Trang

Thứ Ba, 11 tháng 3, 2025

GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VÀ KHOA HỌC (2): GIÁO HỘI VÀ THUYẾT TIẾN HÓA - CHỈ MỘT CUỐN SÁCH BỊ LÊN ÁN

 

GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VÀ KHOA HỌC (2): GIÁO HỘI VÀ THUYẾT TIẾN HÓA - CHỈ MỘT CUỐN SÁCH BỊ LÊN ÁN

hình đại diệnChristopher M. Graney
 
WGPNT (25/02/2025) - Chúng tôi tiếp tục loạt bài về Giáo hội và Khoa học, hôm nay sẽ xem xét một ví dụ về sự thiếu sót trong cách Tòa Thánh Vatican xử lý vấn đề thuyết tiến hóa.

Khoa học giữ vai trò trung tâm trong đời sống hiện đại. Chính nhờ khoa học mà bạn đang đọc Aleteia trên màn hình, qua Internet, chứ không phải trên từng trang giấy dưới ánh đèn dầu. Loại bài này sẽ đi sâu vào câu chuyện giữa Giáo hội Công giáo và khoa học. Câu chuyện này đã bắt đầu từ rất lâu và vẫn đang tiếp tục diễn ra hôm nay. Đây không chắc chắn là câu chuyện mà bạn nghĩ mình biết, nhưng là câu chuyện bạn nên biết, chính bởi khoa học đóng vai trò thì chốt trong thế giới chúng ta đang sống.  

Giáo hội đã tiếp nhận những thành vật khoa học có sức mạnh phục sức và tìm cách diễn đàn giải đức tin trong những khám phá gần 2.000 năm qua, ít nhất là kể từ vấn nạn “hai vầng sáng lớn” của Sách Sáng thế chương 1 (xem  Phần 1  trong loạt bài này). Một số bộ giáp xuất sắc nhất của Giáo hội, Thánh Augustine và Thánh Thomas Aquinas, đã suy nghĩ về vấn đề cụ thể đó. Không phải lúc nào cũng có Augustine hoặc Aquinas như vậy, và bối cảnh đã thay đổi kể từ thời Augustine, và còn hơn nữa kể từ thời Aquinas.

Khi có sự nhất quán giữa khoa học và đức tin Công giáo, và không có Augustine hoặc Aquinas bên lề, Giáo hội sẽ làm gì? Hoặc cụ thể hơn, Tòa Thánh Vatican sẽ làm gì? Họ đưa ra quyết định và hành động ra sao khi có vấn đề liên quan đến khoa học?

Thực tế, không có nhiều xung đột giữa khoa học và tôn giáo đến mức Vatican phải mài. Giáo hội thường không đưa ra nhiều ý kiến ​​về các phần lớn của tiến bộ khoa học. Những cuộc tranh luận của giới khoa học về sự tồn tại của oxy, mà họ gọi là ngày nay, hoặc về hiện tượng di cư của chim, hiếm khi gây xung đột lớn với tôn giáo.

Một vấn nạn gai góc

Một trường hợp nhất có tính ổn định lớn hơn mà Vatican chính thức có thể tô điểm là tiến hóa hóa. Có rất nhiều tài liệu được ghi lại trong quá trình xử lý vấn đề này của Tòa Thánh Vatican. Sự kiện này chỉ mới xảy ra trong khoảng 150 năm trước – chỉ như ngày hôm qua trong lịch sử Giáo hội! Vatican vẫn lưu giữ rất nhiều hồ sơ cho đến ngày nay. Vào cuối thế kỷ 20, Vatican đã mở kho lưu trữ chứa những hồ sơ đó để các học giả có thể nghiên cứu. Nhờ đó, chúng tôi có rất nhiều thông tin về cách Vatican đối mặt với thuyết hóa.

Các học giả đã nghiên cứu kỹ lưỡng những thông tin đó và viết về những gì họ tìm thấy. Có sáu trường hợp liên quan đến đức tin và khoa học về thuyết tiến hóa được đưa lên Tòa Thánh trong những thập kỷ cuối thế kỷ 19. Tất cả đều liên quan đến các tác phẩm Công giáo viết về thuyết tiến hóa.

Có hai cơ quan của Vatican có thẩm quyền giải quyết những trường hợp loại này. Một là Thánh Bộ [Thánh Bộ] (sau đây là Bộ Giáo lý Đức tin [Bộ Giáo lý Đức tin, và hiện là Bộ Giáo lý Đức tin]). Hải là Bộ Chỉ Mục [Giáo đoàn Mục lục] (được nhập vào Thánh Bộ bởi Giáo hoàng Benedict XV vào năm 1917). Thánh Bộ có vai trò lớn về các vấn đề đức tin và luân lý, trong khi đó Bộ Chỉ Mục, nơi công bố  Bản Mục Sách cấm  ở hơn ba thế kỷ, có chức năng và cấp bậc ít quan trọng hơn nhiều. Các định nghĩa của họ cũng ít quan trọng hơn; Mạng sứ cũng có thể và khiêm tốn hơn nhiều. Tuy nhiên, trong mười sáu trường hợp về thuyết tiến hóa mà Vatican can thiệp, chính Bộ Chỉ Mục đã hành động chứ không phải Thánh Bộ. Hóa ra Bộ Chỉ Mục hoạt động giống như nhiều hội đồng nhà trường hay hội đồng giáo xứ – tức là không hoàn hảo! Bộ này không có bất kỳ chương trình kiểm duyệt nào về cách tổng hợp và định kỳ để phát hiện những cuốn sách mà Giáo hội đã tìm thấy vấn đề. Họ không có kế hoạch hành động, chỉ xem xét cuốn sách nào có ai gửi đơn giải thưởng chính thức.

Khi đó, thư của Bộ được yêu cầu kiểm tra cuốn sách và chỉ định những người đánh giá, được gọi là “cố vấn”, cùng xem xét. Một người trong nhóm sẽ viết báo cáo. Các vấn đề sẽ được trình bày, sau đó toàn bộ hồng y trong Bộ sẽ được trình bày để đưa ra phán quyết, sau đó trình duyệt lên Đức Giáo hoàng phê duyệt. Nếu phát hiện một cuốn sách cần phải kiểm tra, một lệnh sắc lệnh sẽ được công bố, thêm cuốn sách đó vào Bản cấm Sách. Tuy nhiên, lệnh chỉ lên dự án được công khai, còn lý do thực hiện dự án thì không thể xác định được.

Đó là quy trình trên nguyên tắc. Trong thực tế, việc cấm Bản mục Sách không được cập nhật thường xuyên. Các cố vấn và hồng y là thành viên của Bộ cũng không tham dự các cuộc thi đều đặn. Trong cuộc thảo luận về thuyết tiến hóa, Bộ có 20 đến 30 hồng y, nhưng hồ sơ cho thấy thông thường chỉ có 5 hoặc 10 hồng y xuất hiện! Các thành viên của Bộ còn có những ưu tiên khác.

Ngoài ra, các báo cáo cũng có vấn đề. Có thể có nhiều báo cáo từ các vấn đề khác nhau, với các quan điểm không thống nhất khác nhau. Ví dụ, trong trường hợp cuốn “Sự tiến hóa của các loài hữu cơ” (1891) của Cha Dalmace Leroy, các vấn đề đã viết tới sáu báo cáo khác nhau! Họ không thống nhất về cuốn sách của Cha Leroy, cũng như về thuyết tiến hóa.

Các cố vấn chính cũng nhận được sự bất ngờ của quy trình này. Một trong số họ, sau khi xem xét cuốn sách của Cha Leroy, đã đề nghị các hồng y không cấm cuốn sách, mà chỉ cần cảnh báo Cha Leroy thông qua các bề trên để cha tự nguyện thu hồi sách. Tại sao cuốn sách không bị cấm? Một phần cố vấn cho rằng Cha Leroy có ý định tốt và là một linh mục sáng suốt và chính trực. Nhưng phần khác là vì vị trí này cho rằng Cha Leroy không nên bị trừng phạt cấm sách cũng có những tác giả khác có những cuốn sách tương tự nhưng vẫn được lưu hành động mà không bị lên án – không phải là sách của họ tốt hơn, mà chỉ đơn giản là chưa ai thừa lên Vatican.

Ngay lập tức Bộ cũng có thể giữ lại ý kiến. Họ không phải lúc nào cũng nỗ lực hết mình để đánh giá thuyết tiến hóa (điều này có thể xác định được số lượng người tham dự các cuộc thi), mà thường chỉ dựa vào việc cố gắng cá nhân thay vì tham khảo ý kiến ​​kiến ​​trúc của một nhóm lớn các chuyên gia. Vì vậy, đôi khi họ lo lắng rằng những quyết định của họ không tránh khỏi bị các nhà thần học hàng đầu chỉ trích.

Christopher Graney

Với cách làm việc thiếu nhất quán của Bộ, không có gì ngạc nhiên khi trong năm trên tổng số sáu trường hợp về thuyết tiến hóa được đề cập ở trên, Bộ đã không có bất kỳ hành động chính thức nào mà chỉ liên hệ riêng với các tác giả hoặc giữ im lặng.

Cuốn sách duy nhất được công khai lên dự án vì nội dung liên quan đến thuyết tiến hóa là cuốn “Nghiên cứu mới về Triết học: Bài giải cho một sinh viên trẻ” (1877) của Cha Raffaello Caverni, cựu giáo sư vật lý và toán học tại Chủng viện Firenzuola. Tuy nhiên, vì không công bố lý do cuốn sách được đưa vào Bản sách Sách Cấm, và tiêu đề sách cùng không đề cập đến thuyết tiến hóa, nên những người không trực tiếp tham gia vào quá trình đánh giá sách sẽ không thể biết được vấn đề ở đâu. Mọi danh sách chỉ định của Cha Caverni đều bị cấm, chứ không rõ nhân vật. Bản thân cuốn sách có nhiều trích dẫn về Giáo hội, nên công chúng có thể đưa ra đó là lý do chính. Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi trường hợp của Cha Caverni thường bị bỏ qua trong các bài thảo luận của Tòa Thánh và thuyết tiến hóa.

Tòa Thánh Vatican, cũng như Giáo hội nói chung, được hợp thành từ những con người, mà con người thì không hoàn hảo. Sự không hoàn hảo dẫn đến các quy trình, hoạt động và kết quả không hoàn hảo. Điều này rất cần được lưu ý khi khám phá câu chuyện về Giáo hội Công giáo và khoa học.

Tất nhiên, chúng tôi có thể hỏi: nếu các quy trình của Giáo hội không hoàn hảo đến vậy, tại sao Giáo hội lại có thể yêu cầu vấn đề khoa học ngay từ đầu, đặc biệt là khi không có một nhân vật tầm cỡ như Augustine? Dược liệu phải khoa học là cách tốt nhất để chúng ta khám phá thế giới sao? Chúng ta sẽ tìm hiểu câu trả lời trong những bài viết sắp xếp tới.

Trâm Cung

Chuyển ngữ từ: aleteia.org (30/12/2024) 

 Nguồn: giaophannhatrang.org (25/02/2025) 

______

Loại bài từ:  Church and Science Archives - Aleteia

Lưu ý từ Bản biên tập:

- Tác giả Christopher M. Graney là một nhà thiên văn và là nhà sử học về khoa học của Specola Vaticana (Đài quan sát thiên văn của Vatican) ở Rome và Đài thiên văn Vatican ở Tucson, Arizona (quê hương của Kính viễn vọng Công nghệ tiên tiến trên Vatican núi Graham).

- Loại bài này dựa trên bài viết “Vatican và Khoa học có thể sai,” được Christopher M. Graney trình bày tại Hội nghị  “Thống nhất & Bất đồng trong Khoa học”  tại Đại học Notre Dame, ngày 04 - 06 tháng 4 năm 2024. Bài viết, có sẵn thông qua  ArXiv , chứa các chi tiết và tài liệu tham khảo cho độc giả quan tâm.

Bài viết, và loạt bài của Aleteia này, mở rộng các ý tưởng được Graney và Giám đốc Đài Thiên văn Vatican Br. Guy Consolmagno, SJ phát triển trong cuốn sách năm 2023 của họ, được xuất bản bởi Paulist Press,  When Science Goes Wrong: The Desire and Search for Truth .

KINH THÁNH ĐÃ VÀ ĐANG HÌNH VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY NHƯ THẾ NÀO?

 

KINH THÁNH ĐÃ VÀ ĐANG HÌNH VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY NHƯ THẾ NÀO?

hình đại diệnDaniel Esparza
 
WHĐ (3/10/2025) - Kinh thánh là một bản văn tôn giáo và một nền văn hóa hóa. Dù được xem như mặc định khả năng thần linh hay như một tác phẩm văn học mang tính lịch sử, ảnh hưởng của Kinh thánh đối với nền văn minh phương Tây không thể phủ nhận.

Dù muốn hay không, Kinh thánh đã xác định hình nền sâu xa nền văn minh phương Tây: ngôn ngữ, văn học, luật pháp và tư duy đạo đức. Ngay cả trong thời đại thế tục ngày nay, những dư âm của Kinh thánh vẫn còn sâu trong văn hóa , thường theo những cách mà con người không nhận ra.  

John Barton, một học giả Kinh thánh danh tiếng thuộc Anh giáo và nguyên giáo sư tại Đại học Oxford, đã khám phá ảnh hưởng vững chắc này trong quá trình nghiên cứu học thuật của mình,  A History of the Bible  ( Lịch sử Kinh thánh ) . Tác phẩm của ông đưa ra một cái nhìn mang tính lịch sử và phê bình về việc Kinh thánh đã được đọc, diễn giải và tích hợp vào xã hội qua nhiều thiên niên kỷ như thế nào.

Di sản văn học và ngôn ngữ

Ảnh hưởng của Kinh thánh đối với văn học và ngôn ngữ là rất lớn. Vô số cụm từ — “ thân thể chỉ là da bọc xương  ” ( by the skin of my răng , G 19,20), “ cái dằm trong th â nặc ” ( cái gai đâm vào thịt , 2 Cr 12,7), “ những quyền bính hiện hữu ” ( quyền năng được , Rm 13,1) — bắt nguồn từ Kinh thánh. Đặc biệt, bản Kinh thánh King James đã định hình văn chương tiếng Anh với hương đạt giàu chất thơ và dễ nhớ , ảnh hưởng đến các nhà văn từ Milton, Blake cho đến các tác giả hiện đại như TS Eliot.   

Barton lưu ý rằng ngay cả các nhân vật văn học thế tục như Philip Pullman và Richard Dawkins cũng thừa nhận tầm quan trọng về mặt văn hóa của Kinh thánh, dù họ hoài nghi về các tuyên bố mang tính tôn giáo của Kinh thánh. Những câu chuyện và ẩn dụ trong Kinh thánh — Đavít đối đầu Gôliát, Người Samari nhân lành, Người con hoang dã — đã ăn sâu vào tư duy phương Tây đến khả năng ra ngoài niềm tin tôn giáo. 

Đạo đức, luật pháp và xã hội

Kinh thánh đã cung cấp một bộ quy tắc đạo đức nền tảng , vốn định hình hệ thống luật pháp phương Tây . Barton thảo luận về những giáo huấn luân lý trong Kinh thánh tiếng Do Thái và Tân ước ảnh hưởng đến mọi khía cạnh, từ các luật cấm kẻ giết người và trộm trộm (Xh 20) đến các nguyên tắc về công lý và lòng bác ái ra sao.  

Các lý tưởng dân chủ cũng chịu ảnh hưởng từ Kinh thánh . Các vị ngôn sứ của Israel, những người nói lên sự thật trước quyền lực, đã tạo nên một mô hình ban đầu về trách nhiệm đạo đức của người cầm quyền. Sự nhấn mạnh của Tân ước vào việc quan tâm đến người nghèo và tôn giáo giá sản phẩm của mỗi người đã truyền cảm hứng cho các nhà cải cách xã hội, từ William Wilberforce (người đấu tranh chống chế độ nô lệ) đến Martin Luther King Jr..

Kinh thánh trong nghệ thuật, âm nhạc và văn hóa đại chúng

Nghệ thuật và âm nhạc phương Tây chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các chủ đề Kinh Thánh. Thời Phục Hưng đã sản sinh ra những tác phẩm kiệt tác như  David  của Michelangelo và  Ninh Chiến Ly  của Da Vinci. Các nhà soạn nhạc như Bach và Handel đã đưa ra những câu chuyện Kinh thánh trong âm nhạc của họ, với  Đấng cứu thế  (1741) vẫn là một trong những bản oratorio được trình diễn nhiều nhất trong mọi thời đại .   

Ngày hôm nay trong quá trình giải quyết nền tảng, Kinh thánh vẫn là một điểm tham chiếu quan trọng. Hollywood thường xuyên chuyển thể các câu chuyện Kinh thánh thành phim, và văn hóa đại chúng tiếp tục khai thác hình tượng của Kinh thánh. Các nhà quảng cáo sử dụng những hình ảnh như Adam và Eva, cuộc Xuất Hành, hoặc khái niệm về miền đất hứa, cho thấy những câu chuyện này ăn sâu vào ý thức văn hóa đến mức độ nào.  

Ảnh hưởng của Thánh hiện nay

Barton thừa nhận rằng mức độ hiểu biết về Kinh thánh đang suy giảm ở nhiều nơi trong thế giới Tây phương . Tuy nhiên, ông lập luận rằng ảnh hưởng của Kinh thánh chưa hề biến mất — mà chỉ đơn giản là đang thay đổi. Ở Hoa Kỳ , Kinh thánh vẫn tiếp tục được định hình diễn đàn ngôn ngữ chính trị và các xã hội giá trị hơn ở châu Âu . Ngay trong các xã hội phần lớn theo chủ nghĩa thế tục, các nguyên tắc đạo đức và các câu chuyện từ Kinh thánh vẫn là nền tảng cho những cuộc thảo luận về công lý, quyền con người và đạo đức.    

Như chứng minh trong quá trình nghiên cứu của Barton, Kinh thánh không chỉ là một bản văn tôn giáo mà còn là một nền văn hóa hóa. Dù được xem là mặc định thần linh hay một tác phẩm văn học mang tính lịch sử thì ảnh hưởng của Kinh thánh đối với nền văn minh phương Tây là không thể phủ nhận.  

Nt. Anna Ngọc Diệp, OP

Dòng Đa Minh Thánh Tâm

Chuyển từ: aleteia.org (08/03/2025)