
2. Dụ ngôn hạt cải (4: 30-32)
Để diễn tả năng lực phát triển kỳ
diệu của Nước Trời từ một khởi đầu rất khiêm tốn, Chúa Giê-su đưa ra một so
sánh được mượn từ một hình ảnh rất quen thuộc thường ngày: hình ảnh hạt cải khi
được gieo thì nhỏ nhất trong mọi hạt giống, nhưng khi “mọc lên lớn hơn mọi thứ
rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”. Nước Trời
cũng sẽ như vậy. Khởi đi hầu như không gì cả: mười hai tông đồ, vài môn đệ và
vài người phụ nữ, nhưng sẽ phát triển rực rỡ.
Chúa Giê-su ám chỉ đến các bản
văn của Ê-dê-ki-en và Đa-ni-en trong các dụ ngôn cây hương bá của họ; tuy
nhiên, rõ ràng Ngài tránh lấy lại hình ảnh cây hương bá cao vút trên đỉnh non
cao, biểu tượng cho quyền lực thống trị. Ngài cũng không lấy lại hình ảnh chồi
non, vì hình ảnh này gợi lên hậu duệ nhà Đa-vít và có thể gợi lên việc phục
hưng quyền lực chính trị. Hình ảnh hạt cải chắc chắn hàm chứa tính chất phi
chính trị của Nước Trời.
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét