Truyền Giáo Tại Châu Á: Kể Chuyện Chúa Giêsu
Đức Cha Luis Antonio G. Tagle
Giám mục Imus, Philippin
Bài diễn văn chính trong Đại Hội Truyền Giáo Á Châu
Chiang Mai, Thái Lan 19 tháng 10, 2006
Đại Hội Truyền Giáo Á Châu là một dịp để thực hiện lời kêu gọi truyền giáo của Giáo Hội. Với lòng tri ân, Đại Hội nhớ lại những đường lối truyền giáo mà Giáo Hội đã vận dụng tại Châu Á. Đại Hội vui mừng vì những nỗ lực không ngừng dành cho công cuộc truyền giáo với biết bao chứng tá dũng cảm, đức tin sống động và tình yêu tha thiết. Đại Hội một lần nữa kêu gọi chúng ta nỗ lực dấn thân đáp lại mệnh lệnh ngàn đời của Chúa Giêsu Kitô là đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho toàn thể trái đất. Đại Hội hối thúc chúng ta tìm ra những phương thế mới để hiểu và thực hành truyền giáo, mà vẫn trung thành với Truyền Thống phong phú của Giáo Hội cũng như đáp ứng được các thực tại trước mắt đối với các dân tộc tại Châu Á.
Có thể cho rằng lịch sử của Giáo Hội cũng là lịch sử truyền giáo. Lịch sử đa tầng và đa sắc diện này, khởi đi từ thời Tân Ước, chứng thực cho nhiều phương cách Giáo Hội đã hiểu và thực hành truyền giáo. Chúng tôi đưa ra một nhận định này là giữa lòng Giáo Hội duy nhất và phổ quát vẫn hiện hữu các Giáo Hội địa phương với những hoàn cảnh lịch sử hết sức đăc thù, và bởi đó cũng tồn tại rất nhiều kinh nghiệm và quan niệm riêng về truyền giáo. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tái khẳng định trong Thông Điệp Redemptoris Missio (RM) cái nhìn căn bản của Sắc Lệnh Ad Gentes (AG) [1] rằng truyền giáo là một thực tại đơn nhất nhưng lại đa dạng, được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau.[2] Sát cánh cùng Giáo Hội tiếp tục tìm kiếm một cách năng động những phương hướng truyền giáo thích hợp cho thời điểm và vị trí đặc thù của chúng ta, Đại Hội đề xuất một sự tìm hiểu và thực hành truyền giáo tập chú vào Câu Chuyện Chúa Giêsu tại Châu Á.
Một câu chuyện không chỉ là một câu chuyện đơn thuần. Một câu chuyện chỉ thật sự là một câu chuyện khi được truyền hoặc được kể, và được khao khát lắng nghe. Ngày hôm nay một trong những thể loại kể chuyện là chia sẻ. Trong Tông Huấn Ecclesia in Asia (EAs), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trình bày truyền giáo như là sự chia sẻ ánh sáng đức tin vào Chúa Giêsu, một hồng ân đón nhận cũng là một hồng ân để chia sẻ cho các dân tộc ở Châu Á [3]. Sự chia sẻ ấy có thể mang hình thức kể chuyện Chúa Giêsu. Tôi tin rằng kể chuyện đưa ra một khuôn khổ đầy sáng tạo để hiểu rõ công cuộc truyền giáo tại Châu Á, một lục địa mà các nền văn hoá cũng như các tôn giáo đã cắm rễ sâu vào các câu chuyện tuyệt vời hoặc các thiên sử thi. Đức Gioan Phaolô II cũng nhìn nhận phương pháp kể chuyện, vốn gần gũi với các hình thức văn hoá Á Châu là một phương thế thích hợp để loan tin Chúa Giêsu tại Châu Á (EAs 20).
Hiểu ‘Câu Chuyện’ và Kể Chuyện
Đời sống con người không thể nào tưởng tượng được nếu không có các câu chuyện. Đời sống tự nó mang một cơ cấu chuyện kể. Câu chuyện làm trung gian giữa đời sống và ý nghĩa của nó. Kể chuyện đến với chúng ta thật tự nhiên đến nỗi chúng ta không đủ suy tư về ý nghĩa của nó đối với đời sống chúng ta. Trong những năm qua, các nhà chuyên môn đã tái khám phá ý nghĩa vai trò của kể chuyện trong những công trình chuyên biệt. Thần học và linh đạo đã lợi dụng phương cách “chuyển qua chuyện kể” này [4]. Việc truyền giáo cũng có thể được thêm phong phú bằng hình thức tương tự. Chúng ta hãy dành một ít thời gian để suy nghĩ về câu chuyện và sự kể chuyện. Bài trình bày của tôi không nhằm bao quát hết. Nội dung sẽ chỉ dựa trên một số khía cạnh giúp suy tư và thảo luận thêm, những khía cạnh có thể giúp hiểu rõ việc truyền giáo như là việc kể chuyện Chúa Giêsu.
1. Những câu chuyện hay dựa trên kinh nghiệm. Có những câu chuyện hay và những câu chuyện dở. Nhưng sự khác biệt không luôn luôn tuỳ thuộc vào phong cách của người kể chuyện hoặc vào phần kết thúc câu chuyện. Rốt cuộc chúng ta muốn nghe một câu chuyện đáng tin, một câu chuyện khả tín vì nó là thực. Nền tảng mạnh mẽ nhất của sự thật là kinh nghiệm trực tiếp của người thuật chuyện. Trong khi những trình thuật viên kể lại kinh nhiệm của ai đó có thể là những người đáng tin, thì chẳng gì có thể sánh được với câu chuyện của một người thật sự ở đó khi sự kiện xảy ra, bởi vì biến cố đó là một phần của con người ấy. Chúng ta kể những câu chuyện hay nhất nếu chúng nói về chính kinh nghiệm của chúng ta. Những câu chuyện hay nhất là những câu chuyện kể về chính mình.
2. Những câu chuyện tỏ lộ cá tính mỗi người, mỗi dân tộc và các biến cố hình thành cá tính ấy. Các câu chuyện biểu tỏ con người chúng ta, dòng sống cùng sự cảm nhận cuộc sống cũng như đường hướng chúng ta đang đi. Câu chuyện của tôi là bản tự thuật đời tôi, là cá tính nằm trong một lược đồ đan xen biết bao sự vật. [5] Khi tôi kể các câu chuyện ngắn thì câu chuyện nguồn gốc cuộc đời tôi không chỉ hé lộ cho người nghe, nhưng trước tiên là cho tôi, người thuật chuyện. Tôi ý thức về chính tôi. Nhưng một cách tuần tự tôi hiểu rằng câu chuyện không chỉ là về tôi. Nó cũng luôn hướng về người khác, về gia đình và bạn bè của tôi, về xã hội, văn hoá, nền kinh tế, hoặc tất cả những gì mà chúng ta gọi chung là “thời thế”. Câu chuyện tôi kể không diễn tiến trong một khoảng không. Tôi là tôi vì tôi được đầm mình trong những câu chuyện của những người khác cũng như những câu chuyện của thời đại tôi. Nếu tôi thờ ơ hoặc bác bỏ những câu chuyện đó, tôi sẽ không có câu chuyện riêng để kể. Khi kể câu chuyện của tôi, tôi ý thức về thế giới tôi đang sống trong đó.
3. Những câu chuyện luôn năng động, nó mở ra sự diễn giải lại và kể lại, nó mang tính biến đổi. Cá tính được hình thành bởi sự tương tác với thế giới đã đi vào kí ức. Khơi gợi kí ức là tích cực nếu chúng ta muốn thăng tiến về sự minh triết. Nhưng chúng ta tưởng nhớ bằng cách kể các câu chuyện. [6] Kí ức được tạo lập do bởi các câu chuyện hơn bởi các mốc niên sử và những câu chuyện đưa kinh nghiệm trở lại tâm trí. [7] Khi hồi tưởng chúng ta nhận ra rằng quá khứ không hoàn toàn tĩnh. Nó luôn nhào nắn chúng ta. Quá khứ cũng có thể được nhận ra trong nguồn ánh sáng mới từ lăng kính của những kinh nghiệm mới. Quả thật chúng ta kể cùng một câu chuyện bằng những cách thức khác nhau. Những câu chuyện hé lộ những gì làm nên chúng ta bây giờ và phân biệt chúng ta với những gì trước đó, rồi mở ra những khả năng cho tương lai. Qua chuyện kể chúng ta tiếp xúc với động năng của sự biến đổi cá tính: chúng ta đã thay đổi nhiều như thế nào và chúng ta còn phải thay đổi bao nhiêu nữa.
4. Các câu chuyện làm nền tảng để hiểu rõ các biểu tượng thiêng liêng, tín lí và đạo đức. Chuyện kể biểu tỏ cá tính bằng cách làm trồi hiện lên các giá trị, các quy tắc luân lí và những gì một người coi là ưu tiên. Đời sống thiêng liêng của một người hiện ra trong câu chuyện của họ. Những biểu tượng đạo đức, thiêng liêng và tín lí thiết thân với một người xuất phát từ những câu chuyện về đời sống của người ấy. Những biểu tượng sống động sâu xa ấy chỉ có thể hiểu được khi câu chuyện được kể và được nghe.[8] Chuyện kể là thiết yếu cho việc tạo ra ý nghĩa của những biểu tượng đức tin và luân lí nơi một người.
5. Chuyện kể hình thành cộng đoàn. Những gì chúng ta đã trình bày trên đây về câu chuyện và tính cách của một người cũng đúng cho căn tính của một cộng đoàn. Kinh nghiệm chung và những kí ức nối kết các cá nhân đơn độc lại thành một khối chặt chẽ. Những chuyện kể riêng biệt của một cộng đoàn trở nên cốt lõi các giá trị, đời sống đạo đức và thiêng liêng của cộng đoàn ấy.[9] Niềm tin riêng, các nghi lễ, việc cử hành, tập tục và cách sống của một cộng đoàn chỉ có ý nghĩa đối với chúng ta nếu chúng ta trở về với các câu chuyện mà những thành viên trong cộng đoàn ấy cùng chung lưu giữ và yêu mến.
6. Chuyện kể khi được đón nhận có thể biến đổi người lắng nghe. Những kinh nghiệm vàng son được nhắc đến và được kể lại trong các câu chuyện.[10] Khi chúng ta trải qua một chuyện buồn vui đáng nhớ, chúng ta không thể chờ đợi mới kể ra cho một ai đó. Động lực này nhắc bảo chúng ta rằng câu chuyện cần một người để nghe, cần một người để chia sẻ. Câu chuyện của một người có thể đánh thức hoài niệm về những kinh nghiệm tương tự nơi người nghe, mở ra những ý nghĩa mới, tạo ra sự kinh ngạc và lay động khỏi sự ngủ mê. Sự giao ứng và đáp trả từ phía người nghe bắt đầu khi người kể kết thúc câu chuyện.[11] Câu chuyện của người kể đan kết với câu chuyện của người nghe làm nảy sinh ra những câu chuyện mới. Thông thường một người biết lắng nghe cũng sẽ trở thành một người kể chuyện hay. Một người đã có kinh nghiệm kết nối câu chuyện của người khác vào chuyện của mình khi nghe chắc chắn cũng biết sẻ chia câu chuyện của mình để kết dệt vào câu chuyện của người khác.
7. Các câu chuyện có thể được kể bằng nhiều cách khác nhau. Một câu chuyện được kể nhiều cách, dẫu xét đúng nghĩa thì có thể không phải là kể chuyện. Kể bằng miệng vẫn còn là phổ biến nhất. Nhưng chuyện còn được kể qua chữ viết, tiểu thuyết hoặc thi ca. Phim, ảnh là những phương thức kĩ thuật cao để kể chuyện. Cử chỉ, điệu bộ của một người, thói quen ứng xử, giọng nói, cách nhăn mặt và những tư thế của thân xác được hiện thực như một nhân vật trong một câu chuyện. Sự im lặng của một người có thể là cách thế kể chuyện hữu hiệu. Bằng sự quảng diễn, thái độ của một người, cách sống và tương quan của người ấy có thể tham gia vào sự kể chuyện và tạo ra những câu chuyện mới. Vũ điệu, âm nhạc, nghệ thuật, kiến trúc, ẩm thực của một cộng đồng là những yếu tố then chốt dệt nên những câu chuyện. Chuyện kể được cấu kết hết sức phong phú đến nỗi chúng mở ra nhiều cách thức dùng để kể.
8. Chuyện kể có thể bị dấu kín. Dù rằng kể chuyện đến với chúng ta thật tự nhiên, nhưng một vài yếu tố có thể ém việc kể chuyện đi. Đau khổ do bởi kí ức bị thương tổn, xấu hổ hoặc tội lỗi có thể ngăn cản nạn nhân ấy kể hết câu chuyện của họ. Để giữ lại một chút danh giá sau những kinh nghiệm đau buồn, một nạn nhân có thể không cho rằng câu chuyện ấy là một phần cá tính và kí ức của họ. Các nhà độc tài cấm kể những chuyện thối nát, đàn áp, giết chóc và phá hoại nếu không, chế độ của họ bị lung lay. Họ áp đặt một lịch sử chính thức của đất nước nhằm xoá bỏ kí ức đăt họ vào vùng tối xấu xa tệ mạt. Môt số câu chuyện quá nguy hiểm đến nỗi không được kể, bởi vì những người lắng nghe có thể nghe theo tiếng gọi biến đổi. Những trận chiến ác liệt nhất đang diễn ra hằng ngày là về các câu chuyện. Nhưng sự chữa trị là khả thi. Khi các nạn nhân ấy được cho phép kể các câu chuyện đời họ với những người bạn đầy lòng trắc ẩn, những nhà tư vấn, những chuyên gia biết tỏ lòng cảm thương và cảm thông thì lòng tự trọng của họ dần dần được phục hồi. Ở đâu mà các cộng đồng đòi hỏi những câu chuyện thật về họ, ở đó họ cũng đòi quyền thay đổi xã hội.
Chúng ta vừa dành thời giờ tìm hiểu ý nghĩa các câu chuyện và việc kể chuyện để khám phá các khả năng của chuyện kể trong việc nắm hiểu và thực hành truyền giáo.
Truyền Giáo như là Việc Kể Chuyện Chúa Giêsu tại Châu Á
Trước tiên chúng ta cùng khẳng định với Ad Gentes của Công Đồng Vatican II rằng Giáo Hội lữ hành tự bản chất là truyền giáo bởi vì Giáo Hội bắt nguồn từ sứ vụ của Chúa Giêsu Kitô và Chúa Thánh Thần, hợp nhất trong ý muốn cứu chuộc của Chúa Cha (AG 2). Để những gì Chúa Giêsu đã hoàn tất trong việc cứu chuộc con người đạt được hiệu quả đúng thời đúng buổi, Người đã sai Chúa Thánh Thần đến từ Chúa Cha để thực hiện công trình cứu chuộc của Người giữa lòng Giáo Hội (AG 3- 4). Bởi vậy thật là thích hợp để gọi Chúa Thánh Thần là nguyên lí nền tảng của Truyền Giáo, như Đức Gioan Phaolô II đã làm (x. RM, chương III). Chính Chúa Thánh Thần giúp Giáo Hội chu toàn nhiệm vụ truyền giáo được trao phó cho mình (EAs 43).
Từ cái nhìn này, sứ vụ của Chúa Giêsu Kitô và của Chúa Thánh Thần có thể được coi như chính câu chuyện của Thiên Chúa. Thiên Chúa là “vị kể chuyện”.[12] Chúa Thánh Thần sẽ kể chuyện Chúa Giêsu cho Giáo Hội. Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”(Ga 14, 26). Ba ngôi vị trong Ba Ngôi Thiên Chúa còn được Chúa Giêsu mô tả như là “kể chuyện” cho nhau. “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Người lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em”(Ga 16, 13- 15). Việc truyền giáo của Giáo Hội là kết quả của Câu Chuyện mà Chúa Thánh Thần loan báo cho Giáo Hội từ Chúa Giêsu và Chúa Cha. Cội nguồn công cuộc truyền giáo của Giáo Hội là Chúa Thánh Thần, Đấng Kể Chuyện Siêu Phàm, Đấng mà Giáo Hội phải lắng nghe để có thể chia sẻ những gì mình đã nghe được. Giáo Hội là Người của Thiên Chúa kể chuyện về Chúa Giêsu Kitô như Giáo Hội đã nghe từ Chúa Thánh Thần.
Giáo Hội phải kể câu chuyện Chúa Giêsu thì không có gì phải nói. Vấn đề cốt yếu đối với Châu Á là chia sẻ câu chuyện ấy thế nào, như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chỉ ra một cách chính xác (EAs 19). Khía cạnh “thế nào” của công cuộc truyền giáo đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà thần học Á Châu, như Michael Amaladoss, S.J.[13] Chúng tôi đưa ra một số suy tư về cách hiểu câu chuyện để mời gọi chúng ta hãy nhìn vào truyền giáo như kể câu chuyện Chúa Giêsu dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
1. Giáo Hội kể chuyện Chúa Giêsu từ kinh nghiệm của mình về Chúa Giêsu. Kể chuyện Chúa Giêsu tại Châu Á sẽ tạo được hiệu quả nếu nó xuất phát từ chính kinh nghiệm của người kể chuyện. Lời nhận xét của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI trong Thông Điệp Evangelii Nuntiandi [14] rằng con người ngày nay tin vào các chứng nhân hơn là tin vào các thầy dạy thật rất chính xác, nhưng còn đúng hơn đối với Châu Á, nơi mà các nền văn hoá đăt nặng tính xác thực được kiểm nghiệm về các chứng nhân. Các môn đồ đầu tiên, những người Châu Á, nói bằng chính kinh nghiệm của mình. Họ nói những gì họ đã nghe, họ tận mục sử thị, họ nhìn thấy được và sờ được bằng tay những gì liên quan đến Ngôi Lời Sự Sống (1 Ga 1, 1- 4). Không thể có con đường nào khác cho Giáo Hội hiện nay tại Châu Á. Nếu không có kinh nghiệm sâu xa về Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc, làm sao tôi có thể kể câu chuyện của Người một cách xác tín như một phần câu chuyện của riêng tôi? Kinh nghiệm của thánh Phaolô nêu lên điểm căn cốt của việc truyền giáo khi ngài nói: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân tong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20). Kể chuyện Chúa Giêsu tại Châu Á đòi hỏi Giáo Hội phải gặp gỡ Chúa Giêsu một cách sống động trong sự cầu nguyện, trong việc thờ phượng, trong việc đón tiếp mọi người, nhất là những người nghèo khổ, và nhận ra “dấu chỉ thời đại” qua các biến cố thường ngày.
2. Câu chuyện Chúa Giêsu biểu tỏ căn tính của Giáo Hội nơi những người nghèo khổ, trong các nền văn hoá và tôn giáo tại Châu Á. Như một câu chuyện hé lộ cá tính một người thì câu chuyện niềm tin vào Chúa Giêsu cũng tỏ rõ căn tính của người kể với tư cách một người tin. Một chứng nhân kể câu chuyện của mình về việc gặp Chúa Giêsu thì không thể che dấu căn tính của mình là môn đệ của Đấng Cứu Chuộc. Giống như một mạng lưới của các tương quan với dân chúng, với nền văn hoá và các trào lưu xã hội hình thành nên một câu chuyện riêng tư hoặc căn tính, thì việc kể chuyện Kitô giáo tại Châu Á được thực hiện trong tương quan với những người khác. Căn tính Kitô và câu chuyện tại Châu Á luôn hiện hữu với, chứ không tách khỏi những người thuộc các nền văn hoá và tôn giáo khác. Câu chuyện Chúa Giêsu được kể bởi những Kitô hữu Á Châu, là những người hiện diện với và giữa người nghèo, giữa các nền văn hoá và các tôn giáo đa dạng của Châu Á, họ xác định một phần căn tính và các câu chuyện của họ như những người Châu Á. Thực tại của Châu Á đã thôi thúc Jonathan Yun-Ka Tan nhận định rằng truyền giáo cho các dân tộc- missio ad gentes- ngày hôm nay phải được hiểu theo một mẫu thức mới là truyền giáo giữa các dân tộc- missio inter gentes. [15] Nhưng tôi cho rằng missio ad gentes không thể bị loại bỏ mà đúng hơn được thực hiện inter gentes. Không thể có việc truyền giáo thật sự hướng về các dân tộc mà lại không đồng thời được thực hiện giữa các dân tộc. Truyền giáo giữa các dân tộc khích lệ truyền giáo hướng về các dân tộc. Đồng hành và hiện diện giữa người nghèo, giữa các nền văn hoá và các tôn giáo, những Kitô hữu Á Châu là người Châu Á. Với người nghèo và cho người nghèo, cho các nền văn hoá và các tôn giáo, các Kitô hữu Á Châu là các Kitô hữu. Tôi tin rằng sự nhào trộn các câu chuyện này có thể làm phong phú cho rất nhiều suy tư của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC) về truyền giáo như là đối thoại với người nghèo, với các nền văn hoá và với các tôn giáo tại Châu Á. [16]
3. Giáo Hội lưu kí hồi ức về Chúa Giêsu một cách sống động. Hiện diện giữa và cho những người Châu Á khác, Giáo Hội kể chuyện Chúa Giêsu theo cách là tưởng nhớ Chúa Giêsu đang sống. Tưởng niệm Chúa Giêsu không có nghĩa là khoá kín hoài niệm ấy trong một cách thế hiện hữu bất khả xâm phạm. Kí ức sống lại khi được tái phục hồi và được chia sẻ. Tin cậy nơi Chúa Thánh Thần và trung thành với kí ức được bảo lưu trong Truyền Thống của Giáo Hội Hoàn Vũ, Giáo Hội tại Châu Á phải lấy can đảm mà tái khám phá những phương thế mới để kể chuyện Chúa Giêsu, tìm lại sự sống hoạt của nó và mở ra những năng lực để canh tân các thực tại Á Châu.
Câu chuyện Chúa Giêsu, nếu chỉ được cất giữ như một thiên truyện trong viện bảo tàng thì không đem lại sức sống. Trong Ecclesia in Asia (EAs 19- 20, 22), Đức Gioan Phaolô II đặt ra thách thức cho việc tìm kiếm một khoa sư phạm để có thể làm cho câu chuyện Chúa Giêsu gần gũi hơn với cảm thức của người Châu Á, nhất là đối với những nhà thần học. Ngài muốn rằng cùng một câu chuyện có thể được kể trong nhãn quan mới và trong ánh sáng của những hoàn cảnh mới.
4. Câu chuyện Chúa Giêsu đem lại ý nghĩa cho các tín điều đức tin của Giáo Hội. Tôi cho rằng các câu chuyện chứa đựng ý nghĩa về đời sống thiêng liêng, về đạo lí và những xác tín mà một người hằng ấp ủ. Điều có thể xảy ra là Giáo Hội có thể tự đồng hoá quá chặt chẽ với một số tín điều “chuẩn mực” hoặc kiểu mẫu về tín lí, luân lí và phụng tự đến nỗi câu chuyện tạo nên sức bật cho chúng lại bị bỏ qua. Khi đó chính các tín điều lại đánh mất năng lực tiếp cận quần chúng. Các tín điều đức tin phải được cắm rễ trở lại câu chuyện nền tảng về Chúa Giêsu. Chẳng hạn việc bẻ bánh trong Bí Tích Thánh Thể phải được nhìn qua nhiều câu chuyện về sự chia sẻ, sự chăm sóc và sự hiệp thông, mà nếu không có nó nghi lễ sẽ bị tước mất hết ý nghĩa. Chiếc nhẫn của giám mục phải phát xuất từ một câu chuyện sống động về sự phục vụ cộng đồng, nếu không, chiếc nhẫn chỉ được coi như một vật trang sức. Vai trò biểu tượng của linh mục như sự hiện diện của Chúa Giêsu phải phát xuất phát từ câu chuyện sống động về sự sẵn sàng phục vụ dân chúng, nếu không, chức linh mục sẽ trở nên như một địa vị xã hội hơn là một ơn gọi. Các tín điều trong đạo phải có thể được vạch nối đến câu chuyện nền tảng về Chúa Giêsu. Việc trở về với câu chuyện Chúa Giêsu hẳn sẽ tạo cho Giáo Hội tại Châu Á chỉnh sửa những cảm tưởng về sự ngoại lai gắn liền với giáo thuyết, nghi lễ và tín điều của Giáo Hội (EAs 20). Tách biệt khỏi câu chuyện nguồn cội về Chúa Giêsu, các tín điều của Giáo Hội có thể kể một câu chuyện xa lạ với chính Chúa Giêsu.
5. Câu Chuyện Chúa Giêsu tạo sinh Giáo Hội. Các câu chuyện cũng hình thành một cộng đồng, như chúng ta đã tìm hiểu. Trong kinh nghiệm và kí ức chung, các cộng đồng tìm được sự gắn kết và giá trị chung. Kí ức chung về câu chuyện Chúa Giêsu do Chúa Thánh Thần khởi sinh phải là nguồn mạch căn bản cho sự hiệp nhất và sự đồng nhất đức tin của Giáo Hội tại Châu Á. Sách Thánh, các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, các tín điều, nghi lễ và Thánh Truyền là những phương thức để liên tục kể câu chuyện Chúa Giêsu hầu tưởng niệm về Người như cốt lõi của cộng đồng Kitô. Nhưng cảm thức này của cộng đồng không thể miễn thứ cho việc tách Giáo Hội ra để cộng đồng duy trì căn tính của riêng mình. Câu chuyện Chúa Giêsu làm thành cộng đồng Kitô hữu cũng chính là câu chuyện mà toàn thể cộng đồng phải chia sẻ. Theo khuôn mẫu của phép kể chuyện, Giáo Hội sẽ đánh mất căn tính của mình nếu Giáo Hội không kể câu chuyện là chính căn tính của mình. Chúa nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.”(Mc 8, 35- 36) FABC xác tín rằng toàn thể Giáo Hội được kêu gọi để truyền giáo.[17] Các Giáo Hội địa phương cần biện phân và phát huy nhiều ơn ban do Chúa Thánh Thần khơi dậy để các Giáo Hội có thể đóng góp vào việc kể chuyện Chúa Giêsu. Toàn thể Giáo Hội, hoa trái của câu chuyện Chúa Giêsu sẽ trở thành người kể chuyện của Giáo Hội.
6. Giáo Hội đang lắng nghe cũng kể Câu Chuyện Chúa Giêsu. Các câu chuyện tìm được sự toàn vẹn của nó nơi người nghe. Nhưng những câu chuyện bị áp đặt thì không được lắng nghe. Giáo Hội tại Châu Á phải xác tín sự sống động của câu chuyện mình đưa ra, không mang theo một ý đồ áp đặt người khác. Đức Gioan Phaolô II nói với chúng ta trong Ecclesia in Asia rằng chúng ta chia sẻ hồng ân của Chúa Giêsu không phải để cải đạo mà vì vâng lời Chúa và như một hành vi phục vụ các dân tộc tại Châu Á. Hãy để cho câu chuyện lên tiếng và tiếp xúc. Hãy để cho Chúa Thánh Thần mở rộng tâm trí người nghe và mời gọi họ biến đổi. Số đông các dân nghèo tại Châu Á có thể tìm được lòng trắc ẩn và niềm hi vọng trong câu chuyện Chúa Giêsu. Các nền văn hoá Á Châu sẽ náo động cất vang lời thách đố đòi hỏi tự do đích thực cho họ trong câu chuyện Chúa Giêsu. Các tôn giáo đa dạng tại Châu Á sẽ trầm trồ cảm phục và tán dương những người đang tìm kiếm Thiên Chúa cùng sự thánh thiện đích thực trong câu chuyện Chúa Giêsu. Giáo Hội tại Châu Á được mời gọi để khiêm tốn mở đường cho Chúa Thánh Thần chạm vào những người lắng nghe. Là một người kể chuyện của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tại Châu Á phải đi vào thế giới và ngôn ngữ của những người lắng nghe từ nội tâm họ để kể câu chuyện Chúa Giêsu đúng hệt như vào ngày lễ Ngũ Tuần.[18] Nhưng điều đó cũng có nghĩa là Giáo Hội tại Châu Á phải là một người biết lắng nghe Chúa Thánh Thần và những người nghèo, các nền văn hoá và các tôn giáo nếu Giáo Hội muốn nói cho thật có ý nghĩa. Một Giáo Hội kể chuyện phải là một Giáo Hội biết lắng nghe. [19]
7. Giáo Hội kể Câu Chuyện Chúa Giêsu theo những đường lối đa dạng. Các câu chuyện có thể được kể bằng nhiều cách khác nhau. Câu chuyện Chúa Giêsu cũng vậy. Giáo Hội tại Châu Á, với gia sản phong phú là kể chuyện, thủ đắc được từ các gia đình, làng xóm Á Châu, từ các tôn giáo và sự minh triết truyền thống, có thể rất sáng tạo trong việc kể chuyện Chúa Giêsu. Chứng tá cho một đời sống thánh thiện, đạo đức, chính trực vẫn còn là câu chuyện hấp dẫn nhất về Chúa Giêsu tại Châu Á. [20] Đời sống thánh thiện của những người nam nữ, của các vị tử đạo chứng minh câu chuyện Chúa Giêsu được khắc hoạ vào các cá nhân và các cộng đồng như thế nào.[21] Những người nam nữ đã hiến thân phục vụ đồng loại, như Chân phúc Têrêxa Calcutta, là những câu chuyện sống động mà các dân tộc Á Châu thích nghe. Bảo vệ người nghèo, hành động đòi công lí, thăng tiến đời sống, chăm sóc bệnh nhân, giáo dục thiếu nhi và giới trẻ, xây dựng hoà bình, giảm miễn các khoản nợ nước ngoài và bảo trợ các công trình sáng chế là những cách thức kể lại câu chuyện Chúa Giêsu hôm nay tại Châu Á. [22] Nhưng Giáo Hội cũng còn phải sẵn sàng đón nhận những phương thức bất ngờ của Chúa Thánh Thần để kể lại câu chuyện Chúa Giêsu.
8. Giáo Hội là tiếng nói của các câu chuyện bị chèn ép. Thật là tai tiếng khi mà việc hà hiếp áp bức các câu chuyện vẫn xảy ra hằng ngày tại nhiều miền tại Châu Á. Những người nghèo, các trẻ em gái, các phụ nữ, những người tị nạn, những di dân, những người dân bản địa, những nạn nhân của các hình thức bạo lực gia đình, chính trị và sắc tộc cùng các thảm hoạ môi trường chỉ là một số ít những câu chuyện bị đàn áp nêu trên. Nhiều người sợ những câu chuyện họ sẽ kể. Hay là họ sợ nghe sự thật và các đòi hỏi? Giáo Hội kể câu chuyện Chúa Giêsu mà những lời lẽ thường rơi vào những lỗ tai điếc đặc, do đó Người đã bị xử tử để Người không còn có thể kể câu chuyện của Người nữa. Do đó tại Châu Á, Giáo Hội mang một trọng trách đối với Người là phải tự tạo cho mình trở nên người kể chuyện không bằng tiếng nói, để tiếng nói của Chúa Giêsu có thể được lắng nghe trong những câu chuyện bị đàn áp.
Kết luận
Truyền giáo như là kể câu chuyện Chúa Giêsu đã và đang diễn ra tại Châu Á. Chúng ta tôn vinh nhiều người kể chuyện của Chúa Thánh Thần mà những câu chuyện họ kể, dù bị giấu kín, đã tạo sinh nhiều câu chuyện mới trong đời sống nhiều anh chị em tại Châu Á.
Tôi xin kết thúc bằng việc hướng nhìn về Chúa Giêsu, là Logos hoặc Câu Chuyện Thiên Chúa và là vị Thầy kể chuyện Nước Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhìn lên Người. Chúng ta hãy lắng nghe Người. Chúng ta hãy học cùng Người. Chúng ta hãy mở rộng lòng đón nhận câu chuyện Người kể và cách Người kể chuyện. Câu chuyện của Người là nói về Abba (Chúa Cha) mà Người đã cảm nghiệm và về sự sống viên mãn mà Abba ban tặng. Tuy nhiên, bình sinh Người đã sống như một người Do Thái, một người dân Á Châu bình thường, với gia đình, bè bạn, Người giao tiếp với các người phụ nữ, các trẻ em, những ngoại kiều, những thủ lãnh đền thờ, những thầy thông luật, những người nghèo, những người đau ốm, những người bị bỏ rơi, những người tội lỗi và những địch thủ. Tất cả họ là một phần trong con Người của ngài. Người quy tụ một cộng đồng, một gia đình mới gồm những người lắng nghe và thực hành Lời Thiên Chúa. Người đã kể cho họ nghe những câu chuyện về Abba và sự sống trong Abba. Người sử dụng ngôn ngữ của họ. Các dụ ngôn của Người thật giản dị nhưng có sức hoá giải. Người kể cho họ về Abba qua các bữa ăn, qua những dịp chữa bệnh, qua lòng trắc ẩn, qua lòng thương xót, qua sự tha thứ, và qua sự phê phán thói đạo đức giả. Câu chuyện của Người dẫn Người đến một bữa ăn, tại đó Người đã trở thành của ăn và Người đã rửa chân cho các bạn hữu của Người. Không điều gì có thể cắt cụt câu chuyện Ngươi kể, cho dẫu là thập giá. Cái chết ô nhục của Người hẳn phải là hậu kết câu chuyện của Người. Nhưng Abba vẫn còn điều phải nói, “Con Ta- Người Con đó đã sống lại thật.” Khi đổ tràn ân sủng Chúa Thánh Thần vào tâm hồn chúng ta, Chúa Giêsu kí thác câu chuyện của Người cho chúng ta. Tôi nghe Người đang nói: “Hãy lắng nghe câu chuyện của tôi. Hãy đi và kể lại câu chuyện của tôi tại nơi nó đã khởi đầu, hỡi Châu Á yêu dấu của tôi! ”
Ghi chú :
1 Công Đồng Vatican II, Ad Gentes, 6.
2 x. Gioan Phaolô II, Redemptoris Missio, 41.
3 x. Gioan Phaolô II, Ecclesia in Asia, 10.
4 Một mẫu điển hình là Michael L. Cook, S.J., Christology as Narrative Quest (Collegeville, MN: 1997).
5 x. Richard Woods, O.P., “Good News: The Story Teller as Evangelist”, New Blackfriars 81 (2000): 206.
6 Ibid ., p. 205.
7 x. Richard Bayuk,C.P.P.S., “Preaching and the Imagination,” Bible Today , 38 (2000): 289, 292.
8 x. Cook, p. 31.
9 x. Jose Mario C. Francisco, S.J., “The Mediating Role of Narrative in Inter Religious Dialogue: Implications and Illustrations from the Philippine Context,” East Asian Pastoral Review, 41 (2004):164.
10 x. Bayuk, p. 289.
11 Ibid ., p. 290.
12 Cook, p. 39.
13 Xin xem thêm các công trình của Michael Amaladoss, S.J., “Images of Jesus in India,” East Asian Pastoral Review 31 (1994): 6-20 and “‘Who Do You Say that I Am?’ Speaking of Jesus in India Today,”East Asian Pastoral Review , 34 (1997): 211-224.
14 Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, 41.
15 Jonathan Yun-Ka Tan, Missio Inter Gentes: Towards a New Paradigm in the Mission Theology of the FABC , FABC Papers No. 109.
16 Tài liệu căn bản FABC I (1974), “Evangelization in Modern Day Asia”, especially # 12, 14, 20, G. Rosales and C.G. Arevalo, editors, For All the Peoples of Asia , Volume I (Quezon City:Claretian Publications, 1997), pp. 11-25. Nhiều phiên họp toàn thể và các nghiên cứu của các học viện của FABC khai sáng thêm cho cái nhìn căn bản của FABC I trong những hoàn cảnh đang biến chuyển.
17 x. BIMA III (Third Bishops’ Institute for Missionary Apostolate, 1982), #5, Ibid . p. 104.
18 x. BIRA IV/12, (Twelfth Bishops’ Institute for Interreligious Affairs on the Theology of Dialogue, 1991) # 42-47, Ibid ., p. 332.
19 x. BIRA I (First Bishops’ Institute for Interreligious Affairs, 1979), # 11-14, Ibid ., p. 111.
20 x. BIMA III (Third Bishops’ Institute for Missionary Apostolate, 1982) # 10, Ibid ., p. 105.
21 x. Francisco, p. 167.
22 x. EAs # 33-41.
Linh mục Giuse Ngô Quang Trung dịch trong Sedos.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét