VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Ðaminh Phạm Trọng Khảm, Giáo dân
Ngày 13 tháng 01
Tin mừng
Tin Mừng thánh Gioan 12,24-26
24 Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết
đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt
khác.25 Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình
ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.26 Ai phục vụ Thầy, thì hãy
theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha
của Thầy sẽ quý trọng người ấy."
25 Whoever loves his life loses it, and whoever hates his life in this
world will preserve it for eternal life.
26 Whoever serves me must follow me, and where I am, there also will my
servant be. The Father will honor whoever serves me.
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề của hình này là gì ?
………………………………………………….
* Bạn hãy viết câu Tin mừng thánh Gioan 12,25
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. Hạt lúa thì được gieo vào đâu ? (Ga 12,24)
a. Bờ hồ
b. Vườn nho
c. Lòng đất
d. Cả a, b và c đúng
a2. Ai quý điều gì của mình thì sẽ mất ? (Ga 12,25)
a. Của cải
b. Con cái
c. Vinh hoa
d. Mạng sống
a3. Ai coi thường điều gì của mình ở đời này thì sẽ giữ
được nó cho sự sống đời đời ? (Ga 12,25)
a. Của cải
b. Con cái
c. Gia nghiệp
d. Mạng sống
a4. Ai phục vụ thầy thì làm gì ? (Ga 12,26)
a. Hãy theo thầy
b. Hãy tuân giữ các điều răn của thầy
c. Hãy vác thập giá mình theo thầy
d. Hãy vững tin, vì thầy đã thắng thế
gian
a5. Hạt lúa được gieo vào lòng đất nếu không chết đi thì
nó thế nào ? (Ga 12, 24)
a. Sinh nhiều bông hạt
b. Trơ trọi một mình
c. Chờ đợi mùa mưa đến
d. Chờ mùa gặt tới
B.
Ðaminh Phạm Trọng Khảm (1780-1859)
b1. Quan Án Ðaminh Phạm Trọng Khảm (Án Trọng), sinh tại Quần Cống,
Nam Ðịnh, Giáo dân Dòng Ba Ða Minh, chịu tử đạo dưới triều vua nào ?
a. Vua Tự Đức (1847-1883)
b. Vua Thiệu Trị (1841-1847)
c. Vua Minh Mạng (1820-1841)
d. Vua Cảnh Thịnh (1782-1802)
b2. Quan Án Ðaminh Phạm Trọng Khảm (Án Trọng) chịu tử đạo thế nào ?
a. Bị xử giảo
b. Bị xử trảm
c. Bị thiêu sống
d. Xử lăng trì
b3. Quan Án Ðaminh Phạm Trọng Khảm (Án Trọng) chịu tử đạo tại Nam Định
vào năm nào ?
a. Năm 1835
b. Năm 1839
c. Năm 1859
d. Năm 1862
b4. Quan Án Ðaminh Phạm Trọng Khảm (Án Trọng) được
Giáo hoàng nào tôn phong lên bậc chân phước (1951) ?
a. Đức Giáo hoàng Piô X
b. Đức Giáo hoàng Lêô XIII
c. Đức Giáo hoàng Piô XII
d. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII
b5. Thánh Ðaminh Phạm Trọng
Khảm (Án Trọng) được mừng kính vào ngày nào ?
a. Ngày 12 tháng 06
b. Ngày 21 tháng 12
c. Ngày 05 tháng 06
d. Ngày 13 tháng 01
III.
Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Cái gì được gieo vào lòng đất mà
không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình ? (Ga 12,24)
02. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ
mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự
sống ... ... ... . (Ga 12,25)
03. Ai yếu quý điều gì của mình thì sẽ
mất? (Ga 12,25)
04. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ có thái
độ nào với người ấy ? (Ga 12,26)
05. Hạt lúa được gieo vào đâu ? (Ga 12,24)
06. Ai … … … Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy. (Ga 12,26)
Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì ?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
“Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở
đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”
Tin Mừng thánh Gioan 12,25
Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Ðaminh Phạm Trọng Khảm
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề
Quan án Ðaminh Phạm
Trọng Khảm chịu tử đạo
* Tin mừng thánh Gioan 12,25
“Ai
yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này,
thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. d. Cả a, b và c đúng (Ga 12,24)
a2. d. Mạng sống (Ga 12,25)
a3. d. Mạng sống (Ga 12,25)
a4. a. Hãy theo thầy (Ga 12,26)
a5. b. Trơ trọi một mình (Ga 12,24)
B.
Ðaminh Phạm Trọng Khảm
b1. a. Vua Tự Đức (1847-1883)
b2. a. Bị xử giảo
b3. c. Năm 1859
b4. c. Đức Giáo hoàng Piô XII
b5. d. Ngày 13 tháng 01
Ô
CHỮ
01. Hạt lúa (Ga 12,24)
02. Đời đời (Ga 12,25)
03. Mạng sống (Ga 12,25)
04. Quý trọng (Ga 12,26)
05. Lòng đất (Ga 12,24)
06. Phục vụ (Ga 12,26)
Hàng dọc : Tín
Thác
Gb.
Nguyễn Thái Hùng
++++++++++++++++++++++++++++++++++
Ðaminh Phạm Trọng Khảm (1780-1859)
Ðaminh Phạm Trọng Khảm, chánh án, Dòng Ba Ða Minh;
sinh năm 1780 tại Quần Cống, Nam Ðịnh; chết ngày 13 tháng 1 năm 1859 tại Nam Ðịnh.
Ngài là một nhân vật giầu có và được dân chúng kính nể, và cũng là bề trên của
Dòng Ba Ða Minh. Ngài cùng với con trai và nhiều người trong tu hội phải chết
vì bảo vệ cho các giáo sĩ. Phong Á Thánh 1951. Lễ kính Ngày 13 tháng 1.
Đaminh PHẠM TRỌNG KHẢM (1780-1859) - Quan Án
Đaminh Phạm Trọng Khảm sinh khoảng năm 1780 trong một
gia đình bảy anh em giàu có tại làng Quần Cống tại làng Xã Lũ, phủ Xuân Trường,
tỉnh Nam Định (nay thuộc phận Bùi Chu). Thân phụ ông là cụ Phạm Tri Khiêm, một
hương chức danh giá được dân làng trọng vọng. Hấp thụ được nhiều tính tốt của
cha cậu Khảm nổi tiếng là người con có hiếu. Năm 18 tuổi, anh vâng lời song thân
kết hôn cùng cô Anrê phượng, một thiếu nữ đạo hạnh trong làng. Hai vợ chồng sống
rất thuận hòa, được dân làng tin phục mến yêu. Đặc biệt hai người biết hiệp lực
giáo dục và khích lệ con cái học hành. Con trai ông là Cai Thìn cũng làm đến chức
Chánh Tổng, được mọi người kính nể và kiên trung làm chứng cho đức tin đến hơi
thở cuối cùng với cha của mình. Ba người con gái của ông là bà Nhiêu Côn, Nhiêu
Trữ và Hậu Địch cũng được đi học như các con trai, nổi tiếng lanh lợi tháo vác.
Khi bị bắt, vợ cụ An Khảm đã gần 80 tuổi, vừa là
tiên chỉ trong làng vừa là hội viên dòng ba, kiêm chức Trùm họ trong giáo xứ. Mọi
người đều công nhận cụ là người đạo đức, giàu lòng bác ái và lòng nhiệt tình
trong những trách vụ. Các thừa sai, cả các Giám Mục cũng biết tiếng và cũng đến
trọ nhà cụ trong những ngày khó khăn. Với giáo xứ cụ cộng tác đắc lực với cha sở
trong việc điều hành tổ chức họ đạo. Với xóm làng cụ là một người đức độ, quan
tâm đến nhu cầu mọi người cả xác lẫn hồn, sẵn sàng chia sẻ của cải cho kẻ nghèo
khó, và khích lệ mọi người can đảm trước những bách hại. Gia phả con cháu cụ đi
lại rằng : "Gia nhân phải kiếm kẻ nghèo khó vào ngồi chung thì cụ mới ăn
cơm."
Vì sẵn của cải, cụ chia sẻ cho mọi người, có lần cụ
kiếm cớ đãi cả làng. Cụ cho anh mõ đi rao khắp các hẻm mời mọi người ra ruộng tổ
chức đua diều. Ai thắng ai thua không thành vấn đề, miễn là mọi người được một
bữa no say.
Khi quân lính đến bao làng Quần Cống, cụ tập họp mọi
người lại, khuyên họ bền chí. Để khích lệ những người nhát đảm, cụ nói :
"Kẻ nào trong anh em đạp lên Thánh Giá khi quan về, tôi sẽ đuổi ra khỏi
làng, sẽ không có chỗ mà chôn xác đâu". Thế rồi cụ bị bắt, và trên đường
áp giải những tín hữu "cố chấp" về Nam Định, cụ Án được tách riêng,
nhốt ngay trong thuyền của quan để khỏi ảnh hưởng đến người khác. Nhưng suốt thời
gian tù, cụ vẫn là chỗ dựa là nguồn an ủi, là người khích lệ và chia sẻ tinh thần
cũng như vật chất cho các bạn tù.
Giuse PHẠM TRỌNG TẢ (1800-1859) -
Luca PHẠM TRỌNG THÌN (1820-1859) - Chánh Tổng
Cuộc đời của hai ông Cai Tả, Cai Thìn tuy cách biệt
nhau 20 tuổi đời, nhưng đã hòa lẫn với nhau trong cùng bối cảnh lịch sử thời tử
đạo, một vị là cựu, một vị là Chánh Tổng làng Quần Cống. Phải làm gì bây giờ chắc
chắn hai ông đã phải bàn luận với nhau rất nhiều, để cùng với sự ủy thác của đức
Cha Sampecro Xuyên, giám mục giáo phận Trung khi đó, hai ông chọn giải pháp hòa
bình bằng phương thế đối thoại. Một mặt với uy tín riêng, các ông trấn an các
tín hữu. Mặc khác quan hệ với quan tổng đốc để gợi lên quan tấm lòng nhân ái và
quãng đại. Rất tiếc, đường lối đó không đạt như sở nguyện, nên hai ông đã trả
giá cho sứ mạng hòa giải bằng chính mạng sống của mình.
Giuse Phạm Trọng Tả sinh khoảng năm 1800 tại làng Quần
Cống, xã Trà Lũ, phủ Xuân trường tỉnh Nam Định. Cai Tả là anh em thúc bá với
thánh Án Khảm, là con Đaminh Phạm Thăng. Khi bị bắt ông đã 60 tuổi, là một kitô
hữu đạo đức, một hội viên dòng ba Đaminh và là cựu chánh tổng đã chu toàn chức
vụ của mình. Phụ lực với cháu Cai Thìn, ông tìm cách giúp mọi người sống đạo
trong hoàn cảnh khó khăn. Gia phả con cháu ghi rằng : "Đầy tớ ông rất
đông, chưa tết ông đã đi thăm viếng từng nhà và cho tiền mừng rất hậu. Số tiền ấy
thường gấp đôi số quà cáp họ biếu xén ông trong năm. Tiền thóc gia nhân vay mượn
ông thường cho một nửa, nếu túng quá thì cho luôn. Công nợ của dân trong làng
cũng châm chước như thế. Khi bà cai lên tiếng cằn nhằn, ông thản nhiên trả lời
'mình quên nợ người chúa quên tội mình'".
Luca Phạm Trọng Thìn là con trai cụ An Khảm, sinh
khoảng năm 1820 tại làng Quần Cống, xã Trà Lũ, phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định.
Như ta đã biết về cụ An Khảm, dưới mái nhà gia giáo và khá giả này, cậu Thìn đã
lớn lên trong bầu khí đạo đức, được ăn học thành người. Nhờ trí khôn thông minh
nhanh nhậu và chăm chỉ chuyên cần chẳng bao lâu anh đã "công thành danh toại".
Khi bị bắt ông Cai Thìn khoảng 40 tuổi và đang là Chánh Tổng, vừa quyền thế vừa
uy tín. Thực ra khi mới lên chức vụ này, vì giao tiếp với quan lại nhiều, có thời
kỳ ông có vợ nhỏ là cô Trung người Trà Lũ, nên thờ ơ việc đạo nghĩa (vợ chính ông
Cai Thìn là bà Maria Tâm). Nhưng sau nhờ lời khuyên của thân phụ, nhất là của
cha giải tội, ông đã thành tâm sám hối. Từ đó ông trở thành một mẫu gương thánh
thiện, một gia trưởng và một hội viên dòng ba Đaminh đạo đức, một thủ lảnh đáng
tin cậy.
Năm 1858, tình hình bắt đạo đang gia tăng, và liên
quân Pháp-Tây Ban Nha đang đe dọa dân Việt ở Đà Nẵng, vua Tự Đức thêm phẫn nộ
ra lệnh cho quan quân triệt để thi hành các sắc chỉ nhắm vào đạo gia tô. Nhưng
thực tế việc việc thi hành này lệ thuộc nhiều vào các quan địa phương có sốt sắng
hay không. Lợi dụng điều đó, Đức Cha Sampedro Xuyên đã ủy thác cho Cai Tả và
Cai Thìn trọng trách sứ giả hòa bình, vì cũng thuộc thành phần lãnh đạo, dễ
dàng tiếp xúc với cấp trên.
Hiểu ý Đức Cha và nắm tình hình các tín hữu Quần Cống,
hai ông đã đến gặp trực tiếp Tổng Đốc Nam Định, xin ông nương tay cho các tín hữu
được bình an, và hứa kêu gọi dân chúng trung thành với đức vua. Cuộc thương
thuyết sắp thành công, nhưng không ngờ lúc ấy tại Cao Xá, một người vì bất mãn
chính sách của nhà vua, đã xúi dục một nhóm người nổi loạn chống lại các quan địa
phương. Thế là vị Tổng Đốc liền đổi ý, ra lệnh tiếp tục truy lùng các thừa sai,
các đạo trưởng và các giáo hữu có uy tín trong dân. Quan kết án Cai Tả, cai
Thìn là lừa dối và tìm dịp để bắt hai ông. Chúng ta sẽ biết cơ hội để quan thực
hiện ý đồ đó trong phần sau.
Ba lần ra trước tòa, cả ba lần hai ông đều cương quyết
không bước qua Thập Giá, dù bị dọa nạt đánh đập. Khi quan yêu cầu hai ông viết
những suy nghĩ của mình lên giấy, Cai Thìn đã viết bảng tuyên xưng Đức Tin rõ rệt
và can đảm như : "Tôi là một Kitô hữu, tôi sẳn sàng chấp nhận mọi cực
hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ
trong đạo tôi thờ. Chính tay tôi viết điều này Luca Thìn".
Ông Cai Tả không cương quyết không xúc phạm Thánh
Giá, ông còn khuyên bảo mọi người đừng phạm thứ tội mà ông gọi là "ghê tởm"
đó .
Nếu Đức Giêsu Hoàng Tử Bình An đã dùng Thánh Giá khổ
nhục để hòa giải nhân loại bạc bẻo với Chúa Cha thì cuối cùng, hai ông Cai Tả và
Cai Thìn sẽ mãi mãi là sứ giả Hòa Bình bằng cái chết để chứng tỏ lòng mình luôn
trung tín với Thiên Chúa và trung thành với Giáo Hội.
* *
*
Năm 1858 khởi đầu cho giai đoạn 5 cuộc bách hại đạo
gay gắt nhất trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam. Nhà vua treo giải thưởng xứng
đáng cho những ai tố cáo nơi trú ẩn của các vị thừa sai Âu Châu và ngược lại sẽ
trừng trị đích đáng những kẻ chứa chấp họ. Thế là các Ngài phải nay đây mai đó,
trốn từ làng này qua làng khác. Quần Cống là một nơi ẩn náu khá an toàn, vì các
chức sắc trong làng là ngừơi Công Giáo, và chính họ sẵn sàng đón tiếp các Ngài.
Đức cha Sampedro xuyên, đại diện tổng tòa giáo phận Trung dự đoán có thể bị bắt
bất ngờ, đã thủ phong giám mục phó cho Đức cha Valentino Vinh ngày 14-06 tại
ninh Cường, hai cha Riano Hòa và Carrerras Hiển là phụ phong. Sau đó cả bốn vị
đều ẩn tại làng Quần Cống, trọ tại nhà cụ An Khảm, Cai Tả và Nhiêu Côn.
Quan An sát Nam Định được mật báo làng Quần Cống chứa
chấp Tây dương đạo trưởng, liền huy động quân lính đến vây bắt. Nhưng cụ An Khảm
kịp biết tin, vội vàng tìm cách đưa các vị thừa sai trốn khỏi làng. Đức cha
Vinh và hai Linh mục qua làng Trà Lũ. Đức cha Xuyên đi qua Kiên Lao (ngày 08-07
mới bị bắt). Sau khi các thừa sai đã đi xa, cụ cho mỏ làng đi trước, đích thân
cầm roi đi sau, bắt mõ làng rao lớn tiếng : "Trình quan viên làng nước, có
lệnh cụ Án truyền rằng : người nào quá khóa phải phạt ba roi và bị đuổi ra khỏi
làng." Rồi cụ tụ tập dân lại khích lệ họ.
Sau đó, quan quân ùa vào làng, họ bắt toàn thể dân
làng tập trung lại, và rồi gọi cụ An Khảm ra trình diện và nói : "Mau nộp
ngay lập tức các đạo trưởng Tây dương và bản quốc, cũng như bọn thầy giảng lẩn
trốn trong làng. Nếu bất tuân lão sẻ bị bắt, bị tịch thu tài sản, nhà cửa sẽ bị
thiêu hủy, còn chíng lão sẽ bị kết tội chống cưỡng nhà vua." Cụ An Khảm hết
sức bình tĩnh vì biết chắc các thừa sai đã trốn xa rồi, cụ mạnh bạo trả lời :
"Đúng, đạo chúng tôi có các đạo trưởng nhưng các ngài ở đâu làm sao chúng
tôi biết được. Xin quan cứ tự do lục soát nếu tìm thấy vị nào trong làng thì
quan muốn làm gì cũng được."
Thế là quân lính chia nhau lục soát khắp ncả nhà, dĩ
nhiên là không tìm thấy một linh mục. Nhưng lính lại phát hiện được một số tượng
ảnh, áo lễ nên chủ nhà bị kết tội là chứa chấp đạo trưởng. Cụ An đã đứng ra nhận
là mình đã mua những thứ đó. Tuy vậy quan vẫn ra lệnh bắt trói cả nhà.
Trở lại nơi tập trung dân làng, quan An sát cho đặt
một Thánh Giá ngay giữa sân, rồi bắt mọi ngừơi lần lượt bước qua. Nhưng quan đã
thất bại dù lính có đi tới đi lui đe dọa, toàn thể dân làng không một ai bước
qua Thánh Giá. Một bô lão có lẽ vì quá sợ, run rẩy tiến lên vài bước, định thi
hành lệnh quan, nhưng cụ An nhanh chân hơn cản lại và khiển trách. Viên quan tức
giận quát lên rằng : "Ta sẽ mất chức nếu không kết tội đươc An Khảm và bọn
người vô phúc này." Thế rồi quan lại bắt trói An Khảm, Cai Tả và Cai Thìn
và một số người khác, rồi giải về Nam Định, riêng cụ An được chở đi trong thuyền
của quan.
Chúng tôi được nước Thiên Đàng
Về tới Nam Định, hai cha con cụ An Khảm được gặp
nhau trong những lần ra tòa, và sau này được giam chung. Hai cha con vui mừng
và xúc động khuyến khích nhau chịu khổ vì lòng kính mến chúa Kitô.
Tất cả những tù nhân Quần Cống hẹn với nhau quyết
tâm trung thành với đức tin, dù phải hy sinh mạng sống. Riêng cụ An Khảm đã nhiều
lần đại diện cả nhóm trả lời với quan, đã tìm cách giáo lý trong đạo.
Một hôm sau khi bắt được Đức Cha Xuyên, quan cho dẫn
ba ông đến trước mặt Đức Cha. Các ông kính cẩn chào hỏi và không dấu được niềm
vui gặp lại vị chủ chăn của mình. Thấy thế quan phỏng đoán và kết tội các ông
chứa chấp vị thừa sai này. Tuy thực sự Đức Cha đã ở nhà mình, cụ An Khảm tìm
cách trả lời chung chung : "Là ngừơi tín hữu, chúng tôi tôn kính và yêu mến
bất cứ một linh mục nào, dù chưa hề quen biết."
Sau bốn tháng rưỡi bị giam, một hôm quan báo cho biết
là cả ba vị đều bị kết án xử giảo. Ông Cai Thìn hỏi lại án đã kết tội gì, quan
cho hay là tội chống lại nhà vua. Ong Thìn cực lực phản đối. Cuối cùng theo đề
nghị của ông, bản án được viết thêm bốn chữ "bất khẳng quá khóa";
nghĩa là tội không chịu bước qua Thập Giá. Các ông vui mừng hân hoan vì được chết
cho Đức Kitô. Và trong những ngày còn lại, các ông chuẩn bị sốt sắng đón chờ
ngày lãnh nhận hồng phúc tử đạo.
Ba vị chứng nhân đức tin đã cảm nghiệm sâu xa lời Đức
Kitô chúc phúc cho những người bách hại vì danh Ngài. Đối với ba vị, bị bắt chịu
khổ nhục, bị giết vì danh Đức Kitô là niềm vinh phúc lớn lao. Các vị đã hân
hoan đón chờ nó, đồng thời khích lệ an ủi các tín hữu khác. Và khi nghe báo giờ
xử tử đã tới, cụ An Khảm vui vẻ nói với mọi người : "Cha con chúng tôi hôm
nay được nước Thiên Đàng". Cả ba vị đã sẵn sàng giả từ trần gian để về hợp
đoàn với hàng ngũ các thánh Tử Đạo, và mở rộng đôi tay đón nhận phần thưởng
vinh phúc Chúa đã hứa ban cho những tôi trung của Ngài.
Ngày 13-01-1859, ngoài ba vị An Khảm, Cai Tả và Cai
Thìn còn có bảy giáo hữu làng Quần Cống khác được đưa ra pháp trườngBảy Mẫu,
Nam Định. Trên đường đi các vị lớn tiếng đọc kinh. Đến nơi xử các vị tiếp tục đọc
kinh Tin, Cậy, Mến và nhiều lần kinh Ăn Năn Tội chung với nhau, rồi lớn tiếng
kêu Chúa Giêsu.
Quân lính mạnh tay xô các vị té ngửa trên đất, rồi
trói chân tay từng người vào cọc đã chôn sẵn. Mỗi người bị hai người lính cầm
hai đầu dây thừng tròng qua cổ và kéo thật mạnh cho đến khi tắt thở. Các tín hữu
làng Quần Cống rước các vị đưa về quê mình, và tổ chức an táng trọng thể.
Đức Piô XII đã suy tôn ba anh hùng tử đạo : Đaminh
Phạm Trọng Khảm, Giuse Phạm Trọng Tả, Luca Phạm Trọng Thìn lên bậc chân phước
ngày 29-04-1951. Ngày 19-06-2002, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các Ngài lên hàng
hiển thánh.
Nguồn từ tu viện Đa Minh
Trường
Thi tử Đạo
Bảy chín tuổi cụ Phạm Trọng Khảm
Sống qua thời dưới tám triều Vua
Gia đình Quần Cống quê mùa
Mẹ cha phú quý chẳng thua thị thành
Phần con cái hạ sanh được bảy
Cả gái trai hết thảy đều ngoan
Mười tám tuổi quen một nàng
Kết hôn chị Phượng người làng đoan trang
Vợ chồng sống đảm đang đạo đức
Ðược bốn con rất mực nết na
Cụ ham học, giỏi tề gia
Dùi mài kinh sử thật là thông minh
Thi đỗ đạt Triều đình phong chức
Án Sát Quan nhất mực thanh liêm
Nhưng sau cụ bị tố liền
Là người Công giáo vua truyền nghe theo
Bị cách chức, phẩm đeo lột hết
Về xóm làng, khăn xếp bạch đinh
Ðức tin cụ vẫn nhiệt tình
Bước theo chân Chúa, tôn vinh danh Ngài
Nơi làng cũ triển khai làm ruộng
Rất cần cù ưa chuộng tình thương
Giúp người lạc lối lỡ đường
Giàu lòng bác ái giáo lương một nhà
Chia của cải gần xa nghèo túng
Nhập dòng ba hướng đúng Ðaminh
Nghèo hèn cụ trọng chẳng khinh
Ðón mời kẻ khó gia đình ăn chung
Ðược Cha xứ trong vùng tín nhiệm
Ðặt làm trùm đại diện giáo dân
Sau bầu lý trưởng thấy cần
Phải nhờ Giám mục lãnh phần động viên
Cụ Trọng Khảm nể liền đảm nhận
Rất nhiệt tình tường tận giúp dân
Các Thừa sai khắp xa gần
Những ngày gặp khó ân cần giúp ngay
Dân mộ mến thăng ngay Tiên Chỉ
Vẫn giữ luôn hoan hỉ đạo đời
Thanh liêm vọng tiếng khắp nơi
Án Quan từ bỏ rạng ngời đức tin
Tại Bảy Mẫu vui nhìn xử trảm
Chúa thưởng ban xứng đáng Nước Trời
Ðaminh Trọng Khảm lìa đời
Ðược phong Hiển thánh rạng ngời Thiên Cung
Quan Án Sát oai hùng từ bỏ
Trong gia đình giàu có sẻ chia
Bạch đinh từ chối mũ hia
Lý hình xử giảo cắt lia thân mình
Phạm Trọng Khảm hy sinh tử đạo
Vẫn kiên trung loan báo Tin mừng
Thánh nhân gương mẫu sáng trưng
Tôn vinh danh Chúa lẫy lừng năm Châu
Phạm Trọng Khảm sinh đầu Canh Tý (1780)
Năm Kỷ Mùi (1859) vì đạo chứng minh
Tân Mão (1951) Toà Thánh thuận tình
Suy tôn Chân phước hiển vinh Nước Trời
Lời
bất hủ: Thánh nhân can đảm tuyên bố trước anh em binh sĩ:
"Kẻ nào trong anh em đạp lên Thánh giá, khi quan về, tôi sẽ đuổi ra khỏi
làng, sẽ không có chốn nào chôn xác đâu".
Lời tâm niệm chung 1: Chúng ta noi gương các thánh Tử
đạo Việt Nam, hết lòng kính mến Chúa và yêu thương mọi người, bằng cách giúp đỡ
tha nhân phần hồn lẫn phần xác, trọn đời chịu cực chịu khó để tin thờ Thiên
Chúa, sẵn sàng hy sinh giúp đỡ những người làm việc tông đồ, và nâng đỡ anh em
đồng đạo, trung thành với Chúa, với Giáo hội cho đến hơi thở cuối cùng...
http://tinmung.net/CACTHANH/118ThanhTDVN/INDEX.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét