GIAO ƯỚC MỚI TRONG MÁU ĐỨC GIÊSU-KITÔ
Lm. Giuse Võ Đức Minh
"Đương lúc họ ăn,
thì Đức Giêsu cầm lấy bánh và chúc tụng
rồi bẻ ra và ban cho họ. Ngài nói :
"Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Ta".
Đoạn cầm lấy chén và tạ ơn,
Ngài ban cho họ mà rằng :
"Hãy uống chén này hết thảy ;
vì này là Máu Ta, Máu Giao Ước
đổ ra vì nhiều người để nên ơn tha tội" (Mt 26,26-29)
"Và đương lúc họ ăn,
Ngài cầm lấy bánh, chúc tụng ,
rồi Ngài bẻ ra và ban cho họ và nói :
"Hãy cầm lấy ! Này là Mình Ta !".
Đoạn cầm lấy chén, tạ ơn,
Ngài ban cho họ và họ uống chén này hết thảy.
Và Ngài nói với họ :
"Này là Máu Ta, Máu Giao Ước đổ ra vì nhiều người" (Mc 14,22-24)
"Đoạn cầm lấy bánh và tạ ơn,
Ngài bẻ ra và ban cho họ mà rằng :
"Này là Mình Ta phải thí ban vì các ngươi ;
hãy làm sự này mà nhớ đến Ta".
Và chén sau bữa ăn, cũng như vậy, mà rằng :
"Chén này là Giao Ước Mới trong Máu Ta,
phải đổ ra vì các ngươi" (Lc 22,19-20)
"Vì chưng chính tôi đã chịu lấy nơi Chúa
điều tôi truyền lại cho anh em. Là :
Chúa Giêsu trong đêm Ngài bị nộp,
Ngài đã cầm lấy bánh và tạ ơn xong,
Ngài đã bẻ ra và nói :
"Này là Mình Ta vì các ngươi,
hãy làm sự này mà nhớ đến Ta".
Cũng vậy về chén,
sau khi dùng bữa tối xong, Ngài nói :
"Chén này là Giao Ước Mới trong Máu Ta,
các ngươi hãy làm sự này mỗi khi uống, mà nhớ đến Ta".
Vì mỗi lần anh em ăn bánh ấy và uống chén ấy,
anh em loan báo sự chết của Chúa,
cho tới lúc Ngài đến" (1 Cr 11,23-26)
A. Dưới ánh sáng các lời sấm ngôn Cựu Ước
Gr 31,31-34 ; 32,40
Ed 36,24-27 ; 37,25-28
Is 42,6 ; 49,8 ; 52,13 - 53,12
Một số bản văn trên của Cựu Ước làm nổi bật tính chất "Mới" của Giao Ước :
- tha thứ mọi tội lỗi
- biết Thiên Chúa một cách trọn hảo
- tuân giữ thánh chỉ, giới luật của Người
- chiều kích nội tâm (tâm hồn mới, Thần Khí Thiên Chúa)
- sự hiện diện của Thiên Chúa
- sự quy tụ dân Chúa đang tản mác về lại một mối
- tính phổ cập của ơn cứu độ nhờ của lễ đền tội và xá tội mà "Người Tôi Tớ đau khổ của Giavê" thực hiện.
B. Thử tìm bản văn cựu trào
Hiện chúng ta có bốn bản văn Tân Ước đề cập đến câu chuyện Chúa Giêsu lập Giao Ước Mới trong khung cảnh Bữa Tiệc Ly.
Thử phân tích một số chi tiết để cố tìm lại bản văn diễn tả chính lời của Chúa Giêsu trong Biến Cố Lịch Sử đó.
Ta đối diện với hai truyền thống :
Mc / Mt truyền thống Pha-lệ-tinh
Lc / Phaolô truyền thống Antiôkia
Từ ngữ "Giao Ước đều gặp thấy ở trong bốn bản văn của hai nguồn truyền thống đó :
Mc / Mt "Này là Máu Ta, Máu Giao Ước"
Truyền thống này như gợi lại một cách có chủ ý "Giao Ước Sinai"
Xh 24,8 Môsê lấy huyết mà rảy trên dân. Ông nói : "Này là máu Giao Ước đã kết với các ngươi"
Lc / Phaolô "Chén này là Giao Ước Mới trong Máu Ta"
Truyền thống này gợi lại lời công bố Giao Ước Mới mà Giêrêmia đã công bố (Gr 31,31-34)
Hai truyền thống này như thế có tính cách độc lập với nhau ; vì vậy đâu là truyền thống và bản văn diễn tả gần nhất Lời tuyên bố của chính Đức Giêsu trong Bữa Tiệc Ly ?
Ta thử tìm !
Khởi điểm là bản văn của thánh Phaolô : 1 Cr 11,23-25 là bản văn thành hình sớm nhất. Nhưng bản văn này mang tính chất phụng vụ, có khuynh hướng giải thích Lời Đức Giêsu cho rõ hơn, có suy tư thần học "Mới - kainê" và có khuynh hướng biện giáo "uống
Chén Máu".
Qua phân tích bản văn, ta thấy :
1) từ ngữ sử dụng không phải của Phaolô vì ngài chỉ truyền lại điều ngài đã lãnh nhận. ;
2) việc bản văn Phaolô hoàn toàn tương tự bản văn của Luca khiến chúng ta nhận định là bản văn này chính là công thức tế tự của Hội Thánh đương thời.
Từ đó, ta lần lên nguồn của nó :
1) niên kỷ bức thư (1 Côrintô) : khoảng 54
2) bản văn Phaolô "truyền lại" cho người Côrintô : khoảng năm 49
3) Phaolô đã "chịu lấy" từ Chúa : khoảng năm 45
4) Như vậy, bản văn của Luca phải có trước bản văn của Phaolô, vì Phaolô nhận được từ truyền thống mà truyền lại.
5) Vậy, xét về đặc tính sê-mít., thì bản văn Luca là kỳ cựu nhất.
Bằng cách đó, chúng ta có bản văn thuộc thập kỷ đầu tiên sau Bữa Tiệc Ly. Qua phân tính và tìm hiểu, ta nhận thấy : 1o cả bốn bản văn đều đồng nhất với nhau khi ghi lại Lời Đức Giêsu tuyên bố trên Bánh ; 2o Lời tuyên bố trên Chén rượu tuy có sự khác nhau, nhưng chỉ là những khác biệt thứ yếu, bên ngoài :
Lc / Phaolô "Chén này là Giao Ước Mới trong Máu Ta"
Mc / Mt "Chén này là Máu Ta, Máu Giáo Ước"
Cả hai truyền thống đều nói về Chén Máu đổ ra để thiết lập Giao Ước.
Từ đó, ta ghi lại những điểm chính yếu của nguồn các truyền thống :
"Này là Mình Ta" (= Thịt Ta)
"Này là Máu Giao Ước của Ta (= Giao Ước trong Máu Ta) đổ ra vì nhiều người"
Điều này được chứng minh nhờ chính lời của Phaolô :
1 "chính tôi đã chịu lấy nơi Chúa
điều tôi truyền lại cho anh em ."
Cả hai kiểu nói này đều liên hệ đến Truyền Thống ;
2 "Tôi đã chịu lấy" nơi Chúa . (paralambanein)
- para : chịu lấy nhờ được loan báo, được truyền tụng ;
- apo (nơi) : chỉ gốc, nguồn của Truyền Thống
Tôi đã chịu lấy . điều phát xuất từ Chúa (Tradition qui remonte au Seigneur)
C. Mạch văn lời tuyên bố của Chúa Giêsu
Lời tuyên bố của Chúa Giêsu xảy ra trong Bữa Ăn Vượt Qua.
Để thấy được nét phong phú của Bữa Ăn, ta có những yếu tố sau đây :
Mỗi bữa ăn trong não trạng, phong tục của Đông Phương là cơ hội diễn tả sự hòa bình, bình an, tin tưởng, huynh đệ ;
Bữa Ăn của Chúa Giêsu, đặc biệt với những người tội lỗi, thường bao hàm sự tha thứ. Từ đó khiến cho người biệt phái không thể chấp nhận được, vì Ngài đặt đồng bàn người tội lỗi lẫn lộn với người công chính ;
Sau biến cố ở Kaisaria của Philíp, mỗi bữa ăn với Chúa Giêsu đều là bữa ăn báo trước bữa Tiệc thời Thiên Sai ;
Hằng năm, Bữa Tiệc Vượt Qua đối với Dân là bữa tiệc của ngày lễ kỷ niệm biến cố Dân được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập, đồng thời hướng lòng Dân về viễn tượng ơn cứu độ trong ngày Đấng Mêsia xuất hiện ;
Bữa Tiệc Vượt Qua này mang trọn vẹn niềm hy vọng vượt qua => Bữa Tiệc Vượt Qua của Đức Giêsu trước khi Ngài chịu chết ;
Bữa Tiệc Tạ Ơn, Bữa Tiệc Thánh Thể : ta nên biết bữa tiệc vượt qua bình thường không phải là bữa tiệc giao ước ; nhưng Bữa Tiệc Vượt Qua này, nhờ các lời tuyên bố và hành động của Đức Giêsu, thật sự trở nên Bữa Tiệc Giao Ước.
Tìm hiểu nội dung bữa tiệc vượt qua :
1 phần chuẩn bị ;
2 phụng vụ trong bữa tiệc đang có chiên vượt qua để trên bàn và câu chuyện của người trưởng tộc khi nhắc laị cho mọi người trong gia đình biến cố và ý nghĩa Lễ Vượt Qua ;
3 bữa ăn chính : ăn chiên vượt qua với rau diếp đắng và bánh không men. Lời chúc tụng đọc trên bánh đã được bẻ ra ngay từ đầu ; lời tạ ơn cuối bữa ăn được đọc sau chén rượu thứ ba ;
4 kết lễ : hát thánh vịnh Hallel Vượt Qua :
Tv 113 - 118 : Tiểu tụng Hallel ;
Tv 136 Đại tụng Hallel.
Đặt các lời tuyên bố của Đức Giêsu trong bữa tiệc Vượt Qua :
Mc / Mt Ngài chúc tụng (Bánh) ; Ngài tạ ơn (Chén)
Lc/ Phaolô sau bữa ăn mới có lời tuyên bố trên Chén rượu.
Những sự kiện trên mang ý nghĩa gì ?
- Chúa Giêsu, bánh cầm trong tay và đang có chiên tế lễ vượt qua trước mặt Ngài. Ngài nói : "Này là Mình Ta".
- Sau bữa ăn, tức đã ăn chiên tế lễ vượt qua - bữa ăn tạ ơn vì máu chiên đã đổ ra nhắc lại máu giải thoát năm xưa -, Chúa Giêsu cầm lấy chén rượu trong tay. Ngài nói : "Này là Máu Ta".
Ý nghĩa việc đó là : chính Ta (Mình và Máu) là Chiên Vượt Qua thật, chiên đã được tế hiến (= đổ máu ra).
Điều đem lại ý nghĩa cho các môn đệ và đánh động họ không phải là việc Đức Giêsu bẻ bánh hoặc rót rượu vào chén, vì cả hai việc này đều thuộc nghi lễ bình thường của bữa ăn vượt qua, nhưng là việc ngoại lệ khi Đức Giêsu thêm vào mỗi lời chúc tụng tạ ơn của nghi lễ vượt qua . Lời tuyên bố giải thích của chính Ngài.
Chính Đức Giêsu trong dịp lễ đã giải thích nghĩa Chiên Hy Tế. Ngài đồng hóa Ngài với Con Chiên Hy Tế Vượt Qua. Và như vậy, Đức Giêsu minh nhiên tỏ cho các môn đệ biết trước :
Cái chết sắp tới của Ngài (= Máu Ngài đổ ra) cũng phải được hiểu là cái chết có sức mạnh đem lại ơn tha tội như cái chết của Người Tôi Tớ Giavê mà tiên tri Isaia đã loan báo (Is 52,13 - 53,12). [Giờ Đức Giêsu chết trên thập giá trùng vào giờ người ta giết chiên vượt qua để mừng lễ].
D. Việc ban giao ước mới trong máu Đức Giêsu-Kitô
Tại sao Đức Giêsu đã kết hợp hai việc :
- những lời Ngài giải thích về Bánh và Chén ;
- việc Ngài chia Bánh và Chén rượu cho các môn đệ ?
Như đã biết, Bữa Ăn có những yếu tố : ăn lương thực, diễn tả sự bình an, tin tưởng, huynh đệ, tha thứ. Vì thế, những người ăn Bánh và uống Chén rượu của Đức Giêsu-Kitô thì được tham gia vào lời chúc lành của Ngài.
Bánh (= Mình Đức Giêsu) - Rượu (= Máu Đức Giêsu) - cái chết của Ngài đem lại ơn tha tội. Ăn bánh và uống rượu : tham gia vào cái chết của Ngài, tức là tham dự vào kết quả mà cái chết ban ơn cứu độ đem lại.
Koinonia = Máu - Thịt Đức Kitô (1 Cr 10,16)
Vì cùng chia phần một Bánh, nên chúng ta là một thân thể (1 Cr 10,17) = Dân Mới của Thiên Chúa, các Tông Đồ tham dự Bữa Tiệc Ly là tiêu biểu.
Koinonia :
* tham dự vào cái chết tha tội của Đức Giêsu ;
** tham dự vào sự hiệp thông của những người được tha tội.
Mỗi lần ăn Bánh, uống Rượu tức là ăn Mình, uống Máu Đức Giêsu-Kitô, được tham dự vào cái chết của Ngài ; koinonia với Đức Giêsu mà cái chết của Đức Giêsu đem lại ơn tha tội, nên những ai tham dự vào Tiệc Giao Ước cũng được hồng ân đó.
Vì cùng chia phần một Bánh, nên tất cả đều là Một Thân Thể trong Đức Kitô (Unum Corpus in Christo).
Từ đó, Bữa Tiệc Giao Ước Mới đem lại hai hiệu quả :
1) tham dự vào cái chết tha tội của Đức Giêsu ;
2) tham dự vào sự hiệp thông của những người được tha tội. Đấy là hồng ân mà Bữa Tiệc Thánh Thể đem lại
"nhiều người" (x. Is 53,12) : anh em, dân Israel, muôn dân.
E. "các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta !"
Sau Lời chúc lành trên Bánh là lệnh truyền lặp lại nghi thức đó.
"Fractio panis" : Nghi thức bẻ Bánh trong Giáo Hội sơ khai.
"Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta", tức là nhớ đến Đức Giêsu. Đây là điểm độc đáo của Giao Ước Mới trong Máu Đức Giêsu.
"mà nhớ đến Ta" : không những nhớ đến Đức Giêsu, nhưng còn hướng về thời Thiên Sai, hướng về Ngày Đức Giêsu trở lại.
Thánh Phaolô viết : "loan báo cái chết của Đức Giêsu" gắn liền với việc "nhớ Đức Giêsu", "cho tới khi Người lại đến".
Mỗi khi công bố cái chết của Đức Giêsu trong Bữa Tiệc Giao Ước, đó chính là công bố, xác nhận (tin) rằng cái chết của Ngài thực hiện lời sấm ngôn Cựu Ước, và khai mở thời cứu độ của Giao Ước Mới., đồng thời khẩn xin Thiên Chúa ban Đấng Mêsia trở lại trong vinh quang.
Mysterium fidei : "Lớn lao thay mầu nhiệm đức tin !
Mortem tuam annuntiámus, Domine,
et tuam resurrectiónem confitémur,
donec vénias.
Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết
và tuyên xưng việc Chúa sống lại
cho tới khi Chúa lại đến.
Mỗi lần Hội Thánh cử hành Tiệc Giao Ước Mới là Đức Giêsu ban chính Mình Ngài cho các môn đệ cho đến khi Ngài trở lại. Tiệc Thánh Thể là nguồn mạch sự kiên vững của Hội Thánh cho đến Ngày Ngài lại đến (x. 1 Cr 11,26).
Nhờ Tiệc Giao Ước Mới này, Hội Thánh trở nên phong phú nhờ sự hiện diện vĩnh viễn của Đức Giêsu (= Nước Trời) và nhờ được nối kết với cuộc Khổ Nạn hồng phúc của Ngài.
Khi cử hành Thánh Thể, Hội Thánh là hiện thân Nước Thiên Chúa ở trần gian này cho đến khi Nước Thiên Chúa được tỏ hiện.
Tóm lại, Giao Ước Mới trong Máu Đức Giêsu làm cho tất cả đều quy tụ trong Ngài.
Ai ký Giao Ước ?
- Thiên Chúa (đại diện là Con Chiên), Đức Giêsu-Kitô ;
- cộng đoàn tín hữu (unus in Christo), Đức Giêsu-Kitô.
Bữa Tiệc - chính Đức Giêsu-Kitô (thức ăn thức uống)
Giới luật - Đức Giêsu-Kitô trong anh em.
Tuân giữ và vâng phục ? - chính Đức Giêsu-Kitô, để trở nên của chúng ta vì ta phải "mặc lấy Đức Kitô" (Gl 3,27)
VỊ THƯỢNG TẾ TRUNG GIAN CỦA GIAO ƯỚC MỚI (thư Hipri)
Chỉ nhìn vào từ ngữ "Giao Ước" được sử dụng trong thư Hipri 17 / 33 lần trong toàn bộ Tân Ước đủ để thấy Tác-giả có chủ ý và quan tâm đặc biệt đến chủ đề này.
Diathêkê [Dt 7,22 ; 8,6-13 ; 9,1-4.15-23 ; 10,16.19 ; 12,24 ; 13,20-21], và ngay cả nội dung bức thư, Tác-giả cũng đã trích dẫn nguyên văn các đoạn nổi tiếng của Cựu Ước đề cập về Giao Ước : Xh 24,8 = x. Dt 9,20 ; Gr 31,31-34 = x. Dt 8,8-12.
A. TÍNH CHẤT "MỚI" CỦA GIAO ƯỚC
Gọi là Giao Ước Mới vì so sánh với Giao Ước cũ.
Từ ngữ "Mới" sử dụng cho Giao Ước này để nói lên tính chất luôn luôn mới của Giao Ước, nghĩa là nó sẽ không bao giờ rơi vào tình trạng cũ.
Mt 9,17 Rượu mới (nêos), bình da cũ.
Mt 26,29 Rượu mới (kainos) trong Nước Cha Ta.
Và tính chất mới hoàn toàn như thế thì sẽ không bao giờ bị thay thế.
Do đó, Giao Ước Mới cần có một nền tảng mới, một căn bản mới có khả năng đảm bảo tính chất "Mới" vĩnh viễn của nó. Vì nếu không, ta không thể gọi là kainê diathêkê được, mà chỉ là sự làm mới, lặp lại Giao Ước cũ mà thôi., chỉ là tân trang mà thôi.
Giao Ước Mới ở đây không phải là tân trang, nhưng là mới hoàn toàn vì có căn bản mới. Để thấy rõ đặc tính "Mới" này của Giao Ước, chúng ta so sánh mối tương quan giữa Tế Tự và Giao Ước.
Sơ đồ của Tế Tự trong Giao Ước cũ (Dt 9,1-10) :
Dân Chúa - Tư tế - Lễ vật hy sinh - Đền thờ - Tư tế - Dân Chúa
Tất cả đều tách rời nhau :
Tư Tế => Lễ vật hy sinh (Dt 9,9-10)
Lễ vật hy sinh => Thiên Chúa (Dt 9,4-7)
Dân Chúa =>Tư Tế (Dt 9,6-7)
Và hiệu quả của tế tự trong Giao Ước cũ :
Dân Chúa được tinh luyện, được tha thứ ., nhưng chỉ nhất thời và không thể nào trọn vẹn đến cùng Thiên Chúa được, hoặc có đến thì đến từ xa xa . vì vẫn còn sự cách biệt.
Trong khi đó, việc tế tự trong Giao Ước Mới mang tính chất khác hẳn : nền tảng mới này là sự thay đổi tận căn do Đức Kitô thực hiện nhờ cuộc Khổ Nạn của Ngài.
"Quả là thích hợp
việc Đấng có vạn vật vì Người và do bởi Người
tra tay hướng dẫn số đông con cái về phúc vinh quang,
thì đã dùng thống khổ
luyện cho thành toàn Đấng khơi nguồn cứu rỗi (Dt 2,10)
"Dẫu là Con,
Ngài đã phải dãi dầu đau khổ
mà học cho biết vâng phục.
Và một khi thành toàn,
Ngài đã nên nguyên nhân cứu rỗi đời đời
Cho những ai vâng phục Người" (Dt 5,8-9)
"Đức Kitô đã đến như Thượng Tế của phúc lành lai thời
nhờ một nhà tạm lớn lao và trọn lành hơn,
không phải nhân tạo, nghĩa là không thuộc về tạo thành này,
không phải nhờ máu dê hay máu bê,
nhưng là nhờ chính Máu của Ngài,
Ngài đã vào Thánh Điện - duy chỉ một lần -
Sau khi đã thành đạt việc cứu chuộc muôn đời.
Vì nếu máu dê máu bò và tro tàn thân con bò cái
rảy trên những nhiễm uế
còn thánh hóa cho họ được trong sạch về phần xác,
thì Máu của Đức Kitô, Đấng nhờ Thần Khí hằng có
mà tiến mình làm hy sinh vô tỳ tích dâng lên Thiên Chúa,
sẽ rảy sạch lương tâm ta hơn biết mấy
khỏi các việc chết
mà phụng sự Thiên Chúa hằng sống" (Dt 9,11-14)
Như vậy, cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu-Kitô đã trở nên nền tảng mới của phụng tự trong Giao Ước Mới, trong đó được hủy bỏ hoàn toàn mọi phân cách :
1) giữa lễ vật hy sinh và Thiên Chúa. Đức Kitô chính là lễ vật xứng đáng :
"Máu của Đức Kitô, Đấng nhờ Thần Khí hằng có
mà tiến mình làm hy sinh vô tì tích dâng lên Thiên Chúa" (9,14)
2) giữa lễ vật hy sinh và tư tế. Đức Kitô hiến dâng chính mình Ngài (9,14.25) :
"Vào những ngày còn trong thân xác,
Ngài đã dâng lên cho Đấng có thể cứu Ngài khỏi chết
những lời cầu xin khẩn nguyện với lớn tiếng kêu van cùng nước mắt
và Ngài đã được nhậm lời thoát khỏi sợ hãi.
Dẫu là Con, Ngài đã phải đau khổ dãi dầu,
mà học cho biết vâng phục" (5,7-8)
3) giữa Dân Chúa và tư tế. Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô Thượng Tế đã khiến Ngài liên đới với mọi người :
"Do đó, trong mọi sự, Ngài đã nên giống các anh em Ngài
để trở thành Vị Thượng Tế lo việc Thiên Chúa,
vừa biết xót thương, vừa trung tín (= tín cẩn)
cốt để lo tạ tội cho dân.
Và đã trải qua thử thách bằng đau khổ,
thì Ngài có thể đáp cứu những ai chịu thử thách" (2,17t).
xt. Dt 4,15 - 5,10 Thượng Tế liên đới với mọi người : Ngài là Vị Thượng Tế đầy tình thương xót.
"Thượng Tế ta có không phải là người không thể cảm thông với nỗi yếu hèn của ta, song là Đấng đã dãi dầu thử thách, muôn sự đều tương tự, trừ phi là tội." (4,15)
"Và vì thế, Ngài là trung gian cho một Giao Ước Mới, ngõ hầu nhờ một cái chết đã xảy ra để chuộc những tội phạm thời giao ước thứ nhất, những kẻ được kêu gọi có phương lĩnh lấy cơ nghiệp đời đời đã hứa cho họ" (9,15)
Tóm lại. Tế Tự trong Giao Ước Mới có nền tảng mới :
- Lễ vật hy sinh và Thiên Chúa = Đức Kitô
- Lễ vật hy sinh và Tư Tế = Đức Kitô
- Dân Chúa và Tư Tế = cái chết của Đức Kitô Trung Gian.
B. ĐỨC KITÔ, VỊ THƯỢNG TẾ TRUNG GIAN CỦA GIAO ƯỚC MỚI
1. Tha thứ tội lỗi (Gr 31,34b)
a) Giao Ước cũ cũng được ký kết bằng máu, nhưng là máu của lễ vật hy sinh mà Môsê hay các tư tế dùng để rảy trên dân. Tác-giả thư Hipri nói đây chỉ là điều "mô phỏng", cho nên "máu không đổ thì tội vạ không tha" (Dt 9,18-22). Ngược lại, trong Giao Ước Mới, chính Vị Thượng Tế đổ máu mình, lấy máu Ngài làm lễ vật hy sinh đền tội và xóa tội, thì chính Ngài "khử trừ sự tội nhờ việc hy sinh của Ngài " (9,26) ; "Ngài đã hiến dâng mình một lần để cất tội lỗi nhiều người." (9,28 - xt. 10,1-19). "Ngài đã làm cho những kẻ được tác thánh nên thành toàn mãi mãi" (10,14).
b) Như thế, đời sống của con người trong Giao Ước Mới không còn bị nô lệ tội lỗi nữa, vì không những họ được tha thứ hết mọi tội lỗi, nhưng nếu họ lỡ phạm tội nữa thì họ nại tới Đức Kitoâ, Vị Thượng Tế Trung Gian, Đấng "lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương vừa trung tín cốt để lo tạ tội cho dân" (2,17). "Vậy ta hãy dạn dĩ tiến lại gần ngai tòa ân sủng hầu được đáp cứu đúng thời" (4,16). "Do đó, Ngài có thể chung tất cứu những kẻ nhờ Ngài lại gần Thiên Chúa, sống luôn mãi để chuyển cầu cho họ" (7,25)
c) Từ đó, những ai tự đặt mình ngoài Giao Ước Mới, không thể bắt gặp được ơn tha thứ : "Vì chưng nếu ta cố tình phạm tội sau khi đã lĩnh lấy tri thức về sự thật, thì không còn tế lễ đền tội nữa, nhưng là viễn tượng đáng kinh hãi : cuộc phán xét và lửa bừng bừng sẽ thiêu đốt phường đối địch. Kẻ nào phạm Luật Môsê, tất phải chết, không được dung thứ, theo chứng của hai hay ba người, thế thì anh em thử nghĩ xem, còn đáng phải chịu một hình phạt dữ dằn hơn gấp mấy, kẻ đã chà đạp Con Thiên Chúa, đã kể Máu Giao Ước đã tác thánh mình dường đồ dung tục, và đã lăng mạ Thần Khí ân sủng ?" (10,26-29)
d) Cho nên, để sống trong hồng phúc của con người được tha thứ mọi tội lỗi, Tác-giả thư Hipri khuyến dụ và nhắc nhở mọi người hãy sống trung thành với Giao Ước Mới :
- đừng lãnh bỏ ơn cứu rỗi (Dt 2,1-4)
- hãy hăm hở gắng vào nơi an nghỉ của Thiên Chúa (3,6 -4,11)
- khốn cho kẻ chối đạo (10,26-31)
- hãy kiên nhẫn trong lòng tin (10,36-39) - xt. 6,4-8
2. Giới luật nội tâm (Gr 31,33)
a) thay đổi Lề Luật, thay đổi tế vụ :
"vì một tế vụ đổi thay
thì nhất thiết cũng phải có sự thay đổi Lề Luật" (7,12)
". một đàng có sự bãi bỏ một tiền lệ
bởi nó đã liệt bại và vô hiệu lực,
còn một đàng là dẫn vào một hy vọng hoàn hảo
nhờ đó ta được lại gần Thiên Chúa" (7,18)
b) nguyên nhân sự bất lực của Lề Luật :
phụng tự bên ngoài (10,1.4-11)
* Hy tế của Chúa Kitô : việc gắn bó với ý muốn của Thiên Chúa thay thế Luật bên ngoài :
"Bởi đó, lúc vào trần gian Ngài nói :
Hy sinh cùng lễ vật Người đã chẳng màng,
nhưng Người đã nắn nên thân xác cho con.
Các lễ toàn thiêu cùng tạ tội, Người đã chẳng đoái.
Bấy giờ con nói : Này con đến, .
để thi hành ý muốn Người, lạy Thiên Chúa.
Trên kia thì rằng : các hy sinh cùng lễ vật,
các lễ toàn thiêu cùng tạ tội,
Người đã không màng không đoái,
- các điều ấy được hiến dâng chiếu theo Lề Luật -
bấy giờ Ngài đã nói :
Này con đến để thi hành ý muốn Người.
Ngài loại bỏ điều trước, để thiết lập điều sau.
Chính trong ý muốn ấy, mà ta đã được tác thánh,
nhờ việc Đức Giêsu-Kitô đã hiến dâng mình Ngài
- duy chỉ một lần" (10,5-10)
c) Ơn gọi kitô-hữu : thi hành ý muốn của Thiên Chúa
"Quả anh em phải có lòng kiên nhẫn, ngõ hầu sau khi đã thi hành ý muốn của Thiên Chúa, anh em được lĩnh lấy điều đã hứa" (10,36)
"Xin Thiên Chúa bình an, Đấng đã dẫn ra khỏi cõi chết Chúa chiên lớn lao trong Máu Giao Ước muôn đời, Chúa chúng ta, Đức Giêsu, xin Người chuẩn bị anh em xứng mọi sự lành, để thi hành ý muốn của Người, và thực hiện nơi anh em điều đẹp mắt Người, nhờ Đức Giêsu-Kitô. Vinh quang cho Ngài đời đời kiếp kiếp. Amen" (13,20-21)
3. Tương quan trực tiếp mỗi người với Thiên Chúa (Gr 31,33b-34a)
a) Tự do tiến vào Thánh Điện của Thiên Chúa (nhờ Máu Đ. Kitô)
"Một khi được dạn dĩ để vào Thánh Điện
nhờ Bửu Huyết của Đức Giêsu,
- con đường Ngài đã khai quang cho ta, tân kỳ và sống động, xuyên qua bức màn, tức là thân xác Ngài -,
một khi ta có Vị Tư Tế lớn lao trên nhà của Thiên Chúa,
ta hãy tiến lại, với một lòng chân thành sung mãn về đức tin,
bởi đã được rảy máu làm cho lòng dạ sạch khỏi tâm tà ;
và khi thân mình đã được tắm gội bằng nước sạch trong,
ta hãy nắm giữ không nao tín điều về niềm hy vọng,
vì Người trung tín, Đấng đã ban lời hứa" (10,19-23)
b) tiến dâng Thiên Chúa lễ tế ngợïi khen
"Vậy nhờ Ngài, mọi thời,
ta hãy tiến dâng Thiên Chúa lễ tế ngợi khen,
tức là hoa quả của những môi miệng tuyên xưng danh Người.
Đừng lãng quên đức từ thiện, việc tương tế,
Vì những lễ tế như thế Thiên Chúa vui lòng chiếu nhận" (13,15-16)
c) vai trò Trung Gian cần thiết của Đức Giêsu :
"nhờ Bửu Huyết của Đức Giêsu" (10,19)
"ta có Vị Tư Tế lớn lao trên nhà Thiên Chúa" (10,21)
"nhờ Ngài." (13,15)
"nhờ Đức Giêsu-Kitô" (13,21)
d) cộng đoàn tín hữu noi gương lòng tin của các mục tử, vâng phục lời của họ :
"Anh em hãy nhớ đến những người lãnh đạo anh em,
họ đã giảng Lời Thiên Chúa cho anh em.
Hãy nhìn ngắm xem họ kết liễu làm sao mà noi gương lòng tin của họ" (13,17)
"Anh em hãy vâng lời những người lãnh đạo anh em,
hãy biết phục tùng, vì họ canh giữ linh hồn anh em,
như những kẻ sẽ phải trả lẽ,
để họ được vui mừng thi hành phận sự,
chứ không phải than phiền,
vì điều ấy chẳng báo bổ gì cho anh em" (13,17)
khích lệ nhau :
"Anh em hãy khuyên răn nhau" (3,12-13)
"không bỏ bê việc nhóm hội với nhau . một hãy khích lệ nhau." (10,25)
"hãy theo đuổi bình an với mọi người, và sự thánh thiện." (12,14-15)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét