Trang

Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2018

VHTK Thánh Giuse Phạm Trọng Tả (Cai), Giáo dân




VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Giuse Phạm Trọng Tả (Cai), Giáo dân
Ngày 13 tháng 01

Tin mừng

Tin mừng Gioan 17,11b-19

11 Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha.

12 Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh.13 Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói những điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con.14 Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian.15 Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần.16 Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian.17 Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.18 Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian.19 Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.


11
 And now I will no longer be in the world, but they are in the world, while I am coming to you. Holy Father, keep them in your name that you have given me, so that they may be one just as we are.
12 When I was with them I protected them in your name that you gave me, and I guarded them, and none of them was lost except the son of destruction, in order that the scripture might be fulfilled.
13 But now I am coming to you. I speak this in the world so that they may share my joy completely.
14 I gave them your word, and the world hated them, because they do not belong to the world any more than I belong to the world.
15 I do not ask that you take them out of the world but that you keep them from the evil one.
16 They do not belong to the world any more than I belong to the world.
17 Consecrate them in the truth. Your word is truth.
18 As you sent me into the world, so I sent them into the world.
19 And I consecrate myself for them, so that they also may be consecrated in truth.


I. HÌNH TÔ MÀU



* Chủ đề của hình này là gì ?
………………………………………………….
* Bạn hãy viết câu Tin mừng thánh Gioan 17, 14
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….


II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1.  Đức Giêsu xin Cha gìn giữ các môn đệ khỏi ai ? (Ga 17,15)
a. Ác thần 
b. Vua Chúa
c. Giáo Hội
d. Tín hữu

a2. Thế gian đã có thái độ gì với các môn đệ ? (Ga 17,14)
a. Yêu thương
b. Ghét
c. Hy vọng
d. Che chở

a3. Đức Giêsu nói : Con đã canh giữ, và không 1 ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời gì ? (Ga 17,12)
a. Thiên Chúa nói với mọi người
b. Kinh Thánh
c. Các tông đồ
d. Thánh Phaolô

a4. Đức Giêsu nói những điều này khi còn ở thế gian, để các môn đệ được hưởng trọn vẹn điều gì của Người ? (Ga 17,13)
a. Bình an
b. Sung sướng
c. Niềm vui
d. Thoải mái

a5. Đức Giêsu cầu nguyện : Con không xin Cha cất họ khỏi đâu nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần ? (Ga 17,15)
a. Quyền lực
b. Vua chúa
c. Thế gian 
d. Ma quỷ


B. Giáo dân Giuse Phạm Trọng Tả (Cai)

287. Giáo dân Giuse Phạm Trọng Tả (Cai), Sinh năm 1796 tại Quần Cống, Nam Ðịnh, Cai Tổng, chịu tử đạo dưới triều vua nào ?
a. Vua Tự Đức (1847-1883)
b. Vua Thiệu Trị (1841-1847)
c. Vua Minh Mạng (1820-1841)
d. Vua Cảnh Thịnh (1782-1802)

288. Giáo dân Giuse Phạm Trọng Tả (Cai) chịu tử đạo thế nào ?
a. Bị xử giảo                                   
b. Bị xử trảm
c. Bị thiêu sống                              
d. Xử lăng trì

289. Giáo dân Giuse Phạm Trọng Tả (Cai) chịu tử đạo tại Nam Định vào năm nào ?
a. Năm 1838                                   
b. Năm 1840
c. Năm 1859                                   
d. Năm 1862

290. Giáo dân Giuse Phạm Trọng Tả (Cai) được Giáo hoàng nào tôn phong lên bậc chân phước (1951) ?
a. Đức Giáo hoàng Piô X
b. Đức Giáo hoàng Lêô XIII
c. Đức Giáo hoàng Piô XII
d. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII

291. Thánh Giuse Phạm Trọng Tả (Cai) được mừng kính vào ngày nào ?
a. Ngày 12 tháng 08             
b. Ngày 21 tháng 12
c. Ngày 17 tháng 09             
d. Ngày 13 tháng 01

III. Ô CHỮ



Những gợi ý

01. Đức Giêsu nói Con đã làm gì cho họ lời của Cha ? (Ga 17,14)  

02. Thế gian đã có thái độ gì với các môn đệ ? (Ga 17,14)  

03. Đức Giêsu đã canh giữ và khoog một ai trong họ phải hư hỏng, trừ đứa con thế nào ? (Ga 17,12)    

04.  Đức Giêsu xin Cha làm gì cho họ khỏi ác thần ? (Ga 17,15)  

05. Đức Giêsu xin Cha lấy sự thật mà làm gì cho họ ? (Ga 17,17)  

06. Đức Giêsu cầu nguyện : Con không xin Cha cất họ khỏi đâu nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần ? (Ga 17,15)  

07. Đức Giêsu nói Lời Cha là gì ? (Ga 17,17)  

08. Đức Giêsu nói những điều này khi còn ở thế gian, để các môn đệ được hưởng trọn vẹn điều gì của Người ? (Ga 17,13)  

Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì ?


IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG

“Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian.”
Tin mừng thánh Ga 17,14

Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Giuse Phạm Trọng Tả (Cai), Giáo dân

I. HÌNH TÔ MÀU

* Chủ đề
Thánh Giuse Phạm Trọng Tả

* Tin mừng thánh Gioan 17, 14

“ Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian.”

II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. a. Ác thần (Ga 17,15)
a2. b. Ghét (Ga 17,14)
a3. bKinh Thánh (Ga 17,12)
a4. c. Niềm vui (Ga 17,13)
a5. c. Thế gian (Ga 17,15)

B. Giáo dân Giuse Phạm Trọng Tả (Cai)

b1. a. Vua Tự Đức (1847-1883)
b2. a. Bị xử giảo
b3. c. Năm 1859
b4. c. Đức Giáo hoàng Piô XII
b5. d. Ngày 13 tháng 01

III. Ô CHỮ

01. Truyền lại (Ga 17,14)
02. Ghét (Ga 17,14)
03. Hư hỏng (Ga 17,12)
04. Gìn giữ (Ga 17,15)
05. Thánh hiến (Ga 17,17)
06. Thế gian (Ga 17,15)
07. Sự thật (Ga 17,17)
08. Niềm vui (Ga 17,13)

Hàng dọc : Yêu Giêsu

Gb. Nguyễn Thái Hùng


++++++++++++++++++++++

Giuse Phạm Trọng Tả (1792-1859)

Giuse Phạm Trọng Tả (Cai), Sinh năm 1796 tại Quần Cống, Nam Ðịnh, Giáo dân, Cai Tổng, bị xử giảo ngày 13/01/1859 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, Đức Piô XII đã suy tôn ba anh hùng tử đạo : Đaminh Phạm Trọng Khảm, Giuse Phạm Trọng Tả, Luca Phạm Trọng Thìn lên bậc chân phước ngày 29-04-1951. Ngày 19-06-2002, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các Ngài lên hàng hiển thánh., lễ kính vào ngày 13/01.

Giuse PHẠM TRỌNG TẢ (1800-1859) - Luca PHẠM TRỌNG THÌN (1820-1859) - Chánh Tổng

Cuộc đời của hai ông Cai Tả, Cai Thìn tuy cách biệt nhau 20 tuổi đời, nhưng đã hòa lẫn với nhau trong cùng bối cảnh lịch sử thời tử đạo, một vị là cựu, một vị là Chánh Tổng làng Quần Cống. Phải làm gì bây giờ chắc chắn hai ông đã phải bàn luận với nhau rất nhiều, để cùng với sự ủy thác của đức Cha Sampecro Xuyên, giám mục giáo phận Trung khi đó, hai ông chọn giải pháp hòa bình bằng phương thế đối thoại. Một mặt với uy tín riêng, các ông trấn an các tín hữu. Mặc khác quan hệ với quan tổng đốc để gợi lên quan tấm lòng nhân ái và quãng đại. Rất tiếc, đường lối đó không đạt như sở nguyện, nên hai ông đã trả giá cho sứ mạng hòa giải bằng chính mạng sống của mình.

Giuse Phạm Trọng Tả sinh khoảng năm 1800 tại làng Quần Cống, xã Trà Lũ, phủ Xuân trường tỉnh Nam Định. Cai Tả là anh em thúc bá với thánh Án Khảm, là con Đaminh Phạm Thăng. Khi bị bắt ông đã 60 tuổi, là một kitô hữu đạo đức, một hội viên dòng ba Đaminh và là cựu chánh tổng đã chu toàn chức vụ của mình. Phụ lực với cháu Cai Thìn, ông tìm cách giúp mọi người sống đạo trong hoàn cảnh khó khăn. Gia phả con cháu ghi rằng : "Đầy tớ ông rất đông, chưa tết ông đã đi thăm viếng từng nhà và cho tiền mừng rất hậu. Số tiền ấy thường gấp đôi số quà cáp họ biếu xén ông trong năm. Tiền thóc gia nhân vay mượn ông thường cho một nửa, nếu túng quá thì cho luôn. Công nợ của dân trong làng cũng châm chước như thế. Khi bà cai lên tiếng cằn nhằn, ông thản nhiên trả lời 'mình quên nợ người chúa quên tội mình'".

Luca Phạm Trọng Thìn là con trai cụ An Khảm, sinh khoảng năm 1820 tại làng Quần Cống, xã Trà Lũ, phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định. Như ta đã biết về cụ An Khảm, dưới mái nhà gia giáo và khá giả này, cậu Thìn đã lớn lên trong bầu khí đạo đức, được ăn học thành người. Nhờ trí khôn thông minh nhanh nhậu và chăm chỉ chuyên cần chẳng bao lâu anh đã "công thành danh toại". Khi bị bắt ông Cai Thìn khoảng 40 tuổi và đang là Chánh Tổng, vừa quyền thế vừa uy tín. Thực ra khi mới lên chức vụ này, vì giao tiếp với quan lại nhiều, có thời kỳ ông có vợ nhỏ là cô Trung người Trà Lũ, nên thờ ơ việc đạo nghĩa (vợ chính ông Cai Thìn là bà Maria Tâm). Nhưng sau nhờ lời khuyên của thân phụ, nhất là của cha giải tội, ông đã thành tâm sám hối. Từ đó ông trở thành một mẫu gương thánh thiện, một gia trưởng và một hội viên dòng ba Đaminh đạo đức, một thủ lảnh đáng tin cậy.

Năm 1858, tình hình bắt đạo đang gia tăng, và liên quân Pháp-Tây Ban Nha đang đe dọa dân Việt ở Đà Nẵng, vua Tự Đức thêm phẫn nộ ra lệnh cho quan quân triệt để thi hành các sắc chỉ nhắm vào đạo gia tô. Nhưng thực tế việc việc thi hành này lệ thuộc nhiều vào các quan địa phương có sốt sắng hay không. Lợi dụng điều đó, Đức Cha Sampedro Xuyên đã ủy thác cho Cai Tả và Cai Thìn trọng trách sứ giả hòa bình, vì cũng thuộc thành phần lãnh đạo, dễ dàng tiếp xúc với cấp trên.
Hiểu ý Đức Cha và nắm tình hình các tín hữu Quần Cống, hai ông đã đến gặp trực tiếp Tổng Đốc Nam Định, xin ông nương tay cho các tín hữu được bình an, và hứa kêu gọi dân chúng trung thành với đức vua. Cuộc thương thuyết sắp thành công, nhưng không ngờ lúc ấy tại Cao Xá, một người vì bất mãn chính sách của nhà vua, đã xúi dục một nhóm người nổi loạn chống lại các quan địa phương. Thế là vị Tổng Đốc liền đổi ý, ra lệnh tiếp tục truy lùng các thừa sai, các đạo trưởng và các giáo hữu có uy tín trong dân. Quan kết án Cai Tả, cai Thìn là lừa dối và tìm dịp để bắt hai ông. Chúng ta sẽ biết cơ hội để quan thực hiện ý đồ đó trong phần sau.

Ba lần ra trước tòa, cả ba lần hai ông đều cương quyết không bước qua Thập Giá, dù bị dọa nạt đánh đập. Khi quan yêu cầu hai ông viết những suy nghĩ của mình lên giấy, Cai Thìn đã viết bảng tuyên xưng Đức Tin rõ rệt và can đảm như : "Tôi là một Kitô hữu, tôi sẳn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ. Chính tay tôi viết điều này Luca Thìn".

Ông Cai Tả không cương quyết không xúc phạm Thánh Giá, ông còn khuyên bảo mọi người đừng phạm thứ tội mà ông gọi là "ghê tởm" đó .

Nếu Đức Giêsu Hoàng Tử Bình An đã dùng Thánh Giá khổ nhục để hòa giải nhân loại bạc bẻo với Chúa Cha thì cuối cùng, hai ông Cai Tả và Cai Thìn sẽ mãi mãi là sứ giả Hòa Bình bằng cái chết để chứng tỏ lòng mình luôn trung tín với Thiên Chúa và trung thành với Giáo Hội.

* *
*

Năm 1858 khởi đầu cho giai đoạn 5 cuộc bách hại đạo gay gắt nhất trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam. Nhà vua treo giải thưởng xứng đáng cho những ai tố cáo nơi trú ẩn của các vị thừa sai Âu Châu và ngược lại sẽ trừng trị đích đáng những kẻ chứa chấp họ. Thế là các Ngài phải nay đây mai đó, trốn từ làng này qua làng khác. Quần Cống là một nơi ẩn náu khá an toàn, vì các chức sắc trong làng là ngừơi Công Giáo, và chính họ sẵn sàng đón tiếp các Ngài. Đức cha Sampedro xuyên, đại diện tổng tòa giáo phận Trung dự đoán có thể bị bắt bất ngờ, đã thủ phong giám mục phó cho Đức cha Valentino Vinh ngày 14-06 tại ninh Cường, hai cha Riano Hòa và Carrerras Hiển là phụ phong. Sau đó cả bốn vị đều ẩn tại làng Quần Cống, trọ tại nhà cụ An Khảm, Cai Tả và Nhiêu Côn.

Quan An sát Nam Định được mật báo làng Quần Cống chứa chấp Tây dương đạo trưởng, liền huy động quân lính đến vây bắt. Nhưng cụ An Khảm kịp biết tin, vội vàng tìm cách đưa các vị thừa sai trốn khỏi làng. Đức cha Vinh và hai Linh mục qua làng Trà Lũ. Đức cha Xuyên đi qua Kiên Lao (ngày 08-07 mới bị bắt). Sau khi các thừa sai đã đi xa, cụ cho mỏ làng đi trước, đích thân cầm roi đi sau, bắt mõ làng rao lớn tiếng : "Trình quan viên làng nước, có lệnh cụ Án truyền rằng : người nào quá khóa phải phạt ba roi và bị đuổi ra khỏi làng." Rồi cụ tụ tập dân lại khích lệ họ.

Sau đó, quan quân ùa vào làng, họ bắt toàn thể dân làng tập trung lại, và rồi gọi cụ An Khảm ra trình diện và nói : "Mau nộp ngay lập tức các đạo trưởng Tây dương và bản quốc, cũng như bọn thầy giảng lẩn trốn trong làng. Nếu bất tuân lão sẻ bị bắt, bị tịch thu tài sản, nhà cửa sẽ bị thiêu hủy, còn chíng lão sẽ bị kết tội chống cưỡng nhà vua." Cụ An Khảm hết sức bình tĩnh vì biết chắc các thừa sai đã trốn xa rồi, cụ mạnh bạo trả lời : "Đúng, đạo chúng tôi có các đạo trưởng nhưng các ngài ở đâu làm sao chúng tôi biết được. Xin quan cứ tự do lục soát nếu tìm thấy vị nào trong làng thì quan muốn làm gì cũng được."

Thế là quân lính chia nhau lục soát khắp ncả nhà, dĩ nhiên là không tìm thấy một linh mục. Nhưng lính lại phát hiện được một số tượng ảnh, áo lễ nên chủ nhà bị kết tội là chứa chấp đạo trưởng. Cụ An đã đứng ra nhận là mình đã mua những thứ đó. Tuy vậy quan vẫn ra lệnh bắt trói cả nhà.

Trở lại nơi tập trung dân làng, quan An sát cho đặt một Thánh Giá ngay giữa sân, rồi bắt mọi ngừơi lần lượt bước qua. Nhưng quan đã thất bại dù lính có đi tới đi lui đe dọa, toàn thể dân làng không một ai bước qua Thánh Giá. Một bô lão có lẽ vì quá sợ, run rẩy tiến lên vài bước, định thi hành lệnh quan, nhưng cụ An nhanh chân hơn cản lại và khiển trách. Viên quan tức giận quát lên rằng : "Ta sẽ mất chức nếu không kết tội đươc An Khảm và bọn người vô phúc này." Thế rồi quan lại bắt trói An Khảm, Cai Tả và Cai Thìn và một số người khác, rồi giải về Nam Định, riêng cụ An được chở đi trong thuyền của quan.

Chúng tôi được nước Thiên Đàng

Về tới Nam Định, hai cha con cụ An Khảm được gặp nhau trong những lần ra tòa, và sau này được giam chung. Hai cha con vui mừng và xúc động khuyến khích nhau chịu khổ vì lòng kính mến chúa Kitô.

Tất cả những tù nhân Quần Cống hẹn với nhau quyết tâm trung thành với đức tin, dù phải hy sinh mạng sống. Riêng cụ An Khảm đã nhiều lần đại diện cả nhóm trả lời với quan, đã tìm cách giáo lý trong đạo.

Một hôm sau khi bắt được Đức Cha Xuyên, quan cho dẫn ba ông đến trước mặt Đức Cha. Các ông kính cẩn chào hỏi và không dấu được niềm vui gặp lại vị chủ chăn của mình. Thấy thế quan phỏng đoán và kết tội các ông chứa chấp vị thừa sai này. Tuy thực sự Đức Cha đã ở nhà mình, cụ An Khảm tìm cách trả lời chung chung : "Là ngừơi tín hữu, chúng tôi tôn kính và yêu mến bất cứ một linh mục nào, dù chưa hề quen biết."

Sau bốn tháng rưỡi bị giam, một hôm quan báo cho biết là cả ba vị đều bị kết án xử giảo. Ông Cai Thìn hỏi lại án đã kết tội gì, quan cho hay là tội chống lại nhà vua. Ong Thìn cực lực phản đối. Cuối cùng theo đề nghị của ông, bản án được viết thêm bốn chữ "bất khẳng quá khóa"; nghĩa là tội không chịu bước qua Thập Giá. Các ông vui mừng hân hoan vì được chết cho Đức Kitô. Và trong những ngày còn lại, các ông chuẩn bị sốt sắng đón chờ ngày lãnh nhận hồng phúc tử đạo.

Ba vị chứng nhân đức tin đã cảm nghiệm sâu xa lời Đức Kitô chúc phúc cho những người bách hại vì danh Ngài. Đối với ba vị, bị bắt chịu khổ nhục, bị giết vì danh Đức Kitô là niềm vinh phúc lớn lao. Các vị đã hân hoan đón chờ nó, đồng thời khích lệ an ủi các tín hữu khác. Và khi nghe báo giờ xử tử đã tới, cụ An Khảm vui vẻ nói với mọi người : "Cha con chúng tôi hôm nay được nước Thiên Đàng". Cả ba vị đã sẵn sàng giả từ trần gian để về hợp đoàn với hàng ngũ các thánh Tử Đạo, và mở rộng đôi tay đón nhận phần thưởng vinh phúc Chúa đã hứa ban cho những tôi trung của Ngài.

Ngày 13-01-1859, ngoài ba vị An Khảm, Cai Tả và Cai Thìn còn có bảy giáo hữu làng Quần Cống khác được đưa ra pháp trườngBảy Mẫu, Nam Định. Trên đường đi các vị lớn tiếng đọc kinh. Đến nơi xử các vị tiếp tục đọc kinh Tin, Cậy, Mến và nhiều lần kinh Ăn Năn Tội chung với nhau, rồi lớn tiếng kêu Chúa Giêsu.

Quân lính mạnh tay xô các vị té ngửa trên đất, rồi trói chân tay từng người vào cọc đã chôn sẵn. Mỗi người bị hai người lính cầm hai đầu dây thừng tròng qua cổ và kéo thật mạnh cho đến khi tắt thở. Các tín hữu làng Quần Cống rước các vị đưa về quê mình, và tổ chức an táng trọng thể.

Đức Piô XII đã suy tôn ba anh hùng tử đạo : Đaminh Phạm Trọng Khảm, Giuse Phạm Trọng Tả, Luca Phạm Trọng Thìn lên bậc chân phước ngày 29-04-1951. Ngày 19-06-2002, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các Ngài lên hàng hiển thánh.

Nguồn từ tu viện Đa Minh

Trường Thi Tử Đạo
Cựu Chánh Tổng ông Phạm Trọng Tả
Chọn quan thầy Thánh cả Giuse
Gia đình sung túc đề huề
Canh Thân (1800) năm đẻ thuộc về Phú Nhai (Nam Ðịnh)

Làm Chánh Tổng công khai sống đạo
Việc ngoài đời thông thạo an dân
Tiếng thơm nổi khắp xa gần
Hể ông mà nói là dân nghe liền

Trong công việc bạc tiền không tưởng
Bởi thế nên ảnh hưởng càng cao
Từ ngày cấm đạo phong trào
Trăm nghìn việc khó đổ vào cho ông

Làm thế nào để không bắt bớ
Làm thế nào để đỡ giáo dân
Cha con bàn bạc xa gần(1)
Dĩ hoà vi quý phải cần làm ngay

Phạm Trọng Tả mấy ngày tiếp xúc
Tình hình ta mỗi lúc một êm
Ai ngờ cháy đổ dầu thêm
Công xá một nhóm nửa đêm công đồn(2)

Gặp Trọng Tả quan dồn tra hỏi
Việc xảy ra đây hỏi tại ai
Mưu sâu ông sắp sẵn gài
Bắt luôn tra tấn một hai chạy trời

Ông bị bắt dân thời thương tiếc
Rất hoan nghênh những việc ông làm
Thế trần của cải chẳng ham
Xoá nợ, giảm lãi việc làm của ông

Bà thấy thế như không đồng ý
Ông nói làm theo chỉ đạo Cha
Hôm qua mình tội Cha tha
Hôm nay người nợ bỏ qua được rồi

Còn những việc tày trời hơn nữa
Quan tập trung dân giữa sân trường
Trưa hè trời nắng thảm thương
Ðặt cây Thập giá giữa đường bước qua

Trong lúc đó trẻ già trai gái
Còn phân vân ngần ngại biết sao?
Ngoài xa ông nhảybổ vào
Ai mà quá khoá thì tao đánh đòn

Quan thấy thế chẳng còn ngần ngại
Bắt trói ông giam tại huyện đường
Ðánh đập tra tấn thảm thương
Làm đơn đề nghị tỉnh đường xử ngay

Kỷ Mùi (1859) tháng một Mùa chay
Phúc tử vì đạo đúng ngày mười ba
Tân Mão (1951) Toà Thánh ban ra
Tấn phong Chân phước hoan ca Nước Trời


---------------
1/ Cha con bàn việc với Ðức Cha Xuyên.
2/ Ở Công Xá có một nhóm quá khích nổi dậy.

Lời bất hủ: Vị thánh đã tuyên xưng đức tin của mình trước quan, qua bản viết như sau: "Tôi là một Kitô hữu, tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ".

http://tinmung.net/CACTHANH/118ThanhTDVN/INDEX.htm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét