Trang

Thứ Năm, 27 tháng 12, 2018


Lời Chúa: 1Sm 1, 20-22. 24-28; 1 Ga 3,1-2.21-24; Lc 2, 41-52 

MỤC LỤC

1. Gia đình nhân loại
2. Con có bổn phận
3. Con đường hạnh phúc – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4. Lễ Thánh Gia Thất
5. Thưa vâng với Thiên Chúa mỗi ngày
6. Tìm thấy – Flor McCarthy
7. Lễ Thánh Gia Thất
8. Gia đình mẫu mực cho mọi gia đình
9. Những thánh gia Nagiarét thời đại mới
10. Thánh gia, gương sáng của tin yêu
11. Có một lý do
12. Gia đình thánh thiện
13. Gia đình
14. Tài sản
15. Thánh Gia
16. Suy niệm
17. Noi gương
18. Mẫu gương gia đình hạnh phúc
19. Mái ấm tình thương
20. Bí quyết hạnh phúc gia đình
21. Kiểu mẫu của mọi gia đình
22. Lễ Thánh Gia
23. Đức Giêsu tại đền thờ
24. Suy niệm chú giải Lời Chúa LỄ THÁNH GIA - Lm. Inhaxio Hồ Thông
25. Học hỏi Phúc âm: CN Lễ Thánh Gia Thất - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu S.J.  

 

1. Gia đình nhân loại.

Giáo Hội đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng gia đình Kitô hữu thành một cái nôi của tình thương, thành một mái trường dạy cho chúng ta những bài học làm người. Trong chiều hướng đó, Thánh Gia với Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse vốn được coi là những mẫu gương sáng chói của gia đình công giáo.

Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không muốn đóng khung nhãn giới của chúng ta trong khuôn khổ một gia đình theo huyết thống. Bài học lớn nhất Ngài để lại cho chúng ta đó là bài học làm người trong xã hội. Ngài không vun xới cho gia đình riêng của mình, nhưng Ngài lại xây dựng đại gia đình nhân loại được cứu chuộc.

Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu ngay từ lúc lọt lòng mẹ đã phải trải qua một cuộc bôn ba, đã là một con người bị ruồng bắt bởi quyền lực thế gian. Con đường trốn qua Ai Cập cũng chính là con đường dân riêng của Chúa đã đi qua thuở xưa, con đường dẫn tới cuộc sống nô lệ trong suốt 400 năm. Nhưng rồi Ngài cũng được đưa về lại Galilê tượng trưng cho cuộc xuất hành của dân riêng khỏi đất nô lệ Ai Cập. Như thế Phúc Âm đã tóm gọn cuộc đời Chúa Giêsu và đặt cuộc đời ấy trong lịch sự của dân Chúa.

Qua Ai Cập và từ Ai Cập trở về, Chúa Giêsu đã không chỉ đi với cha mẹ Ngài mà còn đi với dân của Ngài. Qua cái chết và sống lại của Ngài, một dân mới được thiết lập và các môn đệ của Ngài được sai đi đến tận cùng trái đất để mọi người, không phân biệt màu da, tiếng nói, ý thức được mình là con Thiên Chúa và là anh em với nhau.

Việc xây dựng đại gia đình nhân loại nhiều khi vượt lên trên quyền lợi của gia đình ruột thịt hay dòng họ. Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó một cách thật rõ ràng. Ngài đã từng cho người ta hiểu rằng Ngài đến không phải để đem hoà bình mà là gươm giáo, đến để chia rẽ con cái khỏi cha mẹ, nàng dâu khỏi mẹ chồng và làm coh những người trong gia đình trở thành kẻ thù của nhau. Những lời lẽ quả là lạ lùng, khó nghe. Dĩ nhiên chúng ta không thể coi Ngài như một kẻ chủ trương phá hoại gia đình hay coi nhẹ giá trị gia đình. Nhưng Ngài muốn cho người ta hiểu rằng: Còn một gia đình khác lớn hơn phải được xây dựng. Cái mối quan hệ lớn lao, cao quý mà người ta cần phải quan tâm thiết lập và vun xới, không phải là mối quan hệ cha con, anh em theo máu huyết. Mà là mối quan hệ cha con, anh em theo việc thực thi ý định của Chúa: Ai là mẹ Ta và ai là anh em Ta. Đó là người nghe và thực hành lời Chúa.

Nếu mọi thành phần trong gia đình cùng nhìn về một phía, cùng theo đuổi một lý tưởng phục vụ hạnh phúc của con người trong xã hội. Đó chính là gia đình gương mẫu, thánh thiện theo cái nhìn của Tin Mừng. Để đạt tới lý tưởng ấy, mỗi người trong gia đình cần phải tìm hiểu và đào sâu những đòi hỏi của Tin Mừng, thấy rõ trách nhiệm làm người và làm môn đệ của Chúa trong xã hội và trong thế giới hiện tại, đồng thời cố gắng giúp nhau chu toàn trách nhiệm ấy.
 
2. Con có bổn phận.
(Trích trong 'Manna')

Suy Niệm

Mầu nhiệm Nhập Thể bắt đầu từ tiếng Xin Vâng ở Nadarét.
Nadarét là nơi Ngôi Lời làm người sống phần lớn thời gian. Mái ấm Nadarét thật khác thường, và rất đỗi bình thường. Đây là một gia đình có bầu khí yêu thương, đạo hạnh.

Nadarét là trường học đầu tiên huấn luyện Chúa Giêsu, chuẩn bị Ngài gánh vác sứ mạng Cha giao sau này. Nadarét là trường dạy cầu nguyện, dạy giáo lý, dạy lao động, dạy yêu thương đến hiến mình cho người khác.

Chúa Giêsu đã vâng phục kỷ luật của trường này. Ngài đã chấp nhận những vị thầy đầu tiên là cha mẹ, và Ngài đã lớn lên, chững chạc, trưởng thành, quân bình cả về thân xác, trí tuệ lẫn tâm linh.

Con Thiên Chúa đã tập làm người ở Nadarét, và nền giáo dục ở Nadarét đã thành công khi trao cho ta một Giêsu khôn ngoan, đạo đức và nhân hậu, ở tuổi ngoài 30.

Nền giáo dục gia đình được coi là tốt khi giúp con cái mở ra trước những đòi hỏi của Thiên Chúa và tha nhân.

"Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà CHA con sao?" - Từ năm 12 tuổi, cậu Giêsu đã ý thức mình là Con của Thiên Chúa, Đấng mà cậu trìu mến gọi là Cha. Cậu đã sống mối tương quan thân tình độc đáo này và cậu cảm thấy điều đó kéo theo những bổn phận: ở lại trong nhà Cha hay lo việc của Cha.

Càng lúc Chúa Giêsu càng ý thức về mình, trong tương quan với Cha và trong sự thúc bách của sứ mạng.

Con Thiên Chúa cần mẹ cha, cần một mái ấm để lớn lên, nhưng cả mối dây thân thương tự nhiên ấy cũng có lúc phải chịu hy sinh, nếu nó cản trở sứ mạng Cha trao phó.

Ta không rõ tại sao cậu Giêsu rất mực khôn ngoan đã ở lại Đền Thờ mà không báo cho cha mẹ. Nhưng chắc chắn sau này cậu sẽ phải chia tay với Mẹ Maria.

Chúa Giêsu không chỉ là người con hiếu thảo với mẹ cha, nhưng trên hết và trước hết, Ngài là Con vâng phục CHA. CHA trên trời là ưu tiên vượt trên mọi ưu tiên khác.

Đức Maria không hiểu câu trả lời của Con mình. Dù Mẹ đã nghe bao mạc khải về Con từ Gabrien, Simêon, nhưng những biến cố đời thường vẫn làm Mẹ ngỡ ngàng.

Con vẫn là một mầu nhiệm vừa gần, vừa xa đối với Mẹ. Mẹ không hiểu nổi, không hiểu hết hay không hiểu ngay, nên Mẹ vẫn cung kính đứng trước mầu nhiệm bằng thái độ vâng phục của lòng tin và nghiền ngẫm mãi.

Mẹ chẳng giữ Con lại trong vòng tay của mình. Mẹ để Con lên đường, Mẹ dâng Con trên Núi Sọ.

Chỉ biến cố Phục Sinh mới làm Mẹ thật hiểu Con.
Cha mẹ vừa đùm bọc ấp ủ, vữa tiễn con mình vào đời.
Gia đình cung ứng những công dân tốt và tín hữu nhiệt thành.

Mỗi đứa con là một mầu nhiệm cần tôn trọng. Giáo dục là giúp con sống cuộc đời rất riêng của nó.
Ước gì mọi bà mẹ đều như Maria, sinh các con như Giêsu.

Gợi Ý Chia Sẻ

Cuộc sống gia đình hôm nay gặp nhiều khó khăn (chung thủy, giáo dục con cái, thiếu thốn vật chất...) Theo bạn, đâu là khó khăn lớn nhất? Làm sao khắc phục?

Theo bạn, thế nào là một gia đình lý tưởng? Để xây dựng một gia đình như thế cần có những điều kiện gì?

Cầu Nguyện

Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng.

Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.

Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.

Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới, những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán, những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường, những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.

Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất, từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.

Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình; nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con. Amen.

3. Con đường hạnh phúc – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

Những tranh ảnh về Thánh Gia thường diễn tả một gia đình ấm êm hạnh phúc. Thánh Giuse làm thợ mộc trong nhà. Đức Mẹ ngồi may vá. Đức Giêsu phụ giúp Thánh Giuse. Phải chăng Thánh Gia luôn sống trong êm đềm thư thái, không hề biết đến khổ đau? Phải chăng cuộc sống gia đình thánh cứ phẳng lặng trôi như mặt nước mùa thu không gợn sóng gió? Không phải, trái lại Thánh Gia đã biết đến rất nhiều sóng gió, thử thách.

Còn thử thách nào lớn hơn cảnh nghèo. Vì nghèo mà biết bao gia đình sinh ra bất hoà, ấy thế mà Thánh Gia đã phải trải qua những kinh nghiệm đớn đau của kiếp nghèo. Bị xua đuổi, bị hất hủi đến nỗi phải trú ngụ trong chuồng bò lừa. Thê thảm hơn nữa, phải sinh con giữa bầy súc vật, không giường chiếu chăn màn.

Còn gì buồn hơn là bị thù ghét, bị săn đuổi? Thánh Gia sống hiền lành khiêm nhường, thế mà phải chịu đựng sự thù ghét của Hêrôđê. Vừa sinh ra, còn non nớt đã phải bồng bế nhau chạy trốn, xa quê hương đất nước.

Còn cảnh nào bi đát bằng cảnh vợ chồng hiểu lầm nhau? Thế mà Thánh Giuse đã hiểu lầm Đức Mẹ khi Đức Mẹ thụ thai bởi quyền phép Đức Chúa Thánh Thần. Ai đã trải qua cảnh nghi ngờ bị phản bội sẽ hiểu Thánh Giuse đã bị giày vò đau đớn đến mức nào.

Còn gì khiến cha mẹ buồn hơn khi thấy con cái không ngoan ngoãn vâng lời, bỏ nhà ra đi? Vậy mà Thánh Giuse và Đức Mẹ đã phải chứng kiến cảnh đứa con ngoan ngoãn của mình tự động ở lại Đền Thờ mà không xin phép cha mẹ. Các ngài vất vả lo âu tìm kiếm thì ít, nhưng buồn phiền đau khổ thì nhiều. Làm sao các ngài tránh khỏi buồn phiền khi nghĩ rằng người con mà các ngài rất mực yêu quý đã cãi lời cha mẹ?

Những sóng gió mà Thánh Gia đã phải đương đầu như thế có lẽ nhiều và nặng nề hơn những gia đình bình thường. Thế nhưng các ngài vẫn giữ được hạnh phúc gia đình. Nhờ bí quyết nào các ngài đã vượt qua được biết bao cơn sóng gió như thế?

Trước hết các ngài luôn tìm thánh ý Chúa. Mỗi khi gặp gian nan thử thách, các ngài không tìm ý riêng mình, cũng không tìm ý thích của người đời, nhưng luôn đi tìm ý Thiên Chúa. Tìm ý Chúa mạc khải trong Kinh Thánh, qua các biến cố xảy đến. Tâm sự với Chúa trong giờ cầu nguyện. Hỏi ý kiến Chúa nơi các vị đại diện.

Khi biết được thánh ý Chúa, các ngài lập tức mau mắn vâng lời. Đức Mẹ muốn giữ mình đồng trinh, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ liền thưa: "Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng lời thiên sứ truyền". Thánh Giuse đang muốn bỏ đi, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người ở lại, Người đã vâng lời ngay không ngần ngại.

Sau cùng, các ngài luôn quên mình vì hạnh phúc của mọi người trong gia đình. Thánh Giuse tuy là gia trưởng, nhưng đã hết tình phục vụ Đức Mẹ và Đức Giêsu. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại xưng mình là tôi tớ của Thiên Chúa. Còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng lại trở thành người con bé nhỏ nhất trong gia đình.

Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết áp dụng những bí quyết của Thánh Gia. Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc Phúc Âm để tìm ý Chúa thì lại đi tìm ý kiến ở những nơi mê tín dị đoan. Thay vì vâng lời Chúa qua các vị bề trên thì lại chỉ tìm ý riêng mình. Thay vì khiêm nhường quên mình thì lại kiêu ngạo tự ái, bắt người khác phải phục vụ mình.

Hôm nay, gia đình chúng ta hãy biết noi gương Thánh Gia: Bỏ ý riêng để tìm thánh ý Thiên Chúa; mau mắn vâng lời Chúa; và hạ mình khiêm nhường, quên mình để phục vụ người khác. Có như thế chúng ta mới hy vọng giữ được hạnh phúc gia đình, nhất là khi phải đối phó với những khó khăn ngày càng nhiều trong đời sống hiện nay.

Lạy Thánh Gia, xin nâng đỡ gia đình chúng con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Mỗi khi gia đình có việc rắc rối, tôi thường làm gì trước: cầu nguyện, đọc Phúc Âm, hay là đi xem bói?

2. Mỗi khi có bất đồng ý kiến, tôi thường khiêm nhường xét mình, hay là tự ái bắt người khác phải nhận lỗi?

3. Qua tấm gương của Thánh Gia, tôi có quyết tâm gì để xây dựng hạnh phúc gia đình trong năm mới?

4. Lễ Thánh Gia Thất.
(Trích trong 'Tin Mừng Chúa Nhật')

Sau biến cố năm mười hai tuổi, Chúa Giêsu cùng cha mẹ lên Giêrusalem dự lễ Vượt Qua và Ngài tự ý ở lại ba ngày. Đức Giêsu đã trở về Nadaret, thực hiện đúng lời Em-ma-nu-en-Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta đã được tiên tri loan báo. Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy Thiên Chúa đang dự phần vào những công việc thân thiết quen thuộc nhất trong gia đình, đây là Thiên Chúa đang tự mặc lấy hình người, đang sống cuộc đời chúng ta. Sự thật là như vậy, và chúng ta có thể nói nhiều điều quý báu về Thiên Chúa.

1. Thiên Chúa đã bước vào một căn nhà tầm thường và gia đình tầm thường.

Ai cũng nghĩ rằng nếu Thiên Chúa đến thế gian, chắc Ngài phải đến với tư cách một nhà vua, đến sống trong cung điện nguy nga của bậc đế vương đầy thế lực, quyền quý, sang trọng. Nhưng ở Nadaret Chúa Giêsu đã sống như mọi người khác, nhà Ngài ở và cách Ngài ăn mặc cũng giống như người đương thời (Lc 8,44), Ngài ăn uống như người đồng hương (mt 9,19). Ngài dùng tiếng nói nơi Ngài ở, trong Phúc Âm, không ai tìm được một danh từ chuyên môn nào, Ngài trình bày những mầu nhiệm tôn giáo cao siêu bằng những từ ngữ thông thường của nơi Ngài sống, Ngài dùng cách diễn tả tư tưởng cùa người đồng thời và lối văn họ quen dùng. Ngài biết những bận tâm, những nhu cầu của họ và không ngạc nhiên khi nghe họ nói: "Chúng ta sẽ ăn gì? Chúng ta sẽ mặc gì?" Ngài dùng những thành ngữ của họ, dầu có nhiều khuyết điểm và thiếu văn hoa. Tỷ như để định vị trí cho một người không những không nghe theo những lời khuyên nhủ kín đáo nhưng cả những cảnh cáo của Giáo Hội, Ngài dùng diễn ngữ này: "Ngươi hãy coi nó như một dân ngoại hay một người thu thuế" (Mt 18,17). Trong mọi sự Chúa Giêsu không có gì tỏ ra xa lạ với những người đến để được cứu rỗi. Ngài thật sự ở giữa chúng ta, chung sống với chúng ta, nên giống chúng ta hoàn toàn ngoại trừ tội lỗi. Như vậy, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thánh hoá một lần đủ cả việc con người được sinh ra, thánh hoá mái gia đình khiêm nhượng của giới bình dân và thánh hoá toàn thể tuổi ấu thơ.

2. Thiên Chúa đã bằng lòng làm công việc của loài người mà không xấu hổ.

Suốt ba mươi năm trường, Ngài đã không làm một điều gì ngoại thường, Ngài âm thầm sống như một người dân thường, học nghề nơi cha nuôi và tự tay làm việc nuôi sống bản thân và gia đình. Ngài hoàn toàn giống mọi người dân làng đến nỗi họ ngạc nhiên khi Ngài bắt đầu giảng dạy: "Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria, anh em của ông không phải là các ông Giacôbê, Gioxep, Simon và Giuđa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?" (Mt 13,54-56). Thiên Chúa trong Chúa Giêsu đã đến thế gian như một công nhân. Chẳng bao giờ chúng ta nhận thức đầy đủ sự kiện Thiên Chúa thấu hiểu công việc hằng ngày của chúng ta tới mức độ nào. Ngài biết nỗi khó nhọc để kiếm đủ sống của chúng ta; Ngài biết nỗi khó khăn khi gặp khách hàng khó tính hay khách hàng không chịu trả tiền. Ngài biết tất cả những khó khăn trong cuộc sống chung trong một gia đình, và Ngài biết từng vấn đề chúng ta thường gặp hằng ngày. Theo Cựu Ước, lời rủa sả sau khi loài người phạm tội trong vườn Địa đàng: "Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có đủ mà ăn" (St 3,19), nhưng theo Tân Ước, sự làm việc thông thường được khoác lên một ánh hào quang khi có bàn tay Thiên Chúa chạm vào.

3. Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy một Thiên Chúa yêu thương.

Lúc tình yêu thương bước vào đời sống thì đau đớn cũng vào theo, nếu chúng ta có thể sống hoàn toàn tách biệt mọi người, có thể thu xếp cuộc đời thế nào cho mình dửng dưng được với hết mọi sự, mọi người, thì cũng sẽ không còn đau đớn, buồn khổ, lo lắng. Nhưng trong Chúa Giêsu chúng ta thấy Thiên Chúa đang hết sức chăm sóc cho loài người và tha thiết với loài người. Ngài cảm thấy đau đớn cho loài người và với loài người. Thật ra, chính tình yêu là khởi điểm của sự hiện diện của Chúa Cứu Thế nơi chúng ta. Chính vì Ngài yêu chúng ta nên Chúa Cha ban Ngài cho chúng ta. Thật vậy, như lời Thánh Gioan: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Và cùng chính vì tình yêu mà Chúa Giêsu đã xả diệt thân mình "trở nên hoàn toàn giống anh em Ngài" vì Ngài "không lấy làm xấu hổ gọi chúng ta là anh em Ngài" (Dt 2,17.11). Tình yêu đòi phải nên giồng. Vì Ngài quá yêu anh em của Ngài sống trong thế gian nên có thể nói dĩ nhiên Ngài đẩy mạnh đến cùng mức độ nên giống họ (Ga 13,13). Cécil Northcott trong quyển "Chúa hiển hiện đời nay" thuật lại một cuộc thảo luận trong trại hè dành cho thanh thiếu niên đại diện nhiều quốc gia trên thế giới: "Một đêm mưa khi các trại sinh thảo luận về nhiều phương cách khác nhau làm sao nói cho người khác biết về Chúa Giêsu. Họ hỏi một nữ trại sinh Phi châu: "Maria, ở nước cô thì cô làm thế nào?" Maria trả lời: "Chúng tôi không có hội truyền giáo, cũng không phát truyền đơn về đạo. Chúng tôi chỉ sai một hoặc hai gia đình tín hữu đến sống, làm việc trong làng. Khi dân làng thấy cuộc sống Kitô như thế nào, họ đều muốn trở thành Kitô hữu".

4. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa sống trong trắng và thánh thiện giữa loài người.

Nếu sau này Ngài có thể quả quyết: "Ai thấy Ta là thấy Cha" thì trong thời gian sống tại Nadaret, Ngài cũng vẫn luôn mang đặc tính ấy mặc dầu nhiều người không nhận ra. Ngài quả thật có nên giống chúng ta trong mọi sự, nhưng không trong tội lỗi. Không những suốt đời Ngài không hề có một khuyết điểm nào, nhưng qua cuộc sống, Ngài đã biểu lộ thiên tính. Không bao giờ Ngài thông đồn, dù bằng lời nói hay bằng việc làm, bằng cử chỉ với những tội lỗi nơi người đồng hương, vì Ngài thấy ở đó khởi đầu để đồng bào Ngài ghét Ngài.

5. Thưa vâng với Thiên Chúa mỗi ngày.
(Trích trong 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật' – Achille Degeest)

Trên bình diện thuần tuý nhân loại, đây là một lối giới thiệu kỳ lạ. Đấng là khuôn mẫu đời sống của mọi Kitô hữu trọn lành, được mô tả trong hoạt cảnh bỏ nhà ra đi! Nói đúng ra, thánh sử mời gọi chúng ta hãy vượt qua cái bề ngoài, chỉ nên chú ý tới nội dung câu chuyện. Trước hết chẳng có gì là bi thảm, chúng ta để sang một bên nỗi lo âu nhất thời của hai ông bà. Sau đó, chúng ta học được ba thái độ đạo đức căn bản:

1) Thiên Chúa không cho chúng ta biết trước tình tiết cuộc đời chúng ta sẽ như thế nào. Đức Maria và thánh Giuse biết rõ con trẻ Giêsu là AI. Tuy nhiên, hai ông bà không hiểu biết theo lối chúng ta hiểu biết ngày nay nhờ thần học và giáo lý. Mỗi ngày một chút, hai ông bà phát hiện thêm sự thật của mầu nhiệm bao phủ cuộc đời mình và tầm mức bao la của số mệnh Chúa. Đối với Đức Maria và thánh Giuse, mỗi giai đoạn tăng trưởng của Chúa, là một khám phá, luôn luôn đòi hỏi hai ông bà phải vâng phục thánh ý Thiên Chúa, mỗi ngày phải đáp ứng bằng một tiếng vâng. Ngày này qua ngày khác, hai ông bà lúc nào cũng phải hành động, quyết định, suy xét và nhiều phen chẳng hiểu tại sao, luôn luôn phải thích ứng với những đoạn đường Chúa thúc đẩy phải tiến tới. Chúng ta chẳng khác gì Đức Maria và thánh Giuse. Sau khi thưa vâng với Thiên Chúa để chấp nhận số mệnh mình, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi hãy suy xét và hành động ngày này qua ngày khác, để mỗi ngày lại thưa vâng với Người. Trước hết Thiên Chúa đòi chúng ta gia nhập toàn diện vào số mệnh Người đề nghị. Sau đó, Thiên Chúa đòi chúng ta một sự gia nhập có tính cách chi tiết hơn và đặt giá cho sự gia nhập từng ngày trên đuờng định mệnh mình.

2) Công việc của Thiên Chúa phải đặt trước mọi sự, chúng ta phải hiểu như vậy khi đọc lên câu trả lời của Chúa Giêsu: "Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?". Câu đáp đối với chúng ta có đôi chút sỗ sàng. Chúng ta cần giữ lại điều này: Thiên Chúa đáng chúng ta dành cho Người một sự ưu tiên tuyệt đối trong cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa là trên hết và trước hết trong đời ta, điều đó có nghĩa là không được suy tôn bản ngã của chúng ta lên bằng Thiên Chúa. Bởi lẽ chúng ta có được hạnh phúc là nhờ ơn Thiên Chúa chứ không nhờ khả năng của 'cái ta'.

3) Chúng ta phải tìm Chúa Giêsu ở nơi chốn Người đang ngự. Sự giải thích cổ xưa nhất về lời đáp của Chúa Giêsu làm nổi rõ sự việc Người ở trong đền thờ, trong nhà Cha Người, là điều tất nhiên, và muốn tìm Người thì phải đến đền thờ mà gặp Người. Khi nào chúng ta có ấn tượng đã mất Chúa, tất nhiên chúng ta hãy đến thánh đường cầu nguyện dưới chân nhà tạm, nếu có thể được.

6. Tìm thấy – Flor McCarthy.
SUY NIỆM 1

Chúa Giêsu lên 12 tuổi – đây là thời gian mà Người phải thực hiện những quy định của lề luật. Như vậy, Đức Maria và thánh Giuse đưa Người lên Giêrusalem, để cử hành lễ Vượt Qua. Các bậc cha mẹ có nhiệm vụ từng bước một đưa con trẻ hội nhập vào cộng đồng rộng lớn hơn, và dạy dỗ cho con trẻ những truyền thống của cộng đồng. Những đứa trẻ cũng cần phải được chỉ dạy con đường đi tới giếng nước thiêng liêng ; nếu không, chúng sẽ luôn luôn bị khát nước. Nhưng khi Đức Maria và thánh Giuse thực hiện cuộc hành trình trở về, thì Chúa Giêsu vẫn còn ở lại, và mãi cho đến hết ngày đầu tiên, các ngài mới phát hiện ra rằng Người bị thất lạc. Đó không phải là một chuyện đùa – một đứa trẻ còn nhỏ, đã bị thất lạc trong một thành phố rộng lớn. Tuy nhiên, không ai đáng trách cả. Đây chỉ là do hiểu lầm mà thôi. Sự hiểu lầm vẫn có thể xảy ra, ngay cả trong những gia đình tốt lành nhất.

Các ngài bắt đầu lo lắng tìm kiếm Người. Khi không tìm được Người trong số những khách hàng quen biết, các ngài liền quay trở lại thành phố để tiếp tục tìm kiếm Người. Các ngài không thể hiểu nổi tại sao Người lại gây ra cho mình nỗi lo lắng đến thế. Nhưng khi một đứa con gây ra cho bạn nỗi lo lắng, thì nó vẫn là con của bạn, và bạn vẫn là cha mẹ của nó. Thật dễ dàng yêu thương con cái khi chúng còn nhỏ dại, khi tất cả những điều mà chúng cần đến là sự quan tâm chăm sóc và những nụ cười. Nhưng không dễ dàng yêu thương con cái, khi chúng bắt đầu khẳng định ý riêng của chúng.

Khi một đứa trẻ hay quanh quẩn bên cha mẹ nó, thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều có có nghĩa là đứa trẻ này được an toàn. Có khi một đứa trẻ tin tưởng chắc chắn vào tình yêu thương của cha mẹ, nó có thể quên mất cha mẹ, và đi ra ngoài để khám phá thế giới. Đây là trường hợp của Chúa Giêsu. Người không thực sự bị thất lạc, mà đang có một cuộc mạo hiểm. Người đang nhận biết mình ở đâu. Người đang ở trong nhà của Thiên Chúa.

Cuối cùng, khi tìm thấy Chúa Giêsu, câu hỏi đầu tiên của Đức Maria và thánh Giuse rất dễ hiểu: "Con ơi, sao con lại cư xử với cha mẹ như vậy ?". Và Người trả lời "Cha mẹ không biết rằng con có bổn phận phải ở nhà của Cha con sao ?". Mặc dù không hiểu được lời giải thích của Chúa Giêsu, nhưng các ngài vẫn không trách mắng Người. Khi làm như vậy, các ngài có thể tước đoạt của Ngài những thành quả của những cảm nghiệm tuyệt vời. Đôi khi, các bậc cha mẹ không biết được cách làm thế nào để khích lệ con cái, ngay cả khi họ chú ý đến những điều đáng giá. Nhưng Đức Maria ghi nhớ những lời nói của Chúa Giêsu, và suy niệm trong lòng. Lắng nghe là một phần rất quan trọng của vai trò làm cha mẹ. Chúng ta phải lắng nghe những lời con cái nói. Trái ngược lại với cách tìm kiếm những nguyên nhân để kết án, lắng nghe có nghĩa là tìm kiếm những lý do thực sự, phía sau những vấn đề. Mặc dù sự kiện xảy ra là một điều gây đau lòng, thì sự kiện đó vẫn có thể mang lại hiệu quả là đưa người ta đến với nhau hơn. Chúa Giêsu đánh giá được sự quan tâm mà Đức Maria và thánh Giuse dành cho mình nhiều đến như thế nào, nên Người đã vui vẻ vâng phục các ngài. Đức Maria và thánh Giuse đã nhận ra rằng Chúa Giêsu là một đứa trẻ thật đặc biệt. Các ngài bắt đầu dành cho Người cơ hội để phát triển, mặc dù điều này có nghĩa là Người đang bắt đầu xa rời khỏi các ngài.

Bài học mà Đức Maria và thánh Giuse học được, chính là bài học mà tất cả các bậc cha mẹ cần phải bắt chước. Mỗi ngày qua đi, con cái chúng ta dần dần bớt thuộc về chúng ta, và trở nên con người của chúng nhiều hơn. Ngày sinh con cái trên đời chính là ngày mà cha mẹ bắt đầu đi vào cuộc chia tay lớn lao với chúng. Khi đã mang sự sống đến cho con cái, các bậc cha mẹ không được lấy lại cuộc sống đó. Nếu họ muốn có quyền sở hữu đối với con cái, thì họ sẽ không bao giờ biết được tình yêu thực sự của con cái họ.

Khi chúng ta nói rằng đứa trẻ nào là một đứa con "ngoan", hiếm khi chúng ta có ý muốn nói rằng đứa trẻ đó nhạy cảm về mặt luân lý hoặc một cách phong phú. Nhưng chúng ta có ý muốn nói rằng đứa trẻ đó dễ bảo và biết vâng lời. Nhưng sự vâng lời không phải là một đức tính cao đẹp nhất.

Chúa Giêsu không bị thất lạc tại Đền thờ. Nói đúng hơn, Người bắt đầu tìm thấy chính mình tại nơi đó, và phát hiện được căn tính đích thực của mình với tư cách là Con Thiên Chúa. Về phương diện này, gia đình Kitô hữu có thể giúp chúng ta rất nhiều.

SUY NIỆM 2:

Cuối bài Tin Mừng hôm nay, có một câu nói rất gây ấn tượng. Đó là "Đức Maria hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng". Và sau cuộc thăm viếng của các mục đồng tại máng cỏ, chúng ta nhận thấy cũng có một câu tương tự như vậy. Thánh Luca nói rằng "Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng". Đức Maria ghi nhớ những sự kiện này trong tâm hồn của Mẹ, với quan niệm là để nhận thức được ý nghĩa ẩn giấu phía sau những sự kiện tuyệt vời đó.

Rõ ràng Đức Maria đã không ngay tức khắc thấu hiểu được ý nghĩa của những gì xảy ra với mình, và điều mà Thiên Chúa đang đòi hỏi nơi mình. Nhưng những sự kiện luôn luôn diễn ra theo cách thế đó. Những kinh nghiệm sâu xa lúc nào cũng bắt đầu bằng sự phức tạp. Vào một lúc nào đó, chúng ta không bao giờ nhận biết được điều gì đang xảy ra cho chúng ta. Chỉ sau đó, có lẽ rất lâu, đôi mắt của chúng ta mới mở ra, và chúng ta bắt đầu hiểu được. Do đó, điều qaun trọng là phải biết suy niệm.

Hơn một lần, chúng ta đọc được trong các bài đọc. Tin Mừng kể rằng Đức Maria đã từng bối rối. Lúc đó, Mẹ làm gì ? Mẹ ngẫm nghĩ, suy niệm và cầu nguyện, tìm cách hiểu được điều gì đang xảy ra cho bản thân Mẹ và cho con Mẹ. Cách ngẫm nghĩ này không tránh khỏi sự bất an và lo lắng.

Đức Maria là một con người âm thầm, hay suy nghĩ. Trong suốt cuộc đời của mình, Mẹ luôn suy nghĩ và cầu nguyện về cách thức Thiên Chúa đối xử với mình. Khi không hiểu được điều gì, thì Mẹ ngẫm nghĩ trong tâm hồn, cho đến khi thấu hiểu được mục đích của Thiên Chúa qua những sự kiện đó. Bằng cách này, Mẹ đã đạt được sự thấu hiểu và khôn ngoan.
Emerson nói: "Cuộc sống ở phía sau chúng ta, giống như một cái mộ đá, mà từ đó, chúng ta khai thác đá và gạch ngói, dành cho người thợ nề ngày nay". Chỉ bằng cách suy niệm, chúng ta mới thấu hiểu được những sự kiện diễn ra. Chúng ta có thể có được những sự kiện, nhưng thiếu mất ý nghĩa của những sự kiện đó, bởi vì chúng ta không biết suy nghĩ về chúng. Nhưng bằng cách suy niệm, thì chúng ta có thể rút ra được những hiểu biết quí giá từ các sự kiện đó.

Khi muốn nhớ lại những sự kiện thú vị, đó là một điều thật dễ dàng. Nhưng không hề dễ dàng chút nào, khi nhớ đến những sự kiện đau lòng. Chúng ta có khuynh hướng hay đè nén những ký ức đau thương. Ngay cả khi làm như vậy, chúng vẫn có thể ảnh hưởng trên chúng ta. Chúng ta có thể nhỏ một giọt chất độc vào tâm hồn chúng ta. Chúng ta cũng cần phải nhớ lại những sự kiện đau lòng nhưng cách thức chúng ta nhớ lại những sự kiện đó mới là vấn đề. Chúng ta có thể cung cấp những chất liệu sống để rồi từ đó, chúng ta hiểu biết được lòng thương xót và sự khôn ngoan. Sự kiện Chúa Giêsu bị thất lạc ở Giêrusalem là một sự kiện đau lòng đối với Đức Maria. Tuy nhiên, Mẹ ghi nhớ sự kiện đó trong tâm hồn, và bằng cách làm như vậy, Mẹ đã học hỏi được từ sự kiện đó.

Thật đáng buồn, có những người dường như không hề học hỏi được gì từ các sự kiện xảy ra. Nhưng đối với những người khác, thì sự kiện là một trường học đích thực. Không ai có thể trở thành con người khôn ngoan, nếu chỉ trong một ngày, hoặc thậm chí trong một năm. Khôn ngoan là thành quả của sự suy nghĩ lâu dài.

Các bậc cha mẹ cần có rất nhiều sự khôn ngoan. Những điều mà Đức Maria học hỏi được từ việc cầu nguyện và suy nghĩ, Mẹ đã chuyển sang cho con Mẹ, Đấng học hỏi được từ việc cầu nguyện và suy nghĩ, Mẹ đã chuyển sang cho con Mẹ, Đấng mà thánh Luca kể cho chúng ta rằng "ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến". Chúa Giêsu đã được dạy dỗ, nuôi dưỡng và đào tạo do một người phụ nữ khôn ngoan, kính yêu Thiên Chúa với tất cả trái tim và linh hồn.

MỘT CÂU CHUYỆN KHÁC

Có một câu nói "Một bà mẹ có thể nuôi được mười đứa con, nhưng mười đứa con không thể nuôi được một bà mẹ". Tất nhiên, không phải lúc nào cũng đơn giản là thế, như câu chuyện minh hoạ dưới đây.

Ngày xưa, một con chim mẹ có một con chim non mới ra ràng, mà nó rất mực yêu thương. Thế rồi đến thời kỳ di trú. Biết rằng con chim non còn quá bé nhỏ, không thể bay đi xa được, nên chim mẹ cõng chim non trên lưng.

Và thế là hai mẹ con nhà chim bắt đầu cuộc hành trình bay về phía nam. Ban đầu, chuyến bay tương đối dễ dàng. Nhưng thời gian trôi qua, con chim non trở nên nặng hơn, và chim mẹ bắt đầu cảm thấy mệt mỏi. Tuy nhiên, nó vẫn tiếp tục bay. Ngày kia, trong khi cả hai mẹ con đang nghỉ ngơi, chim mẹ quay sang chim con và nói "Con của mẹ, con hãy nói sự thật cho mẹ nghe, khi mẹ già rồi, thì mẹ sẽ không đủ sức mạnh để bay xuyên qua đại dương xuôi về phía nam, thế con sẽ cõng mẹ trên lưng và bay chứ?".

Con chim con đáp "Mẹ ơi, con không thể hứa gì với mẹ về điều đó".

Chim mẹ hỏi "Mà tại sao lại không được?"

"Bởi vì có thể chính con cũng bận rộn, vì phải cõng những đứa con của con trên lưng, giống như mẹ đang làm cho con bây giờ vậy".

Trong khi đòi hỏi của bà mẹ là không thể nào hiểu được, là hơi ích kỷ, thì người ta vẫn phải làm điều mà mình có thể làm được, để chăm sóc cha mẹ già. Bổn phận đầu tiên và thánh thiện nhất của chúng ta, là cư xử tử tế đối với người họ hàng của mình. Nhưng có lẽ chăm sóc chính những đứa con của mình lại là cách thức tốt nhất, để đền đáp công ơn cha mẹ đã săn sóc chúng ta.

7. Lễ Thánh Gia Thất.
(Trích trong 'Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày' – Radio Veritas Asia)
Cổ tích vùng Rotal mạn Bắc nước Pháp có kể lại một câu chuyện sau đây:
Có một gia đình nọ gồm cha mẹ và một người con sống rất hiệp nhất yêu thương nhau. Nhưng một đêm kia, đang lúc mọi người ngủ say, một trận giông bão to lớn chưa từng thấy, chỉ trong mấy giờ đồng hồ cả vùng đều lụt lớn, nhà cửa sập cả, thây người và vật trôi bồng bềnh. Người cha của gia đình cõng vợ trên vai mình và bà vợ tay bế đứa con. Nước càng lúc càng dâng cao, chẳng bao lâu ngập đầu của hai vợ chồng. Dù ngộp thở và vô cùng mệt mỏi, bà mẹ cố giơ cao hai cánh tay nâng cao đứa con lên khỏi mặt nước để đứa bé khỏi chết ngộp. Hai vợ chồng sẵn sàng chờ chết, nhưng chỉ mong có ai cứu được đứa bé khỏi chết. Vừa lúc đó, có một thiên thần bay ngang qua, trông thấy cái đầu bé tí nhô khỏi mặt nước, vội cầm lấy kéo lên và dính chùm theo là cả cha mẹ đứa bé. Thế là nhờ yêu thương hiệp nhất mà cả gia đình được thoát nạn.
Có lẽ chưa bao giờ gia đình lại khủng hoảng trầm trọng trong thế giới như chúng ta đang sống hiện nay. Rất nhiều gia đình trong xã hội là những gia đình què quặt, tan nát, nạn ly thân, ly dị và phá thai, và những gia đình chia ly vì chiến tranh, bạo lực, áp bức của các chế độ vô nhân. Những gia đình bất hòa vì nạn thất nghiệp, vì nạn kinh tế khó khăn, eo hẹp hay vì nạn cờ bạc rượu chè, ma túy, thuốc sái và ham mê buông thả trong lạc thú. Vì thế, những người phải trả giá mắc mỏ nhất cho hậu quả của các cuộc khủng hoảng này là con cái, là trẻ em và giới trẻ.
Làm sao con người có thể hạnh phúc tươi vui khi phải sống trong các gia đình như thế? Làm sao thế giới có thể an bình thịnh vượng khi các tế bào nòng cốt của xã hội bị bệnh hoạn như vậy?
Qua ngày lễ Thánh Gia, Mẹ Giáo Hội kêu mời chúng ta suy tư nghiêm chỉnh trở lại ý nghĩa cuộc sống gia đình và đề nghị với chúng ta một mẫu gương, đó là mẫu gương của tổ ấm gia đình Nazareth xưa, gia đình của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse.
Chương ba sách Đức Huấn Ca là một bài quảng diễn điều răn thứ Tư của Mười Giới Luật, dạy con cái phải thảo hiếu cha mẹ. Ngoài những lý do luân lý tự nhiên như câu ca dao Việt Nam nêu lên:
"Công cha như núi thái sơn,
nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ kính mẹ cha,
cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
Tác giả sách Đức Huấn Ca còn nhấn mạnh đến lý do tôn giáo nữa. Đó là thái độ sống hiếu với cha mẹ, với những người đã dày công mang nặng đẻ đau, sinh thành, dưỡng dục chúng ta. Thiên Chúa sẽ nghe lời những người con hiếu thảo khi họ kêu khấn lên Ngài.
Suy tư trên đây là một thí dụ điển hình cho thấy người sống đạo, người đạo đức như tác giả sách Đức Huấn Ca, biết nhìn ra ý nghĩa sâu thẳm siêu việt nằm trong chính cái nhân loại tầm thường của cuộc sống mỗi ngày. Thiên Chúa không xa vời đối với Chúa Giêsu nhưng Ngài luôn hiện diện ngay trong cái tầm thường nhất của mỗi ngày sống chúng ta. Bởi vì Ngài đã đến sống giữa con cái loài người, đồng hành với con người, chia sẻ mọi buồn vui, mọi âu lo khó nhọc của cuộc sống con người. Khi biết nhìn thực tại bằng đôi mắt của lòng tin thì mọi sự trong thế giới hữu hình này đều được biến đổi và nói lên được sứ điệp mà Thiên Chúa muốn nhắn gởi chúng ta: một gia đình trong đó mọi thành phần biết kính sợ Thiên Chúa, biết yêu thương tôn trọng lẫn nhau, hy sinh cho nhau, sống cho nhau và sống vì nhau thì sẽ là một gia đình được tràn đầy phúc lành và sức sống thiên linh của Thiên Chúa.
Sự thật này được nêu bật trong Thánh Vịnh 28. Đây là bí quyết tạo hạnh phúc cho gia đình, nhưng rất tiếc cũng là điều rất thiếu sót trong các gia đình của xã hội chúng ta ngày nay. Làm sao gia đình có thể hài hòa hạnh phúc nếu mỗi người chỉ ích kỷ, sống và tìm hưởng thụ cho riêng mình mà không muốn yêu thương, không muốn chia sẻ, không muốn dâng hiến, trao ban và lo lắng cho những người khác. Tình yêu đích thực bao giờ cũng đơm hoa kết trái, và gia đình chỉ là gia đình khi cha mẹ, con cái xum vầy bên nhau.
Một tình yêu không sinh hoa trái là một thứ tình yêu cằn cỗi, què quặt, bất bình thường. Một gia đình không có con cái là một gia đình buồn tẻ và không trọn vẹn. Dĩ nhiên, vì những lý do ngoài ý muốn, gia đình có thể thiếu vắng thành phần này hay thành phần khác, nhưng tình yêu là nhân tố nòng cốt không thể thiếu được. Một cuộc hôn nhân không tình yêu là một cuộc hôn nhân lầm lẫn, bởi vì chỉ có tình yêu chân thành sâu đậm được chăm bón vun xới mỗi ngày mới khiến cho gia đình trở thành tổ ấm hạnh phúc. Còn lấy nhau vì tiền của, vì lợi lộc, lấy nhau vì chức tước và địa vị thì sẽ không bao giờ tạo hạnh phúc cho con người và hôn nhân sẽ đi đến chỗ đổ vỡ. Nhưng tình yêu không chân thành, không thôi thúc cũng chưa đủ để đảm bảo hạnh phúc cho gia đình mà cần phải có những nhân đức Kitô và nhân đức xã hội.
Trong chương III thư gởi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô khuyên các tín hữu chu toàn các đòi buộc của lòng tin trong cuộc sống thường ngày. Trước khi đề cập đến bổn phận của các thành phần khác trong gia đình, thánh nhân nhắc cho mọi người biết một số các bổn phận căn bản phát xuất tự lòng tin Kitô: Là những người được chọn làm con cái Thiên Chúa, là thành phần sống động của xã hội và là công dân Nước Trời, hơn ai hết người Kitô hữu phải noi gương Chúa Giêsu sống tình yêu thương bác ái trọn vẹn cao độ đến sẵn sàng hy sinh mạng sống vì người khác. Bởi vì, chính thái độ sống yêu thương là thái độ sống nền tảng cho người Kitô hữu, giúp họ thực sự trở nên giống Thiên Chúa, và là nền tảng của mọi nhân đức khác, đặc biệt là các nhân đức xã hội, nhân bản.
Do đó, thánh Phaolô thôi thúc chúng ta hằng ngày biết mặc lấy tâm tình của lòng thương xót, nhân từ, khiêm tốn, dịu hiền và kiên nhẫn. Tất cả các nhân đức này đều giúp chúng ta duy trì được bầu khí hài hòa trong nội tâm, trong gia đình và giữa cộng đoàn. Bởi vì khi có lòng thương xót và nhân từ, chúng ta sẽ cảm thông với những lỗi lầm thiếu sót và yếu đuối của nhau, và dễ tha thứ cho nhau hơn bắt đầu bằng các thành phần trong gia đình mình, vợ chồng, con cái, họ hàng, bạn bè. Khi khiêm tốn, chúng ta cũng biết nhận ra những tội lỗi, những khuyết điểm, những yếu hèn và thiếu sót của chúng ta chứ không luôn luôn cho mình là phải, là hay, là giỏi, là nhất, và hung hăng chỉ trích lên án và kết tội người khác.
Khi khiêm tốn, chúng ta dễ châm chước cho người khác, vì biết rằng mình cũng như họ thôi, hay đôi khi còn tệ hơn họ nhiều và chúng ta sẵn sàng xin lỗi, sẵn sàng làm hòa, sẵn sàng đền bù sửa chữa. Khi hiền dịu và khiêm tốn, chúng ta không nóng nảy gay gắt với người khác, mà biết chịu đựng mọi thiếu sót, sơ xuất của họ, đồng thời ý thức được rằng người khác cũng đang phải kiên nhẫn chịu đựng những thiếu sót và sai quấy của mình.
Lời Chúa mà chúng ta tâm niệm và cùng với ơn thánh Chúa ban cho mỗi ngày, chúng ta có thể tập được các nhân đức trọn lành này. Sau khi khuyến khích mọi người mỗi ngày hãy mặc lấy tâm tình và tìm sống các nhân đức trên đây, thánh Phaolô đem nguyên tắc xem ra đơn sơ, nhưng thực hiện được cho đúng quả thật không dễ. Đó là mỗi thành phần trong gia đình hãy cố gắng sống bổn phận riêng trong cương vị của mình một cách phù hợp với ý Chúa muốn: "Vợ hãy phục tùng chồng và chồng hãy yêu thương vợ, đừng gắt gỏng với nàng. Còn con cái hãy thảo kính cha mẹ và vâng phục các ngài. Cha mẹ hãy biết khoa sư phạm và rành tâm lý theo kiểu cách dạy dỗ, cư xử với con cái, đừng quá khắt khe đòi hỏi kẻo chúng chán nản ngã lòng".
Có người coi cái tôn ti trật tự của cuộc sống gia đình như thánh Phaolô trình bày là bất công, kỳ thị và lỗi thời. Vì trong xã hội nam nữ bình quyền, đặc biệt ngày nay trong liên hệ giữa vợ chồng với nhau họ được bình đẳng. Nhưng nếu chúng ta để ý đến nguyên tắc lấy tình yêu thương làm nền tảng cuộc sống thường ngày như thánh Phaolô đã nêu bật thì sẽ không có vấn đề nữa. Bởi vì trong yêu thương thì tất cả mọi người đều như nhau, không có phân chia ngôi vị. Nói như thế không có nghĩa là cuộc sống gia đình sẽ không bao giờ gặp khó khăn hay khủng hoảng, nhưng có nghĩa là cho dù có gặp những khủng hoảng, khó khăn trầm trọng đến thế nào đi nữa, nếu mỗi thành phần gia đình đều có tình yêu thương đích thật thì tất cả đều được san bằng trong yêu thương hợp nhất. và nếu sống tình yêu thương đó cách cụ thể thì sóng gió nào rồi cũng sẽ êm và con thuyền tổ ấm gia đình tiếp tục tiến tới. Sống yêu thương chân thành quảng đại vô vị lợi không phải là chuyện dễ, nhưng là điều có thể làm được và cần phải làm nếu chúng ta muốn tạo dựng hạnh phúc cho chính mình và cho người khác.
Sự thật này được minh chứng trong trình thuật Phúc Âm thánh Luca chương II: Sự thường mười hai tuổi vẫn là lứa tuổi thiên thần dễ thương và dễ mến nhất. Trong dịp cả gia đình đi hành hương ở Jérusalem hôm ấy, Chúa Giêsu đã khiến cho thánh Giuse và Mẹ Maria một lần phải rụng rời tay chân, khi Chúa Giêsu tự ý ở lại trong đền thờ mà không nói gì với hai người. Sau ba ngày hớt hải kiếm tìm và hỏi han khắp nơi, hai ông bà cảm thấy con đang đàm đạo đối chất với những tiến sĩ luật trong đền thờ.
Câu trách móc nhẹ nhàng của Mẹ Maria cho thấy tất cả tình yêu thương hiền dịu của Mẹ và của Thánh Giuse đối với Chúa Giêsu là một lời trách móc đầy yêu thương kính trọng. Sự im lặng của thánh Giuse thật vô cùng ý nghĩa: nó vừa tỏ nỗi lo âu một cách thầm kín, vừa cho thấy thái độ của thánh nhân tôn trọng tự do của Chúa Giêsu và biết chấp nhận sự kiện không thể giải thích được. Bởi vì thánh nhân biết chắc phải có lý do nào kín ẩn lắm mới khiến cho một người con ngoan ngoãn tuyệt diệu như Chúa Giêsu có thái độ hành xử này.
Câu trả lời lạ lùng của Chúa Giêsu giải thích cho hành động bất thường ấy đã minh chứng cho thấy tuy còn nhỏ tuổi, Chúa Giêsu đã ý thức được sứ mệnh và nguồn gốc của mình. Chúa Giêsu thuộc về một thế giới và có sứ mệnh phải chu toàn mà ít người có thể hiểu nổi, kể cả Mẹ Maria và thánh Giuse. Tuy không hiểu được câu trả lời của Con, Mẹ Maria ghi nhớ kỹ mọi sự và suy niệm trong lòng. Cuộc suy gẫm ấy sẽ lâu dài và đau đớn, và Mẹ chỉ hiểu được mầu nhiệm đó khi đứng dưới chân Thập Giá của Người Con trong ngày Chúa Giêsu tử nạn vì yêu thương.
Sau biến cố kể trên, Chúa Giêsu lại theo Cha Mẹ về Nazareth, lớn lên trong khôn ngoan, tràn đầy ơn thánh, yêu thương tuân phục các Ngài cho tới ngày công khai rao giảng Tin Mừng cứu độ.

8. Gia đình mẫu mực cho mọi gia đình.
(Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nếu có ai đặt câu hỏi: gia đình nào xứng đáng là mẫu mực cho mọi gia đình khác noi theo, thì câu trả lời không gì khác hơn là thánh gia thất Nadarét.
Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse đã cùng nhau xây nên một gia đình rất đẹp, rất thánh thiện và gương mẫu nhất đời.
Thành viên thứ nhất: thánh Giuse, người công chính.
Là người công chính, thánh Giuse đã không hành động cách nông nổi điên cuồng như bao thanh niên khác khi thấy người bạn trăm năm của mình mang thai trước khi về chung sống. Ngài đã xử sự đầy bao dung, quảng đại và khôn ngoan. (Mt 1, 19)
Thánh Giuse là một người cha luôn mau mắn phục vụ gia đình không quản khó nhọc, không quản ngày đêm: "Đang đêm, sứ thần hiện ra cùng Giuse trong giấc mơ và bảo: "hãy đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai-cập", thì thánh Giuse tức tốc thi hành (Mt 2, 13-14). Rồi sau khi đã an cư lạc nghiệp bên Ai-cập, sứ thần Chúa lại báo mộng cho ông rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en", thánh Giuse mau mắn thi hành không do dự. ( Mt 2, 19 # 21)
Thánh Giuse là người lao động cần cù để nuôi dưỡng gia đình. Ngài chuyên chăm làm nghề mộc đến nỗi nói đến bác thợ trong làng Nadarét thì người ta nghĩ ngay đến thánh Giuse. Khi người Nadarét gọi Chúa Giêsu là con bác thợ, ai chẳng biết bác thợ đó là thánh Giuse. ( Mt 13, 55).
Thành viên thứ hai: Mẹ Maria, một người Mẹ tuyệt vời.
Một người Mẹ trổi vượt về khiêm nhường. Cho dù được sứ thần Gabrien gọi là "Đấng đầy ơn phúc" (Lc 1, 28), được bà Ê-li-sa-bét ca ngợi là người có phúc hơn mọi người nữ; (Lc 1, 42) thì Mẹ vẫn nhận mình chỉ là "nữ tì hèn mọn" (Lc 1, 48).
Một Người Mẹ đầy lòng yêu thương và phục vụ: khi vừa hay tin người chị họ cao niên được Chúa cho cưu mang con trai trong tuổi già, Mẹ tất tả lên đường tiến lên miền núi, tìm đến nhà bà Ê-li-sa-bét để chúc mừng và ở lại phục vụ người chị họ cao niên trong thời gian thai nghén và sinh nở ròng rã ba tháng trời.
Mẹ là người luôn quan tâm đến niềm vui và hạnh phúc người khác, thế nên khi dự tiệc cưới tại Ca-na, dù không phải là người nhà, Mẹ là người đầu tiên phát hiện tiệc cưới thiếu rượu và đã tìm cách chữa cháy cho sự việc nầy. (Ga 2, 3)
Là người Mẹ rất mực hiền lành, nên dù phải nôn nao, lo lắng, cực lòng tìm con suốt ba ngày ròng, khi gặp được con, Mẹ vẫn giữ được sự dịu dàng hiếm có: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!"
Thành viên thứ ba: Chúa Giêsu.
Dù là Thiên Chúa Ngôi hai, Chúa Giêsu đã trở thành một người con hết lòng yêu thương và phục vụ cha mẹ trần thế. Trong ba mươi ba năm ngắn ngủi sống thân phận con người, Ngài đã bỏ ra đến ba mươi năm, tức 9/10 cuộc đời, để cùng với Mẹ Maria và thánh Giuse xây dựng gia đình Nadarét. Ngài đã đổ mồ hôi với công việc lao nhọc hằng ngày để nuôi dưỡng phục vụ Đức Mẹ và thánh Giuse cho đến tuổi ba mươi mới lên đường thi hành sứ mạng.
Dù là Thiên Chúa quyền năng nhập thể, nhưng Chúa Giêsu luôn tỏ ra là một người con hiếu thảo với cha mẹ trần gian. Thánh Luca tóm tắt cuộc sống tại gia của Ngài như sau: "Người hằng vâng phục cha mẹ... ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta" (Lc 2, 51-52)
* * *
Thiên Chúa đã thiết kế và xây dựng một ngôi nhà rất đẹp, rất ấm cúng và thánh thiện là gia đình Nagiarét. Thiên Chúa nhận thấy đây là một mẫu nhà đẹp nhất nên Ngài mời gọi chúng ta dựa trên mô hình đó để dựng xây gia đình mình y như vậy.
Xây dựng gia đình mình theo mẫu nhà Nadarét là mọi người trong gia đình phải đối xử với nhau như ba Đấng trong thánh gia nầy, cụ thể là chồng phải yêu thương và phục vụ vợ con như thánh Giuse đã yêu mến và phục vụ Đức Mẹ và Chúa Giêsu; người vợ phải yêu thương và săn sóc chồng như Mẹ Maria đã yêu mến và phục vụ thánh Giuse và Chúa Giêsu; cha mẹ phải yêu mến và chăm lo cho con cái như thánh Giuse và Mẹ Maria chăm lo phục vụ Chúa Giêsu; con cái trong gia đình phải hiếu kính mẹ cha, biết thờ cha kính mẹ, phụng dưỡng cha mẹ như Chúa Giêsu đã làm đối với Đức Mẹ và thánh Giuse.
* * *
Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình, nhắn nhủ: "Thiên Chúa đã tự đồng hoá với người cha, người mẹ, người con trong gia đình... Những gì mà các thành viên trong gia đình làm cho nhau là làm cho chính Chúa".
Thế là phần thưởng đời đời sẽ được Chúa Giêsu ưu ái trao tặng cho các thành viên gia đình biết yêu thương phục vụ lẫn nhau.
Và thế là một phần thưởng vô cùng quý báu đang nằm trong tầm tay mọi người.
9. Những thánh gia Nagiarét thời đại mới.
(Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Có họ đạo nghèo ở vùng duyên hải miền Trung có tên gọi là Thánh Gia. Sở dĩ đặt tên như vậy là vì họ đạo nầy chọn Thánh Gia Nagiarét làm bổn mạng.
Phía bên hông nhà thờ họ đạo có một hang đá khá lớn, có bộ tượng hang đá bằng thạch cao to bằng tầm vóc người trưởng thành.
Hằng năm vào dịp lễ Thánh Gia, bổn mạng của giáo xứ, theo một truyền thống đã có từ lâu đời, sau khi lễ tan, các gia đình trong giáo xứ tập trung đông đảo chung quanh hang đá cầu nguyện với thánh gia thất và mỗi gia đình cử ra một vị đại diện tuần tự tiến lên theo hàng đôi đến trước bộ tượng hang đá, dâng lên Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giu-se những bông hoa thắm tươi và thơm ngát để tỏ lòng tôn kính mến yêu của mình.
Thế rồi một biến cố đau lòng xảy ra trong dịp trước giáng sinh năm ấy, một nhóm trẻ tinh nghịch từ làng bên vì có thù hận với nhóm trẻ trong xóm đạo, đã kéo đến vào ban đêm đập phá bộ tượng hang đá vỡ ra nhiều mảnh.
Sự việc nầy khiến cho nhiều người hoang mang và bối rối!
Biết làm sao bây giờ, khi ngày lễ thánh gia đã gần kề? Tìm đâu ra bộ tượng ba Đấng mới thế vào bộ tượng đã bị phá tan? Nghi lễ dâng hoa cho ba Đấng vào mỗi dịp lễ Thánh Gia là một nghi lễ truyền thống đã được thực hiện xuyên suốt từ hơn trăm năm qua, không có năm nào bỏ qua, lẽ nào năm nay không tổ chức được?
Vì giáo dân trong xứ quá nghèo, Cha xứ và hội đồng mục vụ không thể huy động đủ tiền để đặt làm bộ tượng mới và dù có huy động đủ tiền cũng không thể đặt một bộ mới trong khi thời gian đã cận kề.
Trước tình thế đó, Cha Xứ có một sáng kiến táo bạo: Ngài cho mời đôi vợ chồng mới sinh đứa con trai đầu lòng được chừng tháng tuổi và mới được rửa tội mấy ngày trước, mặc y phục truyền thống thật chỉnh tề, đóng vai Đức Mẹ, thánh Giu-se và Chúa Giêsu thay cho bộ tượng hang đá bằng thạch cao đã bị hư hại. Ngài sắp xếp cho cặp vợ chồng quỳ bên trong hang đá, chầu hai bên đứa con thơ ở giữa họ và kêu mời đại diện các gia đình trong giáo xứ tiến lên theo hàng đôi dâng hoa cho ba vị nầy.
Sáng kiến nầy đã làm cho một số người trong họ đạo cảm thấy bị sốc. Họ cho rằng làm như vậy là quá đề cao gia đình người tín hữu và xúc phạm đến ba Đấng thánh.
Cha Sở cố gắng diễn giảng cho họ như sau:
Khi đề nghị gia đình anh chị Năm đóng vai Giu-se, Mẹ Maria và Chúa Giêsu thế chỗ cho bộ tượng ba Đấng bằng thạch cao bị hư, chúng ta không làm gì xúc phạm đến ba Đấng thánh, nhưng chúng ta xem gia đình anh chị Năm đây là hình ảnh rất trung thực và cao quý về Thánh Gia của Chúa Giêsu.
Lâu nay, chúng ta quen nhìn hình tượng ba Đấng bằng thạch cao, bằng xi măng hay bằng nhựa dẻo, và chưa quen nhìn hình tượng ba Đấng bằng xương bằng thịt có sự sống, có linh hồn, có lương tri, có trí tuệ như anh chị Năm đây, nên chúng ta cảm thấy bị sốc.
Nhưng xin quý ông bà hiểu điều nầy:
Thứ nhất: mỗi một người tín hữu đều có phẩm giá rất cao và được gọi là thánh. Thánh Phaolô gọi các tín hữu thuộc các giáo đoàn (nay gọi là giáo xứ) là thánh. Họ được hiến thánh nhờ bí tích thánh tẩy. Nhờ bí tích nầy họ trở thành chi thể, thành thân mình Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô nói: "Nào Anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?" (1Cr 6,15)
Ngoài ra, các tín hữu còn được Chúa Giêsu cho trở nên cùng một xương thịt với Người, được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa, được thông phần bản tính Thiên Chúa nhờ đón nhận bí tích Thánh Thể.
Như vậy, không có một sản phẩm nào do tay người phàm làm ra dù bằng thạch cao, bằng gỗ, bằng đá hay bằng kim loại quý như bạc như vàng... xứng đáng được chọn làm hình ảnh của Chúa Giêsu, của Mẹ Maria, của thánh Giu-se cho bằng chính mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Thứ hai: Hội Thánh công giáo xưa nay vẫn nhìn nhận gia đình của Kitô hữu là gia đình thánh nên Giáo Hội quen gọi đó là những hội thánh tại gia.
Chúa Giêsu còn lập bí tích hôn nhân để thánh hiến đời sống vợ chồng. Thế nên không gì thích hợp cho bằng chọn gia đình Kitô hữu làm biểu tượng cho thánh gia Nagiarét.
Sau khi hiểu được những điều cha xứ giải thích, mọi người vui vẻ dâng những đoá hoa thật đẹp thật tươi cho anh chị Năm được cử đóng vai thánh gia Nagiarét.
Rồi qua những năm sau, nhiều người trong giáo xứ đều thấy thật là thích hợp và đầy ý nghĩa khi chọn một gia đình công giáo trong họ đạo đóng vai thánh gia Nagiarét thay vì dùng bộ tượng thạch cao, nên cộng đồng giáo xứ thoả thuận với nhau rằng: đôi vợ chồng nào mới sinh con và được rửa tội sớm nhất trong tháng 12 dương lịch thì sẽ được chọn đóng vai thánh Giu-se, Đức Mẹ và Chúa Giêsu để cho giáo dân kính viếng. Và cũng từ lúc đó, thay vì dâng hoa cho ba Đấng như trước đây, người ta dâng cho em bé trong vai Giêsu những hộp sữa; dâng cho người mẹ trong vai Maria những cuộn chỉ, những chiếc kim, chiếc kéo; dâng cho người cha trong vai Giu-se những dụng cụ làm việc nho nhỏ như những chiếc kìm, chiếc búa, cái đục, cái bào...
Từ sự kiện nầy, các gia đình tín hữu trong xứ đạo đều ý thức mình là những thánh gia Nagiarét thời mới. Các đôi vợ chồng trong các gia đình luôn trân trọng và yêu quý nhau như tương quan giữa Mẹ Maria và thánh Giu-se. Cha mẹ biết chăm lo giáo dục con cái như Mẹ Maria và thánh Giu-se đã thực hiện với Chúa Giêsu năm xưa. Con cái luôn vâng phục và thảo hiếu với mẹ cha như Chúa Giêsu đã làm đối với thánh Giu-se và Đức Mẹ. Niềm vui, hạnh phúc và đời sống thánh thiện chan hoà trong các gia đình.
Ngoài ra, tương quan giữa các gia đình trong giáo xứ được cải thiện đáng kể vì ai nấy đều biết tôn trọng những gia đình khác vì xác tín rằng đó thực sự là những thánh gia.

10. Thánh gia, gương sáng của tin yêu.
(Trích trong 'Cùng Nhau Suy Niệm' – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Lần giở lại những trang đầu của sách Sáng Thế Ký, chúng ta thấy gia đình đầu tiên của nhân loại đã được Chúa chúc phúc. Họ đã có những ngày tháng thật hạnh phúc bên nhau và bên Chúa. Giữa Thiên Chúa và con người không có khoảng cách, chỉ có tình thân hữu thật thơ mộng mà Thánh kinh đã diễn tả: "chiều chiều Thiên Chúa tản bộ đi cùng con người trong vườn địa đàng". Thế nhưng gia đình đó đã bị rạn nức và bị đổ vỡ. Nguyên do của sự đổ vỡ chính là họ chối từ Thiên Chúa, hành vi Adam - Eve giơ tay lên hái trái cấm là hành vi nói lên con người muốn gạt Thiên Chúa ra bên ngoài, muốn loại trừ Thiên Chúa nên con người cũng loại trừ và kết án lẫn nhau. Adam đã kết án vợ mình: "Tại người đàn bà này mà tôi đã ăn trái cấm". Hậu quả của việc bất tuân phục Thiên Chúa là đau khổ và sự chết đã đi vào trần gian.
Nhưng, cho dù con người có ngàn lần phản nghịch, Chúa vẫn yêu thương con người, Chúa vẫn tìm đến để cứu chuộc con người và phục hồi lại giá trị của hạnh phúc gia đình thuở ban đầu. Thiên Chúa đã mang xác phàm để ở giữa chúng ta. Ngài đã sinh ra trong một gia đình, lớn lên trong một gia đình, và chính Ngài đã thánh hoá gia đình đó trở thành gia đình thánh, mẫu gương cho các gia đình noi theo. Đó là một gia đình luôn biết tuân phục Thiên Chúa, luôn phó thác cậy trông vào Chúa. Gia đình đó có thánh Giuse đã vì Chúa mà đón nhận Maria về làm bạn mình, đã vì Chúa mà lận đận vượt trăm ngàn nguy khó để bảo vệ sự sống cho hài nhi và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Gia đình đó có Đức Maria, một người Mẹ của cầu nguyện và hy sinh. Mẹ đã phó thác hoàn toàn cho thiên ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Mẹ đã tận hiến đời mình như một nữ tỳ nhỏ bé để phụng sự Thiên Chúa. Gia đình đó còn có Chúa Giê-su, một người con hằng yêu mến cha mẹ, càng lớn càng khôn ngoan, hằng đẹp lòng Thiên Chúa và người ta.
Và cho đến hôm nay, mỗi khi chúng ta thấy có những người cha, người mẹ biết sống tôn thờ Thiên Chúa là họ đang để cho Chúa canh tân, gìn giữ gia đình. Họ đang vui với phận mình trong niềm tín thác vào sự quan phòng của Chúa. Họ có thể nghèo khó nhưng tấm lòng họ lại thanh thoát, không gian tham của người. Họ có thể lam lũ, một nắng hai sương nhưng tấm lòng họ lại thanh cao như đóa sen "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Họ vì Chúa mà đón nhận nhau trong yêu thương tha thứ, không chỉ một lần mà trải rộng mọi ngày cho đến suốt cuộc đời. Họ là những gia đình thánh gia cho thời đại hôm nay. Họ vẫn tiếp tục nêu gương sáng trong bổn phận, trong đời sống thanh cao và giầu lòng quảng đại.
Song le, giữa giòng đời hôm nay vẫn còn đó những người chồng, người cha đang bê tha rượu chè, đang ngoại tình lang chạ, đang đánh mất niềm tin với Thiên Chúa nên cũng bỏ bê gia đình. Giữa giòng đời hôm nay vẫn còn đó những người vợ đang bất tín, bất trung, đang thiếu trách nhiệm và hy sinh cho gia đình, vì họ không còn niềm tin nơi Chúa nên cũng chẳng còn hy sinh cho nhau. Giữa giòng đời hôm nay, vẫn còn đó những người con đang lao vào những danh lợi thú trần gian mà lãng quên tình Chúa nên cũng xem thường tình cha, nghĩa mẹ.
Thực vậy, nếu trong cuộc đời này không còn ai tin tưởng vào Thiên Chúa, không còn ai tin vào đời sau, có lẽ sẽ chẳng còn ai dám hy sinh cho gia đình, hy sinh cho tha nhân. Không có đời sau thì người ta sẽ sống vì mình, vì hạnh phúc của mình, vì đam mê của mình mà chà đạp người khác và thiếu trách nhiệm với tha nhân.
Nguyện xin Thánh gia nâng các gia đình đang gặp những khó khăn thử thách. Xin cho các gia đình công giáo biết noi gương thánh gia để sống hy sinh cho nhau và cùng nhau xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Amen.

11. Có một lý do.
Erma Bombeck là một nhà viết nhật ký. Bài viết của cô đã được đăng tải trên 900 tờ báo khắp nước Mỹ. Cũng giống như những nhà bình luận, cô nhận được rất nhiều lá thư của các độc giả.
Đây là đoạn trích thư của một người mẹ: "Cho dù là tòa đã phán quyết đứa con trai của tôi, nhưng tôi thì vẫn không. Nó là đứa con của tôi, làm sao mà tôi có thể phán quyết nó chứ? Tôi cầu nguyện cho nó; tôi khóc thương nó; tôi khuyến khích nó. Và trên hết, tôi yêu thương nó."
Đây là một ví dụ khác, dựa trên lá thư của một em bé 12 tuổi. Em viết: "Tôi là một bà mẹ thay thế. Khi người mẹ của tôi làm việc tại nhà hàng, thì tôi phải trông coi ba người em của tôi. Tôi phải lo vệ sinh cho chúng nó. Tôi lau nước mũi cho chúng. Tôi cho chúng ăn. Tôi đưa chúng vô giường ngủ. Tôi làm tất cả mọi việc mà người mẹ thật của tôi làm. Tuy nhiên, thay vì cám ơn tôi, các em của tôi đã ghét tôi. Một đôi lúc, tôi mong được chết đi. Tôi đã có ý định bỏ nhà ra đi, nhưng tôi không biết đi đâu và sẽ làm gì. Khi tôi lớn lên, tôi không muốn làm một người mẹ, bởi vì đó là một cái nghề tệ nhất trên trái đất này." (Based on Erma Bombeck, Motherhood: The Second Oldest Profession).
Hai ví dụ ở trên đều đưa đến một điểm giống nhau, đó là cho dù làm bậc cha mẹ hoặc làm bậc con cái trong gia đình đều không phải là dễ. Một đôi lúc, nó thật là nhức nhối.
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy rằng, cho dù là Gia Đình Thánh Gia cũng chẳng ngừa được cái đau khổ tương tự.
Thí dụ, Mẹ Maria và Thánh Giuse đã phải đau khổ khi lạc mất con. Sự đau khổ cũng không giảm bớt khi họ tìm thấy Chúa Giêsu. Mẹ Maria đã nói với Chúa Giêsu: "Con ơi, sao con lại làm cho chúng ta như thế? Kìa cha con và mẹ đây, đã đau khổ tìm con."
Chúa Giêsu trả lời: "Mà tại sao tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?"
Đó là một câu trả lời đau khổ cho câu hỏi của Mẹ Maria. Mẹ Maria đã phản ứng thế nào?
Mẹ đã không chạm trán với Chúa Giêsu, hoặc bắt Ngài phải giải thích. Mẹ chỉ đơn giản để những lời đó vào trong lòng và suy ngẫm. Phúc Âm viết: "Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói... Maria, Mẹ Người ghi nhớ những việc đó trong lòng" (Lc 2:48-51)
Một đôi lúc, giữ thinh lặng là cách duy nhất để giải quyết những cơn giận dữ. Erma Bombeck viết trong cuốn "Tình Mẹ": "Tôi cho rằng mỗi một người con đều nhớ một đức tính đặc biệt nào đó về người mẹ của mình. Đức tính đó có thể là một sự khôn ngoan cứu giúp người con khỏi cảnh nguy hiểm, hoặc là một lời nói chỉ đường để giúp người con đạt tới mục đích cách dễ dàng. Riêng tôi, tôi yêu mẹ của tôi, bởi vì trong mọi lúc bà ấy chẳng nói điều gì hết."
Để có thể giữ thinh lặng trong khi bên trong nội tâm của mình sôi sùng sục đòi hỏi rất nhiều sự tự chủ. Tuy nhiên, cũng có lúc những thinh lặng nói lớn hơn là những lời nói phát xuất từ miệng lưỡi.
Nếu vai trò của Mẹ Maria trong gia đình Thánh Gia không phải là một chuyện dễ dàng, thì vai trò của Thánh Giuse cũng chẳng thua kém gì.
Một người giảng phòng đã kết thúc bài giảng của ngài với các ông bố như sau: "Thánh Giuse là mẫu gương cho tất cả mọi người chúng ta."
Sau cuộc nói chuyện, một ông bố đã tiến lên vị giảng phòng và nói: "Với tất cả lòng tôn kính, thưa cha, trường hợp của Thánh Giuse thì khác hẳn với chúng tôi, những người bố bình thường. Thứ nhất, Ngài là một vị thánh. Thứ hai, vợ của Ngài vô nhiễm tội lỗi. Thứ ba, người Con của Ngài là Con Thiên Chúa. Tôi không phải là thánh, vợ của tôi thì tội lỗi, và con của tôi không phải là Con Thiên Chúa."
Vị giảng phòng trả lời: "Điều ông nói đúng, nhưng tôi xin thành thật hỏi ông thế này. Vợ của ông có phải là có thai trước khi đám cưới, mà ông không biết tại sao không? Hoặc là con của ông có khi nào bỏ nhà ra đi ba ngày mà ông không biết nó đi đâu không? Cả hai điều này đã xảy ra với Thánh Giuse."
Chúng ta thấy rõ, cho dù là một gia đình thánh thiện cũng không tránh khỏi sự khó khăn.
Chúng ta xin Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse phù hộ chúng ta sống thánh thiện yêu thương, noi gương Thánh Gia Nazarét.

12. Gia đình thánh thiện.
Nếu muốn tìm một gia đình hạnh phúc nhất trần gian, chắc chắn chúng ta phải tìm nơi thánh gia: Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Vậy đâu là bí quyết dẫn đến hạnh phúc ?
Tôi xin thưa:
- Đó là sự thánh thiện, bởi vì chính đoạn Tin mừng hôm nay đã đem lại cho chúng ta lời giải đáp ấy.
Thực vậy, chúng ta thường hay nghĩ rằng:
- Những con người đặc biệt thì được miễn trừ nhiều việc, kể cả việc tuân giữ lề luật.
Trái lại, bài Phúc âm hôm nay cho thấy thái độ của thánh gia là sẵn sàng vâng phục Thiên Chúa bằng cách tuân giữ những lề luật của Ngài.
Chúa Giêsu thì chịu phép cắt bì. Mẹ Maria thì chu toàn nghi lễ thanh tẩy. Còn thánh Giuse thì nộp tiền chuộc theo như lề luật đã qui định.
Và hơn thế nữa, thánh Giuse cùng với Mẹ Maria hàng năm vốn thường dẫn Chúa Giêsu lên đền thờ, đặc biệt là năm Chúa mười hai tuổi, lứa tuổi chưa bị lề luật đòi buộc. Từ đó chúng ta ghi nhận: cha mẹ đạo đức bao giờ cũng muốn giáo dục con cái mình trở thành những người đạo đức như vậy.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có thể không cần phải tuân giữ luật cắt bì và lên đền thời, bởi vì chính Ngài là đền thờ mà con người phải tôn kính. Mẹ Maria cũng chẳng cần phải chu toàn nghi lễ tẩy uế, bởi vì Mẹ được thu thai và sinh con bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, chứ không theo cách thức thông thường.
Thế nhưng, các Ngài đã tuân giữ lề luật, đã phục vụ Thiên Chúa một cách khiêm nhường trong tin yêu.
Việc dâng Chúa trong đền thờ không phải là điều luật buộc, nhưng là một sáng kiến tự nguyện của Mẹ Maria. Mẹ lợi dụng cơ hội chu toàn nghi lệ tẩy uế để dâng con mình cho Thiên Chúa.
Việc thánh Giuse cùng đi nhằm mục đích giúp đỡ hai mẹ con, bởi vì tiền chuộc có thể nộp ở bất cứ chỗ nào. Điều đó cho thấy Mẹ Maria và thánh Giuse luôn ở bên nhau để che chở cho hài nhi Giêsu, nhờ đó tạo nên một mái gia đình đầm ấm, đồng thời còn biểu lộ tinh thần trách nhiệm của những bậc làm cha làm mẹ.
Tiếp đến là những năm tháng dài tại Nagiarét. Cuộc sống của gia đình này không có gì là giàu sang, bởi vì các Ngài cũng đã phải lao động vất vả mới có được chén cơm manh áo, nhưng vẫn ngập tràn hạnh phúc, đầm ấm và thánh thiện, bởi vì giữa Mẹ Maria và thánh Giuse luôn có một chiếc gạch nối là Chúa Giêsu. Ngài chính là trọng tâm của gia đình.
Có năm chàng thanh niên sang Mỹ tìm vàng. Lúc trở về thì bốn người đã trở nên cộc cằn và hung dữ, vì ảnh hưởng của những thiếu thốn và cực nhọc đã phải gánh chịu. Riêng người thứ năm thì vẫn bình thường, vui vẻ và lạc quan. Người ta hỏi :
- Tại sao anh lại giữ vững được tinh thần như vậy ?
Anh ta trả lời :
- Sở dĩ như vậy là vì một hình ảnh tôi đã mang theo. Dĩ nhiên không phải là hình ảnh của một cô bạn gái, nhưng là hình ảnh của gia đình tôi vào buổi tối trước khi tôi lên đường. Tối hôm ấy, mọi người đã cầu nguyện và cha tôi đã chúc lành cho tôi. Chính hình ảnh này đã theo tôi trong suốt cuộc hành trình đầy gian khổ.
Noi theo mẫu gương của Thánh gia: chúng ta hãy tuân giữ lề luật của Thiên Chúa và thực tình giúp đỡ lẫn nhau để gia đình của chúng ta sẽ mãi mãi là một mái ấm ngập tràn yêu thương và hạnh phúc.

13. Gia đình
Tại những quốc gia Âu Mỹ nào chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Kitô thì ngày lễ Giáng sinh ngoài ý nghĩa tôn giáo như là ngày lễ cử hành Mầu Nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Lễ Giáng sinh còn mang ý nghĩa văn hóa xã hội nữa, như là ngày lễ của gia đình, ngày mà mọi thành phần gia đình sum họp bên nhau.
Giáo Hội đã luôn luôn nhắc nhở về mối tương quan giữa mầu nhiệm nhập thể và gia đình. Vì thế, trong chu kỳ phụng vụ luôn luôn cử hành lễ thánh gia đình Nagiarét vào Chúa nhật trong tuần bát nhật Giáng sinh. Giáo Hội muốn đặt gia đình trong ánh sáng của mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa, và gia đình đầu tiên hưởng lấy ơn của mầu nhiệm Giáng sinh là thánh gia đình Nagiarét. Con Thiên Chúa nhập thể làm người nhận lấy một thể xác để thánh hóa mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Ngài nhập thể trong một gia đình tại Nagiarét để thánh hóa thực tại đời sống gia đình.
Sự hiện diện của Chúa trong gia đình là yếu tố căn bản để liên kết mọi thành phần gia đình chung lại với nhau, để thánh hóa tình yêu con người, mặc cho tình yêu phàm trần đó một chiều kích thần thiêng được thấm nhuần trong tình yêu thần thiêng, trong tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu tự nhiên trở thành tình yêu bác ái.
Bài đọc hai trong thánh lễ của Chúa nhật trong tuần bát nhật Giáng sinh được diễn tả như là hiến chương của đời sống Gia đình Kitô: "Hãy để cho Chúa hiện diện trong gia đình. Hãy để cho Lời Chúa cư ngụ dồi dào trong anh em. Hãy đọc Lời Chúa trong gia đình".
Năm thánh 2000, các Giám mục Việt Nam trong bức thư Mục Vụ chung gởi toàn thể dân Chúa như sau: "Đối với người Việt Nam, gia đình vẫn là rường cột của Giáo Hội và xã hội. Gia đình phải là một Giáo Hội thu nhỏ, nghĩa là nơi lấy sự thật của Tin Mừng làm qui luật sống và làm quà tặng cho cộng đoàn rộng lớn hơn. Gia đình không phải chỉ là đối tượng cho Giáo Hội chăm sóc về mục vụ mà còn là một trong những tác nhân đắc dụng nhất trong công cuộc loan báo Tin Mừng".
Tông huấn đề ra các phương thế thực hiện như gia đình tham gia vào các sinh hoạt của giáo xứ, lãnh nhận các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể và Bí tích Hòa giải, dấn thân phục vụ các gia đình khác. Bậc cha mẹ phải cố gắng biến những giây phút của gia đình qui tụ bên nhau thành cơ hội để cầu nguyện, đọc và suy niệm Sách thánh.

14. Tài sản
Chúng ta mới cử hành ngày sinh của Hài Nhi Giêsu. Hôm nay, chúng ta mừng toàn thể gia đình của Ngài. Một gia đình mà Giáo Hội muốn đề cao như gương mẫu cho mọi gia đình chúng ta.
Khi nhìn vào gia đình của Chúa Giêsu này và so sánh với các gia đình hôm nay, ta có thể tự nhủ: "Ôi khác biệt quá ! Gia đình Chúa Giêsu dồi dào sức khỏe, còn các gia đình hôm nay bệnh hoạn, rất bệnh hoạn !"
Đúng vậy. Các gia đình hiện nay đang đối diện với vô số vấn đề: cha mẹ ly thân, ly dị, tái giá... Những gia đình chỉ có cha hay mẹ mà thôi... Uy tín của người cha hay người mẹ giảm sút kinh khủng... Anh hưởng bên ngoài của xã hội mạnh hơn ảnh hưởng từ chính bên trong gia đình. Giới trẻ hầu như không còn tin tưởng gì nữa... Những người trẻ rời gia đình rất sớm...
Bao nhiêu cha mẹ than vãn về tình trạng hiện nay ! Bao nhiêu người cha người mẹ thất vọng vì những gì đã xảy đến trong chính gia đình của họ. Bao nhiêu cha mẹ không còn biết phải nghĩ sao nữa ! Quá nhiều lần ta đã nghe nói: "Nếu có thể làm lại được, tôi sẽ không lập gia đình, tôi sẽ không có con, như thế tôi sẽ không phải làm việc cựu nhọc để nuôi nấng một gia đình. Thật quá vất vả, quá bạc bẽo, quá đau đớn ! Phải đổ ra biết bao nhiêu là nước mắt !"
Phải làm gì khi tình trạng xấu đi ? Khi tình trạng xấu đến thế ? Bao giờ cũng thế, vẫn có hai con đường để chọn lựa: người ta có thể buông trôi hết hoặc cố gắng chấn chỉnh mọi sự ; người ta có thể bỏ cuộc hoặc làm lại ; người ta có thể chiều theo tính thờ ơ và vỡ mộng chán chường hoặc lăn xả vào việc tái thiết ; người ta có thể để cho tình hình xuống cấp hơn nữa hoặc tự trang bị bằng lòng can đảm để làm cho tình hình biến chuyển khá hơn.
Hai con đường để lựa chọn, nhưng lẽ ra chúng ta không nên mất thì giờ để xét xem phải chọn con đường nào. Chỉ có một giải pháp có giá trị thôi: đó là quyết tâm chữa trị gia đình khỏi bệnh tật, dù khó khăn trắc trở vẫn không ngừng nỗ lực làm cho gia đình trở thành nơi chốn mà người ta học biết làm người có trách nhiệm ; nơi mà người ta tập nhận ra sự tự lập và giá trị của kẻ khác ; nơi mà người ta được rèn luyện để biết sống tập thể, biết kính trọng và yêu thương kẻ khác, biết giúp đỡ lẫn nhau và chia sẻ bản thân mình, cùng với những gì mình có và những gì mình sống.
Để đào tạo con người về tất cả những điều này, người ta chưa tìm ra được môi trường nào tốt hơn gia đình và người ta sẽ chẳng bao giờ tìm ra được nơi nào tốt hơn. Gần đây, Đức Gioan Phaolô II đã viết: "Hôn nhân và gia đình là một trong những tài sản quí báu nhất của nhân loại" (Tông thư Familiaris consortio, số 1). Người ta không thể để cho tiêu tan một trong những tài sản quí báu nhất của nhân loại, người ta phải làm đủ cách để bảo vệ nó. Nếu nó ốm đau, người ta phải tìm mọi phương dược để chữa lành nó.
Từ miệng một linh mục, một người độc thân, những khẳng định này có thể làm cho một số người mỉm cười hay làm thất vọng một số người khác. Họ sẽ nói: "Nếu ngài biết ! Nếu ngài đã từng trải qua cuộc sống gia đình, ngài sẽ nói khác". Tuy nhiên, những lời mời gọi của linh mục là những lời mời gọi của Giáo Hội, là tiếng vọng lại từ chính những lời kêu gọi của Thiên Chúa. Theo kế hoạch của Ngài thì người nam và người nữ kết hợp với nhau, có con cái, mang trách nhiệm về gia đình mà họ cố gắng làm cho nên giống gia đình của thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
Để làm điều đó không phải là không đau đớn, không vất vả, không gặp khó khăn trầm trọng. Đoạn Tin mừng được loan báo hôm nay mang đầy ý nghĩa về điểm này. Mẹ Maria và thánh Giuse lo lắng đau khổ: "Con ơi tại sao con làm cho cha mẹ như vậy ? Con xem, cha mẹ đã phải đau đớn tìm kiếm con..." Có biết bao nhiêu cha mẹ phải thốt lên những lời tương tự như thế.
Tuy nhiên Mẹ Maria và thánh Giuse không nản lòng. Biết rằng cuộc sống gia đình sẽ vất vả, các Ngài vẫn tiếp tục thương yêu và sống trước nhan Thiên Chúa bằng cách chu toàn tốt nhất những gì Chúa chờ đợi nơi các Ngài. Nơi điều này, các Ngài là gương mẫu của tất cả mọi cha mẹ trên thế giới. Và quá hiển nhiên, Chúa Giêsu con của các Ngài là gương mẫu cho tất cả các con cái trên thế giới.

15. Thánh Gia
Chỉ cách đây mấy ngày, chúng ta đã mừng sinh nhật của Chúa Giêsu Kitô, hang đá vẽ cho chúng ta một cảnh gia đình đầm ấm của Thánh Gia với tượng Chúa Giêsu đặt ở giữa. Lễ Thánh Gia hôm nay giúp chúng ta đào sâu thêm một điểm nòng cốt khác của gia đình, để gia đình Kitô có thể thực sự là một tổ ấm, mà trong đó mọi phần tử trong gia đình luôn giúp nhau tìm kiếm và thực hành thánh ý Chúa.
Ước gì thánh lễ hôm nay giúp mọi thành phầm trong gia đình Kitô ý thức, đóng góp cho xã hội trong việc cố gắng sống trọn bí tích hôn nhnâ để chung tay xây dựng một mái ấm gia đình hạnh phúc theo mẫu gương của Thánh Gia Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Bởi lẽ gia đình có hạnh phúc thì xã hội mới an vui phồn thịnh.
Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn để lắng nghe và được nuôi dưỡng bởi Lời và bởi Mình Máu Thánh Chúa bằng cách nhìn nhận những lỗi lầm chúng ta đã vấp phạm trong những ngày qua, nhất là những lỗi lầm đối với cha mẹ, vợ chồng và anh chị em trong gia đình.
Trong những ngày lễ Giáng sinh linh thiêng vừa qua, thiết nghĩ mỗi người trong chúng ta đã một lần đến quì trước máng cỏ để nhìn ngắm Chúa Giêsu Hài đồng, được tình yêu của Đức Maria và thánh Giuse âu yếm bảo bọc, nâng niu, cộng với khung cảnh tuy đơn sơ nghèo nàn nhưng an bình thư thái của những gia súc, chiên, bò, lừa quây quần bên máng cỏ, chúng ta dễ dàng để ý tưởng tượng vẽ ra hình ảnh gia đình đầm ấm, trên dưới thuận hòa, mọi người yêu thương đùm bọc, hy sinh nâng đỡ nhau.
Nhưng bài Phúc âm dành cho lễ Thánh Gia hôm nay có lẽ dẫn chúng ta ra khỏi bầu khí ấm cúng của tổ ấm gia đình để trở về với thực tế của những sinh hoạt hằng ngày, nơi cả trong gia đình cũng có thể xảy ra những mâu thuẫn, những vấn đề, những hiểu lầm, những ngày tháng dường như cha mẹ con cái lạc mất nhau.
Thực tế nhiều khi phũ phàng nhưng nó vẫn là sự thật. Sự thật của cuộc sống ngày hôm nay là gia đình dễ dàng gặp những cơn khủng hoảng, đời sống kinh tế của hầu hết các gia đình chúng ta ngày nay đều khó khăn, sinh hoạt trong xã hội ngày nay tăng vận tốc, bắt mọi người ai nấy phải sống hối hả, sống vội vàng. Và vì kế sinh nhai khó khăn vất vả, theo họ dầu muốn dầu không cũng thiếu thốn vật chất và tinh thần để giáo dục con cái cũng trở nên trong những việc xa xỉ phẩm. Cộng vào đấy là sự đánh mất những giá trị cổ truyền trong gia đình, thí dụ như lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, sự kính trên nhường dưới giữa anh chị em, tinh thần hy sinh, nhịn nhục... đã bị các trào lưu tân tiến và nhất là đã bị ý thức hệ phủ nhận, những nền tảng gia đình bị phá vỡ mà không đề ra những giá trị mới thay thế vào.
Trên bình diện của niềm tin, nền tảng của gia đình cũng bị lung lay tận gốc rễ, vì thiếu đất đai màu mỡ của một đức tin có chiều sâu, thiếu phân bón của buổi đọc kinh chung trong gia đình, thiếu cả nước với những cố gắng sống với thực tại và những bổn phận do các Bí tích Thanh tẩy, Thêm sức và nhất là bí tích Hôn phối đòi hỏi. Đó là một trong những khó khăn mà các gia đình Kitô giáo Việt Nam ngày nay đang chạm trán.
Lễ Thánh Gia thất hôm nay mời gọi mọi người, mời gọi bạn và tôi đặt câu vấn nạn: "Có phải gia đình chúng ta lạc mất Chúa Giêsu rồi không ?", đồng thời lễ Thánh Gia thất hôm nay cũng mời gọi mọi người, mời gọi bạn và tôi noi gương và nối gót Đức Maria và thánh Giuse lên đường tìm lại Chúa. Chúng ta phải ý thức rằng: đây không phải là một con đường bằng phẳng dễ đi, vì hai Ngài đã phải trải qua những giây phút hớt hả tìm kiếm, trải qua những đêm trằn trọc mất ngủ, trải qua những lo lắng bồn chồn để khi gặp lại Con phải nghe câu trả lời khó hiểu: "Tại sao cha mẹ lại tìm Con. Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con sao ?".
Đức Maria là người đã ghi nhớ những việc đó trong lòng, chắc hẳn đã phải dần dần tìm hiểu ý nghĩa câu trả lời của Chúa Giêsu trong suốt khoảng thời gian ẩn dật của Chúa, để cuối cùng dưới chân thập giá mới hiểu nòng cốt của niềm tin Kitô, nòng cốt của người Kitô là tìm hiểu sống trọn thánh ý Thiên Chúa, và nòng cốt của gia đình Kitô là giúp nhau tìm hiểu và thực hành thánh ý của Ngài.

16. Suy niệm
Đây là lời phê bình ngắn gọn về các bài đọc trong ngày lễ này: Bài đọc 1: Samuen là một đứa trẻ rất đặc biệt. Bà Anna nhìn thấy con trai mình như là một ân sủng đến từ Thiên Chúa, một dấu hiệu về đặc ân mà Thiên Chúa dành cho bà. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên, khi bà dâng hiến con trai bà cho Chúa. Đến kỳ hạn, Samuen tự mình thực hiện việc hiến thân đó, và tiếp tục đóng vai trò chính yếu trong lịch sử Israen.
Thật vậy, mỗi đứa trẻ đều là quà tặng của Thiên Chúa. Tất cả các bậc cha mẹ đều có hy vọng và mơ ước cho con cái của họ. Nhưng cha mẹ không thể xác định được tương lai của con cái. Con cái phải tìm kiếm con đường của bản thân chúng. Ngoài ra, có thể Thiên Chúa có những kế hoạch khác dành cho chúng ta, trái ngược với kế hoạch của các bậc cha mẹ.
Tin Mừng: Bài đọc này kể lại câu chuyện về con trẻ Giêsu 12 tuổi tại Giêrusalem. Bài đọc này cho thấy rằng sự hiểu lầm vẫn có thể xảy ra, ngay cả trong những gia đình tốt lành nhất. Chúng ta có khuynh hướng cho rằng Chúa Giêsu bị thất lạc tại Đền thờ. Nhưng Chúa Giêsu không bị thất lạc tại Đền thờ. Nói đúng hơn, Người ở nhà của Người tại đó. Chính tại nơi đó, Người bắt đầu tìm kiếm bản thân, và phát hiện được căn tính đích thực của mình. Người không chỉ là con của Đức Maria, mà còn là Con duy nhất của Thiên Chúa nữa.
Những tâm hồn cô đơn, lạc lõng, không nhà đã đến với nhà của Thiên Chúa, hầu như do tình cờ, họ đã đến đây, cảm thấy nơi đó như ở nhà mình, tìm được sự bình an và gặp được chính bản thân mình tại đó. Bất kể thế giới có thể nghĩ gì về chúng ta, khi ở trong nhà của Thiên Chúa, chúng ta biết rằng mình là những người con trai và con gái của Thiên Chúa.
Bài đọc 2: Chúa Giêsu có căn tính kép, Người vừa là con của Đức Maria, và cũng vừa là Con của Thiên Chúa. Chúng ta cũng có căn tính kép. Chúng ta không chỉ là con của cha mẹ chúng ta, mà còn là con cái của Thiên Chúa nữa. Thánh Gioan nói rất rõ ràng về điều này. Chúng ta thuộc về gia đình của Thiên Chúa.
Chính Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước. Chúng ta không cần phải làm gì, để đạt được tình yêu của Thiên Chúa. Chính bản thân chúng ta đã đủ để Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Chính sự hiện hữu của chúng ta là một dấu hiệu về tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Con cái đáp ứng lại tình yêu của cha mẹ bằng cách vâng lời cha mẹ. Cách chúng ta đáp ứng lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta, là tuân theo những huấn lệnh của Người, đặc biệt là giới răn yêu thương.
Trong sự kiện Chúa Giêsu bị thất lạc và tìm thấy ở Đền thờ, chúng ta nhận ra được tình yêu thương mà Đức Maria và thánh Giuse dành cho Chúa Giêsu. Sau đó, Người trở về nhà Nagiarét cùng với các ngài và vâng lời các ngài.
Mái nhà là một nơi mà trong đó, chúng ta được chấp nhận như là chính con người của mình, với những mặt mạnh và mặt yếu của chúng ta. Sự chấp nhận theo kiểu này giúp chúng ta có được khả năng để phát triển, với tư cách là con người nhân loại và là con cái Thiên Chúa.
Trong bài tường thuật của thánh Luca về thời thơ ấu của Chúa Giêsu, Đức Maria là người duy nhất sẽ hiện diện trong sứ vụ công khai của Người, và cho đến tận lúc bắt đầu có Giáo Hội. Mẹ được giới thiệu cho chúng ta như là gương mẫu của người Kitô hữu.

17. Noi gương.
Ngày hôm nay chúng ta cùng họp nhau đây mừng kính lễ Thánh Gia. Vậy các em có hiểu chữ Thánh Gia là gì không? Nghĩa là gia đình thánh. Vậy gia đình thánh gồm bao nhiêu người ? Có ba người: Thánh Giuse, Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Gia đình thánh có thương yêu nhau không ? Chắc chắn là có rồi. Các em vừa nghe Tin Mừng kể gì về gia đình thánh này? Có phải là các ngài hành hương lên đền thờ Giêrusalem, rồi khi trở về thì lạc mất Chúa, khiến thánh Giuse và Đức Mẹ phải chạy ngược chạy xuôi tìm kiếm đến ba ngày mới thấy. Thế rồi khi gặp được Chúa Giêsu, Đức Mẹ chỉ hỏi: tại sao con làm cho cha mẹ phải lo lắng kiếm tìm ? Và sau đó, các ngài trở về Nagiarét chứ không hề thấy Tin mừng nói thánh Giuse và Đức Mẹ la mắng Chúa Giêsu phải không ?
Chắc hẳn các em nói rằng: nếu chúng mình mà như vậy thế nào cũng bị ba mẹ đánh đòn, hay ít ra cũng bị mắng cho một trận nên thân. Chúa Giêsu thật sướng, cha mẹ Ngài hiền quá và thương Ngài quá. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy ba mẹ chúng ta cũng rất hiền và cũng rất thương chúng ta. Có cha mẹ nào mà chẳng thương đứa con mình đã sinh ra và nuôi lớn với biết bao vất vả nhọc nhằn: Suốt cả cuộc đời mỗi người chúng ta từ khi sinh ra cho đến khi lớn khôn, lúc nào cũng được cha mẹ yêu thương, ân cần chăm sóc, dạy dỗ. Có ai trong chúng ta không được hưởng những lời ru êm ái của mẹ đâu: Dù ta đi trọn kiếp người, cũng không đi hết những lời mẹ ru. Ngoài mẹ ra, chúng ta còn có ba nữa. Và với ba thì có lẽ còn vui hơn: ba làm tàu lửa, ba làm xe hơi, ba làm con ngựa để con cưỡi con chơi...Ít có người con nào lại không có niềm vui được cha cõng trên vai, tay chân nhún nhảy...Các em thấy đó, ba mẹ là lá chắn che chở suốt đời cho con.
Vậy tại sao thỉnh thoảng ba mẹ cứ phải la rầy, có khi còn đánh mắng chúng ta nữa ? Những lúc áy ba mẹ có còn thương chúng ta không ? Chắc chắn là còn chứ. Các em thử nghĩ coi: một đứa trẻ hay gây gỗ, phá phách có được ai thương mến không ? Không. Một em học sinh lười, có được thầy cô và bạn bè thương mến không ? Cũng không luôn...Như vậy là vì không muốn chúng ta bị mọi người ghét bỏ mà ba mẹ phải la rầy. Không muốn chúng ta bị bệnh, bị tai nạn mà ba mẹ phải đánh đòn để chúng ta biết sửa lỗi...
Còn về Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay, tại sao không bị thánh Giuse và Đức Mẹ la mắng ? Thứ nhất vì các ngài tìm được Chúa Giêsu trong đền thờ, như vậy là Chúa Giêsu rất ngoan, rất vâng lời. Ngài không chạy chơi ngoài đường như chúng ta. Thứ hai vì khi được hỏi Chúa Giêsu không hề chối quanh để chạy tội, nhưng Ngài nhận ngay: Con ở lại để lo việc của Cha Con, tức là việc của Chúa Cha. Như vậy Chúa Giêsu rất thật thà và đạo đức. Thứ ba vì khi tìm được Chúa Giêsu, các ngài thấy Chúa đang ngồi nghe và hỏi các thầy Rabbi. Như vậy Chúa Giêsu cũng rất chăm học phải không ?
Các em thấy: một đứa trẻ vâng lời, thật thà, đạo đức và chăm học như vậy thì chẳng có lý do gì để cha mẹ phải la mắng cả. Vậy nếu các em muốn ba mẹ mình luôn hiền lành dịu dàng như thánh Giuse và Đức Mẹ, thì các em cũng phải luôn cố gắng sống ngoan ngoãn như Chúa Giêsu.

18. Mẫu gương gia đình hạnh phúc.
"Phúc thay người ở trong thánh điện họ luôn luôn được hát mừng Ngài" (Tv 84,5)
Hôm nay chúng ta mừng lễ Thánh Gia, chúng ta cảm thấy thật hạnh phúc khi được sống dưới sự bảo trợ của Thánh Gia. Xét về phương diện quyền thế, không ai sánh được với ba Đấng. Chúa Giêsu chính là "Thiên Chúa ở cùng chúng tôi". Ngài là 'hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử giữa mọi thụ sinh, vì trong Ngài vạn vật đã được tạo thành...' Ngài có ưu thắng trên mọi sự, và mọi sự tồn tại nơi Ngài. Và Ngài là đầu của Thân Mình tức là Hội Thánh. Ngài là khởi nguyên, là trưởng tử giữa các vong nhân, ngõ hầu trong mọi sự Ngài là đệ nhất vô song... Và Ngài đã giảng hoà cả vạn vật nhờ Ngài và cho Ngài, đã ban lại bình an nhờ Bửu Huyết đổ ra nơi Thập Giá, cho mọi vật trên trời, dưới đất (Cl 1,15-20). Bản văn này gợi lên trong chúng ta niềm hân hoan tin tưởng, bởi vì Đấng bảo trợ chúng ta là Thiên Chúa, là Vua vũ trụ, mọi quyền trên trời, dưới đất đều ở trong tay Ngài. Chính Ngài nắm trong tay chìa khoá tử thần và âm phủ. Chính Ngài là Đấng ngự bên hữu Chúa Cha để cầu bầu cho chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài còn là nguồn mạch sự sống, Ngài đã đến để ta được sống và sống dồi dào (Ga 1,4; 14,5)
Đức Maria chính là Mẹ Thiên Chúa, là Nữ Vương các thiên thần và các thánh, nhưng đồng thời Người cũng là Mẹ nhân loại, là Mẹ của từng người chúng ta. Người chính là tình yêu xả kỷ, hy sinh, thương xót và tha thứ. Sống bên Người bao giờ chúng ta cũng tìm được ơn nghĩa cùng Chúa, vì theo lời thánh Bênađô: 'tất cả mọi ơn lành đến với chúng ta đều qua tay Đức Maria'.
Còn thánh Giuse là người đã được nhìn tận mắt, sờ tận tay Đấng mà các tổ phụ và các tiên tri hằng mong đợi. Hơn nữa, trước mặt Thiên Chúa và nhân loại, công lao của Ngài thật vĩ đại, vì chính Ngài đã tận tâm bảo vệ, nuôi dưỡng Chúa Giêsu là của lễ hy sinh đền tội thế gian và là Bánh nuôi sống linh hồn tín hữu cho đến ngày tận thế.
Dĩ nhiên chúng ta nhận Thánh Gia làm bổn mạng là để cậy nhờ, nhưng nhất là để noi gương, như mẫu mực cho đời sống chúng ta.
Gia đình là tế bào nền tảng của xã hội. Tội đã nhập vào gia đình thứ nhất và phá hoại nhân loại. Thiên Chúa muốn cải tạo xã hội nhân loại khi phái Con Một Ngài đến trong một gia đình nhân loại. Nagiarét là trường học lý tưởng cho mọi gia đình. Ở đó có mọi nhân đức cao quý của đời sống gia đình: cả ba đều hoàn toàn trinh khiết, cả ba đều cao trọng nhưng lại tuyệt đối khiêm tốn và vâng phục, bởi vì cả ba đều tìm thánh ý Thiên Chúa.
Nagiarét cũng là trường học của đức bác ái. Vì trong đó cả ba đều quên mình để nghĩ đến người khác, tận tuỵ phục vụ người khác. Thánh Giuse âm thầm làm việc không quản nhọc nhằn, Đức Maria chăm lo việc nội trợ, Chúa Giêsu ngoan ngoãn vâng phục và san sẻ vất vả với cha mẹ.
Cũng tại Nagiarét chúng ta tìm lại được giá trị siêu việt của lao động, đó là giá trị cứu rỗi. Những giọt mồ hôi của Chúa trong nhà Nagiarét không hề kém giá trị cứu rỗi hơn việc rao giảng Tin Mừng hay cuộc tử nạn của Ngài, vì trong mọi sự Ngài đều tìm đẹp lòng Thiên Chúa.
Chúng ta cũng có thể và phải tham gia công cuộc cứu rỗi nhân loại bằng chính đời sống chúng ta, trong việc thực thi thánh ý Thiên Chúa, trong sự dấn thân phục vụ, trong cầu nguyện âm thầm và hy sinh. Sống được như thế chắc chắn chúng ta sẽ đạt tới hạnh phúc chân thật.

19. Mái ấm tình thương
Thầy Mạnh Tử, thuở nhỏ, nhà ở gần nghĩa địa, thấy người đào, chôn, lăn, khóc, về nhà cũng bắt chước đào, chôn, lăn, khóc. Bà mẹ thấy thế, nói: "Chỗ này không phải chỗ con ta ở". Rồi dọn nhà ra gần chợ.
Thầy Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người buôn bán điên đảo, về nhà cũng bắt chước cách buôn bán đảo điên. Bà mẹ thấy thế, lại nói: "Chỗ này cũng không phải chỗ con ta ở". Bèn dọn nhà đến ở cạnh trường học.
Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau học tập lễ phép, về nhà cũng bắt chước học tập lễ phép. Bấy giờ bà mẹ mới vui lòng nói: "Chỗ này là chỗ con ta ở"
Một hôm, thầy Mạnh Tử thấy nhà hàng xóm giết heo, về nhà hỏi mẹ: "Người ta giết heo làm gì thế?" Bà mẹ nói đùa: "Để cho con ăn đấy". Nói xong, bà nghĩ lại, hối hận: "Ta nói lỡ rồi. Con ta thơ ấu, tri thức mới mở mang mà ta nói dối nó, thì chẳng ra ta dạy nó nói dối hay sao?". Rồi bà đi mua thịt heo, đem về cho con ăn thật.
Lại một hôm thầy Mạnh Tử đang đi học, bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt cửi; trông thấy, liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung, mà nói rằng: "Con đang đi học, mà bỏ học, thì cũng như mẹ đang dệt tấm vải này mà cắt đứt như vậy". Từ ngày đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần. Về sau thành một bậc đại hiền. Thế chẳng là nhờ công giáo dục quý báu của bà mẹ hay sao?
Thánh Gia là mẫu gương giáo dục tuyệt vời cho các gia đình cũng như cho các cộng đồng tu viện. Thánh Gia là trường huấn luyện cho Chúa Giêsu, chuẩn bị ngày lãnh nhận sứ mạng Chúa Cha trao phó.
Thánh Gia là chuẩn mực chính xác nhất cho các người cha, người mẹ và con cái trong gia đình.
Thánh Giuse đích thực là một người cha: sáng ngời trong đức tin mạnh mẽ, nêu cao niềm phó thác cậy trông và tận tình chăm lo cho trẻ Giêsu cùng Mẹ Maria. Người làm chủ gia đình với tinh thần trách nhiệm cao và siêng năng cần cù lao động, trong làng quê nghèo Nagiarét.
Maria chính là người mẹ: Gương mẫu trong đời sống nội tâm, và sâu lắng trong tâm tình cầu nguyện. Mẹ chính là người nội trợ đảm đang, chu toàn công việc gia đình, và chăm sóc dạy dỗ con trẻ Giêsu.
Chúa Giêsu là người con thảo hiếu: "Hằng vâng phục cha mẹ" Giuse và Maria, lớn lên mỗi ngày trong sự khôn ngoan và nhân đức, nhất là luôn lo việc "bổn phận ở nhà Cha".
Gia đình là nền tảng của xã hội: Gia đình có thuận hoà, thì xã hội mới an vui. Lễ Thánh Gia chính là lễ của mọi gia đình. Noi gương Thánh Gia, các gia đình chúng ta luôn sống có trật tự trên dưới, liên đới trong tình hiệp thông, và chăm lo cho nhau trong tình yêu thương đầm ấm.
Con Thiên Chúa chỉ ra giảng đạo có ba năm, nhưng đã phải chuẩn bị ở mái trường Nagiarét suốt ba mươi năm. Nagiarét là trường dạy cầu nguyện, dạy lao động, dạy yêu thương. Nagiarét là một vùng quê nghèo hẻo lánh, nhưng lại mang một mái ấm tình thương. Mái ấm Nagiarét rất đỗi bình thường, nhưng cũng rất khác thường.
Một mái ấm luôn chan hoà bầu khí yêu thương và đạo hạnh.
Một mái ấm luôn ngập tràn tiếng cười vui vì hạnh phúc.
Một mái ấm mà các thành viên luôn để ý quan tâm cho nhau.
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia đình, trước tiên phải có Chúa hiện diện.
Mái ấm Nagiarét luôn hạnh phúc vì lúc nào cũng có Chúa ở giữa thánh Giuse và Đức Maria. Nếu mỗi gia đình chúng ta đều mời được Chúa đến ở trong gia đình, thì chính Người sẽ là dây liên kết để chúng ta yêu thương nhau, là sức mạnh để chúng ta vượt thắng mọi sóng gió, là mẫu gương để chúng ta nhẫn nhịn và tha thứ cho nhau.
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia đình, mỗi người chúng ta cũng hãy sống cho đúng cương vị của mình là cha, là mẹ, là chồng, là vợ, là con cái. Thánh Phaolô khuyên: "Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng" (Cl 3,18-21).
Lạy Chúa, là nguồn mọi tình yêu, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con tấm gương Thánh Gia, làm khuôn mẫu cho mọi quan hệ giữa vợ với chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia đình, và giữa cộng đoàn tu viện với nhau.

20. Bí quyết hạnh phúc gia đình
Khi còn sống, trong một cuộc phỏng vấn dành cho đài BBC, công chúa Diana của Anh quốc đã không ngần ngại bộc bạch hết câu chuyện đổ vỡ của gia đình bà. Sự đổ vỡ của gia đình vương giả này khiến nhiều người phải tiếc xót. Bởi vì, nếu xét theo những tiêu chuẩn thông thường, thì quả thực cặp vợ chồng này có mọi sự để được hạnh phúc, như danh vọng, tiền tài, địa vị. Thế nhưng tại sao họ không tìm được hạnh phúc trong gia đình? Đâu là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ này? Có lẽ họ còn thiếu một cái gì đó mà sự giàu sang phú quý không thể mua được cũng như khiến họ không thể vượt qua được khó khăn thử thách.
Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm Thánh Gia để múc lấy bí quyết hạnh phúc gia đình. Cũng như bao gia đình khác, Thánh Gia cũng đã trải qua nhiều sóng gió, thử thách. Chúng ta hãy nhìn lại cảnh bối rối mà có lẽ ít có đôi vợ chồng trẻ nào phải trải qua: vợ sắp sinh đi tìm một quán trọ để qua đêm nhưng không có, cuối cùng phải vào một chuồng súc vật và sinh con ở đó, và rồi sau đó đã phải vội vã đi lánh nạn trong một cuộc hành trình cam go và sống giữa những người xa lạ. Bí quyết đã giúp Đức Maria và thánh Giuse vượt qua khó khăn thử thách, đó là có Chúa Giêsu bên cạnh. Sự hiện diện của Chúa Giêsu chính là nền tảng của gia đình Nagiarét.
Cũng như Thánh Gia, ngày nay các gia đình Việt Nam cũng đang trải qua bao khó khăn thử thách. Trước tiên là cái nghèo và rồi từ nghèo khổ sinh ra dốt nát, dốt nát kéo theo bao hệ lụy khác. Tuy nhiên, nhìn vào gương Thánh Gia, chúng ta thấy rằng nghèo khổ không đương nhiên gây nên bất hạnh và đổ vỡ cho gia đình. Tỷ lệ những đổ vỡ của các gia đình tại các nước công nghiệp tiên tiến là bằng chứng cho thấy giầu có chưa hẳn đã là một bảo đảm cho hạnh phúc gia đình.
Không những trải qua cảnh nghèo, Thánh Gia còn phải đương đầu với bạo chúa Hêrôđê nữa. Ngày nay, các gia đình cũng phải đương đầu với nhiều thứ bạo chúa, như các phương tiện truyền thông quảng bá lối sống đồi phong bại tục nhằm lung lạc và đầu độc giới trẻ, hoặc những luật pháp áp đặt những luật lệ nhằm phá đổ chính nền tảng thánh thiêng của gia đình, chẳng hạn luật cho phép phá thai, ly dị...
Thánh Gia đã vượt qua được sóng gió nhờ niềm tin vững chắc vào sự hiện diện của Chúa trong gia đình. Đó cũng là bí quyết mà Giáo Hội đề ra cho chúng ta khi mời gọi chúng ta chiêm ngắm Thánh Gia. Lấy sự hiện diện của Chúa Giêsu làm nền tảng vững chắc cho gia đình chính là mặc lấy tâm tình từ bi, nhân hậu, tha thứ cho nhau; lấy sự hiện diện của Chúa Giêsu làm nền tảng vững chắc cho gia đình chính là lấy sự cầu nguyện trong gia đình làm mối giây liên kết mọi người: một gia đình cầu nguyện chung với nhau là một gia đình đứng vững, và đó là điều chúng ta phải cầu xin cho nhau.

21. Kiểu mẫu của mọi gia đình
Trong sứ điệp Giáng Sinh gửi toàn thế giới, Đức Gioan Phaolô II nêu cao: Con Thiên Chúa đã chọn lựa đi vào trần gian trong một gia đình là gia đình Nagiarét. Trong mùa Giáng Sinh, đôi mắt chúng ta vui mừng khi chiêm ngắm mầu nhiệm Thánh Gia, cũng như trẻ em hân hoan khi nhìn về máng cỏ và nhận ra nơi đó một kiểu mẫu cho gia đình chúng.
Gia đình Nagiarét quả là kiểu mẫu của mọi gia đình. Chúa Giêsu đã có một khung cảnh thích hợp để trưởng thành, Ngài đã được nuôi dưỡng và giáo dục bởi hai vị thánh là Đức Maria và thánh Giuse. Nói như thế không có nghĩa là gia đình này không có vấn đề. Chúa Giêsu đã không được sinh ra trong những điều kiện bình thường, cha mẹ Ngài đã phải đi gõ cửa từng quán trọ; không bao lâu sau ngày Chúa Giêsu sinh ra, cả ba lại phải lên đường trốn sang Ai cập; mười hai tuổi Ngài lạc mất trong Đền thờ; cuối cùng thảm thương nhất đối với gia đình này hẳn phải là cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá.
Cũng như mọi gia đình trên trần thế này, Thánh Gia đã phải trải qua nhiều vấn đề. Tuy nhiên Thánh Gia là một gia đình đặc biệt. Ngày nay các nhà xã hội học đưa ra một lý do giải thích: Đây là một gia đình Do thái. Quả thế tại Mỹ cũng như tại hầu hết các nước thế giới, gia đình Do thái là gia đình trong đó mức phạm pháp của vị thành niên được coi là thấp nhất. Nhưng đâu là chìa khoá giải thích sự kiện này? Thưa chính là niềm tin. Các trẻ em Do thái luôn nhìn vào người cha như một đại diện của Chúa, người cha chúc lành cho con cái. Lớn lên, con cái có thể chê trách người cha của họ về nhiều thiếu sót, nhưng không bao giờ chối bỏ vai trò đại diện Chúa của người cha.
Có bao nhiêu người cha Công Giáo đóng trọn vai trò trong gia đình như thánh Giuse đã từng làm đối với Chúa Giêsu? Có bao nhiêu người cha Công Giáo chủ toạ các buổi cầu nguyện trong gia đình? Có bao nhiêu người cha chúc lành cho con cái trước khi chúng đi ngủ? Có biết bao người cha hy sinh cho gia đình, cho con cái, nhưng họ chỉ là những bóng mờ trong gia đình. Trái lại, nơi nào người cha đóng trọn vai trò trong gia đình, thì quả thực niềm vui trong gia đình đó lớn lao chừng nào. Chúng ta có thể nói đó là bí quyết của Thánh Gia: tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa như người cha trong gia đình.
Lời Chúa Giêsu nói với cha mẹ Ngài đáng cho chúng ta suy nghĩ: "Cha mẹ không biết là con phải ở trong nhà cha con sao?". Được ở trong nhà cha, luôn cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa trong gia đình, đó là bí quyết hạnh phúc gia đình mà Chúa Giêsu muốn chỉ cho mọi gia đình. Thật thế, chỉ trong niềm tin, con người mới có thể vượt qua được mọi khó khăn thử thách trong đời sống gia đình; chỉ trong niềm tin vào Thiên Chúa là Cha, nói như thánh Phaolô, con người mới có thể sống hiền lành, khiêm nhường, chịu đựng lẫn nhau.
Chúng ta hãy hướng về Nagiarét, nơi Chúa Giêsu đã từng lớn lên như một con người biết vâng phục cha mẹ và càng khôn lớn thì càng được Thiên Chúa và người đời thương mến. Sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với cha mẹ Ngài là một thể hiện của chính sự vâng phục của Ngài đối với Chúa Cha: Ngài đã vâng phục và vâng lời cho đến chết. Đó là bí quyết của đời sống gia đình mà Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại: Ngài luôn sống kết hiệp với Chúa Cha. Chính sự kết hiệp này đã giúp Chúa Giêsu sống vâng phục cha mẹ Ngài, và chính ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong con người Chúa Giêsu đã giúp cho Đức Maria và thánh Giuse vượt qua được bao khó khăn của cuộc sống gia đình.
Chúng ta cầu xin gì trước Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, nếu không phải là niềm tin, một niềm tin vào sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa, nhờ đó chúng ta có thể thắng vượt mọi cám dỗ thử thách trong cuộc sống.

22. Lễ Thánh Gia

Câu Kinh Thánh: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha Con sao?” Chính là câu nói mà Chúa Giêsu đã trả lời cho Đức Mẹ và Thánh Giuse khi tìm được Ngài. Thú thật khi còn bé tôi không thể hiểu được tại sao Đức Giêsu lại nói vậy, có rất nhiều câu nói dễ nghe hơn sao Ngài lại không nói. Cho đến ngày hôm nay tôi mới hiều và càng khâm phục hơn về lời nói rất thâm sâu và co ý nghĩa về sự vâng phục phục tuyệt đối của Đức Giêsu. Thật hay là lúc đó Đức Mẹ và thánh Giuse cũng không hiểu nhưng các ngài cũng không tỏ ra giận, hay khó chịu, mà chấp nhận theo ý con một cách vui lòng. Do đó để hiểu rõ về ý nghĩa của ngày lễ Thánh Gia hôm nay chúng ta hãy nhìn lại hoàn cảnh và tâm tình khi Đức Giêsu lên 12 tuổi.
Vào năm đó Đức Giêsu cũng như các gia đình Do thái khác cùng nhau lên Giêrusalem để mừng lễ vượt qua. Khi trở về được một ngày đàng, Đức Mẹ và thánh Giuse mới biết mình đã lạc mất Chúa Giêsu. Hai ông bà lo buồn trở lại Giêrusalem tìm suốt ba ngày trường mới thấy Đức Giêsu trong đền thánh, Ngài đang cắt nghĩa Kinh Thánh cho những nhà thông luật. Khi gặp Ngài Đức Mẹ nói: “Này con, sao làm như vậy?” Hẳn là câu nói đó như có phần khiển trách. Chúa Giêsu trả lời lại hơi có vẻ ngạc nhiên và che dấu một sự trách cứ nhẹ nhàng. Cha mẹ tìm con làm chi, cha mẹ không biết rằng con không như các trẻ con khác, nhưng con phải ở nhà Cha Con để làm tròn thánh ý Người ư? Làm tròn thánh ý Thiên Chúa đây không chỉ là giảng dạy cho các thầy thông luật, nhưng cũng là sửa soạn cho Đức Mẹ và Thánh Giuse quen chấp nhận hy sinh về tình cảm tự nhiên để chấp nhận sứ mệnh mà Thiên Chúa sẽ trao phó đòi hỏi một sự can đảm và hy sinh. Lúc đầu hai ông bà hơi bỡ ngỡ, nhưng dần dần các ngài nhờ đức tin và sự suy ngắm, nhận biết Chúa Giêsu thật ra không thuộc về mình, vì thế từ lúc này về sau các ngài thêm lòng hy sinh, sẵn sàng chịu sự chia ly với Ngài hơn.
Là cha mẹ Công Giáo chúng ta có sẵn sàng hy tình cảm và lợi lộc đời này để cho con cái chúng ta dâng mình theo tiếng gọi của Chúa làm linh mục, tu sĩ không? Gương Đức Mẹ và thánh Giuse thật là mậu gương cho mọi người chúng ta noi theo. Qua bài Tin Mừng, ta thấy không những Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha, sẵn sàng hy sinh tình cảm gia đình để thánh hóa các thành viên trong gia đình ấy, mà Đức Mẹ và Thánh Giuse cũng sẵn lòng quy phục thánh ý Chúa, cho dù lúc đó hai người vẫn chưa biết thánh ý đó.
Chúa Giêsu chưa bao giờ làm mất lòng Mẹ Người, Ngài hằng tỏ ra vâng phục hết tình. Thế mà nay Chúa lại làm như vậy, chắc chắn phải có lí do. Nhưng Đức Mẹ không hiểu, vì thế lời tự nhiên có vẻ hơi trách móc, khó mà chấp nhận được. Câu trả lời của Chúa tuy giải thích cho Đức Mẹ hiểu nguyên do vì đâu Ngài làm vậy, nhưng vẫn còn giữ cả một huyền nhiệm sâu xa của nó: chính vì cha mẹ biết Con hằng vâng phục cha mẹ, mà trong việc này cha mẹ khỏi lo. Cha mẹ nên biết Cha ở trên trời có những ý định mà mội người chúng ta phải tuân theo. Nếu Chúa nói rõ ý định của Thiên Chúa từ trước thì cha mẹ Ngài không còn lo lắng gì nữa và sẽ ở lại Giêrusalem chờ Ngài. Nhưng Ngài đã không nói và Đức Mẹ nhìn thấy đó là một huyền nhiệm về sứ mệnh của Ngài, Đức Mẹ tạm yên lòng nhưng vẫn không hiểu rõ về vấn đề. Thái độ của Đức Mẹ và thánh Giuse không đòi Chúa cho biết rõ ràng, nhưng sẵn lòng vâng phục trong tối tăm là một tấm gương cao cả cho chúng ta. Kể cà khi: “Ông bà không hiểu lời Chúa nói”, nhưng mỗi người đều giữ lời Chúa trong lòng của mình mà suy niệm. Riêng Đức Mẹ người đã hiểu dần dần qua các biến cố lời đã hứa khi thụ thai: “này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền”.
Trong cuộc sống gia đình chắc chắn mỗi người chúng ta đều có những ưu tư, sầu khổ, lắm lúc không thể hiểu tại sao hoạn nạn tai ươn luốn đến với mình, tại sao ở hiền mà không gặp lành. Những lúc đó ta hãy noi gương gia đình thánh phục tùng và tuyệt đối vâng theo thánh ý Chúa. Vì Thiên Chúa luôn yêu thường và quan phòng, nếu Ngài để cho ta chịu những bài học đau đớn, đó là vì lợi ích phần hồn của ta và của người khác.
Lạy Chúa trong cuộc sống ai cũng muốn đời mình được êm ả, được như ý mình muốn. Nhưng chính những sở thích đó lại không là Thánh Ý Chúa muốn. Xin cho con biết noi gương gia đình thánh hôm nay để biết hoàn toàn chấp nhận theo ý Chúa. Amen. 

23. Đức Giêsu tại đền thờ

(Giải thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đặt vào trong cấu trúc tổng quát của Tin Mừng về thời thơ ấu, truyện Tìm được trẻ Giêsu trong Đền Thờ bổ sung cho những truyện song song trước đây (chào đời, cắt bì, tỏ mình của Gioan và Đức Giêsu). Bản văn này có vẻ giống truyện Đức Maria đi thăm bà Êlisabét (Lc 1,39-56). Tuy nhiên, trong khi truyện Thăm viếng được liên kết chặt chẽ với những truyện loan báo các cuộc chào đời (1,5-25; 1,26-38), truyện Tìm lại Đức Giêsu trong Đền Thờ chỉ được nối kết khá lỏng lẻo. Thật ra, truyện này là một đơn vị độc lập.
Cho đến nay tác giả Lc chỉ nói đến Đức Giêsu với những động từ ở thái bị động: cuộc chào đời của Người được loan báo; Người được đặt nằm trong một máng cỏ; được đưa lên Đền Thờ; được hai cụ già bồng ẵm trên tay; được công bố và ca ngợi vì ý nghĩa Người đang mang nơi mình. Đức Giêsu không hành động, Người chỉ là một em bé yếu đuối, được người khác hành động giúp cho. Bây giờ lần đầu tiên Người tỏ ra như là nhân vật chính, và tác giả ghi nhận những lời đầu tiên của Người. Lối xử sự của Người gây ra một hoàn cảnh đau đớn. Câu nói đầu tiên của Người bắt đầu với một từ “tại sao?”, như để trả lời cho một từ “tại sao?” của mẹ Người. Trong những lời đầu tiên của Người, Đức Giêsu đã gọi Thiên Chúa là “Cha Người” và khẳng định rằng đối với Người, liên hệ với Cha quan trọng hơn tất cả mọi sự khác.
Ta cũng có thể tự hỏi vì sao tác giả Lc đã ghi lại sự cố này. Dường như có ba lý do:
  1. a) Lý do 1 (chủ đề): Sự cố xảy ra tại Đền Thờ (2,46). Thế mà chúng ta biết rằng tác giả Lc quan tâm đến chủ đề Đền Thờ. Tin Mừng đã bắt đầu với việc thiên thần Gabriel hiện ra với Dacaria trong Đền Thờ. Rồi đến việc cha mẹ dâng Đức Giêsu trong Đền Thờ. Bằng truyện 2,41-52, tác giả Lc có thể kết thúc phân đoạn đầu bằng một lời nhắc đến Đền Thờ, cũng như sau này khi kết thúc Tin Mừng (24,53). Lời Đức Giêsu nói: “Con có bổn phận ở nhà của Cha con” , nghĩa là ở trong Đền Thờ, đưa lại cho sự hiện diện của Đức Giêsu trong Đền Thờ chiều kích biểu tượng, là cuộc trở về nhà Cha Người.
  2. b) Lý do 2 (văn thể): Tác giả Lc cũng khác với các Tin Mừng khác ở điểm ngài muốn giới thiệu cho chúng ta một bản “tiểu sử” của Đức Giêsu đúng với các quy tắc của thể loại tiểu sử (haggada Do Thái và khoa tiểu sử Hy Lạp). Thể loại này lưu tâm đến thời niên thiếu của nhân vật. Do đó, Lc đã lấp đầy khoảng trống giữa các bài tường thuật về chào đời và các bài về đời sống công khai bằng truyện này. Nội dung của truyện được giới thiệu bằng hai câu đóng khung bài tường thuật (2,40 và 2,52): vấn đề là sự tăng trưởng của Đức Giêsu về sự khôn ngoan (sophia). Vì ngữ cảnh của Tin Mừng về Thời thơ ấu là sự tăng trưởng về khôn ngoan, ta hiểu vì sao Lc đã chọn một bản văn minh họa sự khôn ngoan của Đức Giêsu.
  3. c) Lý do 3 (tín lý): Rất sớm trong Kitô giáo đã xuất hiện một luồng tư tưởng cho rằng Đức Giêsu là một người như biết bao người khác, chào đời từ cuộc hôn nhân của Maria và Giuse, nhưng được Thánh Thần ngự xuống trên mình, vào dịp nhận phép rửa, để trở thành vị ngôn sứ ưu việt (quan niệm của một số Kitô hữu gốc Do Thái, phái Êbiônít, một số người theo thuyết Ngộ đạo). Có thể quan niệm này xuất phát từ TM Mc (khởi đầu với phép rửa). Do đó, Lc tìm cách cho thấy rằng Đức Giêsu ý thức Người là Con Thiên Chúa ngay khi còn thơ ấu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành sáu phần:
1) Khung cảnh (2,41-42);
2) Bị lạc mất Đức Giêsu (2,43-45);
3) Tìm ra Đức Giêsu (2,46-48);
4) Câu nói của Đức Giêsu (2,49);
5) Kết luận nguyên thủy (2,50);
6) Kết luận thứ hai của Lc (2,51-52).
3.- Vài điểm chú giải
– Lễ Vượt Qua (41): Lễ Vượt Qua được cử hành vào lúc mặt trời lặn đánh dấu ngày 15 Nisan, là tháng đầu năm theo lịch Babylon/Do Thái (tháng Ba/Tư; tên cũ là tháng Aviv: x. Đnl 16,1). Dịp này người ta giết chiên Vượt Qua vào chiều ngày 14 Nisan, nướng lên và ăn trong gia đình vào lúc mặt trời lặn (Lv 23,6). Tất cả những gì có men đều phải loại ra khỏi nhà trước khi giết chiên (Đnl 16,4). Không những hôm ấy, người ta phải ăn với bánh không men (Xh 12,8), mà con tiếp tục ăn như thế bảy ngày sau đó (Xh 12,17-20; 23,15; 34,18). Thời gian bảy ngày này được gọi kiểu chuyên môn là “Lễ Bánh Không Men”. Tuy nhiên, với thời gian, “Lễ Vượt Qua” trở thành tên gọi cho cả bảy hoặc tám ngày (Đnl 16,1-4; Ed 45,21-25). Dường như trước khi có Israel, lễ Vượt Qua là một lễ của dân du mục (Xh 5,1; 10,9), còn lễ Bánh Không Men là lễ của dân định cư nguồn gốc nông dân (Xh 23,15-16).
– mười hai tuổi (42): Theo Xh 23,17 và Đnl 16,16, mọi người nam ở Paléttina, không phân biệt tuổi tác, phải ra trình diện trước nhan Đức Chúa vào ba đại lễ trong năm: lễ Bánh Không Men (tức lễ Vượt Qua), lễ Mùa Gặt và lễ Lều. Nhưng truyền thống Do Thái giáo chỉ buộc một trẻ em Do Thái tham dự các cử hành phụng tự ở hội đường khi được mười ba tuổi (em được gọi là bar miswâh, “con của điều răn”; nghi thức đưa em vào tuổi giữ luật cũng được gọi như thế). Tuy thế, dường như không có liên hệ gì rõ rệt giữa nghi thức “gia nhập” hội đường và việc hành hương. Nếu tác giả cố tình ghi lại chi tiết 12 tuổi thì hẳn không chỉ để chứng tỏ rằng Thánh Gia đạo đức, tuân giữ quá Luật. Có lẽ nên nghĩ đến một ý hướng biểu tượng. Con số 12 có nghĩa là “toàn thể”, hoàn tất”. Ghi nhận rằng khi ấy Đức Giêsu được 12 tuồi chính là quy hướng tâm trí về lúc kết thúc hoạt động của Người nơi trần thế, về cái Ngày mà Người sẽ trở về với Chúa Cha. Nơi Lc, ý tưởng về “hoàn tất” này luôn được kết nối với Thương Khó – Phục Sinh (x. 12,50; 18,31; 22,37; 9,31; 22,16; 24,44…) là biến cố được coi như điểm tới và sự hoàn tất sứ mạng trần thế của Đức Giêsu (9,51). Và chính là lời loan báo ẩn giấu này về cuộc Phục Sinh là ý hướng đầu tiên của bài tường thuật.
– Xong kỳ lễ (43): dịch sát là “và khi các ngày ấy đã mãn” (NTT). Như vậy, Giuse và Maria đã ở lại Giêrusalem từ bảy đến tám ngày mừng lễ Vượt Qua và Bánh Không Men (x. Lv 23,5-6).
– Đang ngồi giữa các bậc thầy (46): Kathezomai có thể có nghĩa là “ngồi” hay là “ngự”. Các thiếu niên đến muốn học, các thầy cũng không ngăn cản. Do đó, có thể hiểu chi tiết “ngồi” (kathezomenon) này cho biết Đức Giêsu muốn học hỏi với các thầy. Tuy nhiên, hẳn là tác giả Lc không chỉ ghi lại một chi tiết chứng tỏ Đức Giêsu hiếu học. “Ngồi” cũng là cung cách của một vị thầy: như thế, động từ này hẳn là báo trước việc Đức Giêsu giảng dạy như một vị thầy (x. 5,3; 19,47–21,38). Ở đây Đức Giêsu đã chứng tỏ một trí thông minh khiến các vị thầy phải kinh ngạc. Điều này sẽ thường xuyên xảy ra vào thời gian Đức Giêsu hoạt động công khai. Nói chung, Đức Giêsu xuất hiện trong trong các TM như nhà chú giải (x. 4,32). Ở đây, Đức Giêsu tỏ ra một khả năng hiểu Kinh Thánh, một khả năng được chính các bậc thông luật nhìn nhận. Như vậy, Người là một vị thầy đáng tin cậy.
Đàng khác, theo Ml 3,3, vào Ngày của Đức Chúa, Đức Chúa sẽ vào trong Đền Thờ của Ngài và “ngồi/ngự [= hiển trị]” (kathieitai, LXX) trong tư cách thẩm phán. Ta có thể hướng tới cả nghĩa này, bởi vì toàn khối Lc 1–2 đã cho thấy bằng những nét chấm phá kín đáo tính siêu việt mà cuộc sống ẩn dật của trẻ Giêsu mạc khải ra. Sự kết nối kathezomai với “giữa các bậc thầy” khiến phải nghĩ đến nghĩa mạnh là “ngự [= hiển trị]” như trong Ml 3,3; với lại bản văn này cũng như bài tường thuật trước có gợi đến lời sấm này. Như thế, về phương diện thể lý, cho dù Đức Giêsu có ngồi bên chân các thầy thông luật, như bất cứ em bé nào, Người vẫn là tác nhân chính mà toàn cảnh phải xoay quanh. Một cách mầu nhiệm, Người đã là Con Thiên Chúa “ngự trong Đền Thờ Người”, theo lời sấm Ml 3,3.
– kinh ngạc về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu (47): Đây là một câu được viết theo “phép thế đôi” (hendiadys), có nghĩa là: “các lời đối đáp thông minh của cậu”.
– con có bổn phận (49): Dịch sát là “cần thiết (dei) là con ở nhà của Cha con”. Từ dei không chỉ diễn tả một sự cần thiết tổng quát, nhưng là điều nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa có liên can đến Đức Giêsu. Từ ngữ này được dùng 7 lần trong TM Lc, luôn được kết nối với cuộc Thương Khó như cách hoàn tất các sấm ngôn (2,49; 13,33; 17,25; 22,37; 24,7; 24,26; 24,44).
– ở nhà của Cha con (49): Câu en tois tou patros mou cũng có thể dịch là “(can dự đến) các công việc của Cha con” hoặc “ở giữa những người thuộc về Cha con”. Dịch là “ở nhà của Cha con” thì được hỗ trợ bởi các bản văn như St 41,51; Et 7,9; G 18,19 và một số bản văn ngoài Kinh Thánh. Trên môi miệng của một em bé, ý nghĩa cụ thể này dường như hợp lý hơn; đàng khác, Đền Thờ Giêrusalem được gián tiếp coi là nhà Thiên Chúa ở Lc 19,46. Với câu này, cũng rõ ràng là Đức Giêsu coi Thiên Chúa là Cha trên trời của Người.
– Nhưng ông bà không hiểu (50): Hơn ai hết, hai ông bà biết nguồn gốc siêu phàm của con mình. Nhưng ông bà không hiểu ngay được là Người nói về Cha Người trên trời theo nghĩa xác thực nhất. Nhất là ông bà không thể đoán ra được những gì nằm dưới lời nói của con trẻ: một tương lai mà ông bà hoàn toàn không thể nắm bắt được. Nếu không giải thích như thế, chúng ta sẽ khiến Lc mâu thuẫn, bởi lẽ Đức Maria đã biết tư cách Con Thiên Chúa của Đức Giêsu vào ngày Truyền Tin. Trong Lc, đề tài “không hiểu” (9,45; 18,34 và 24,25) luôn liên hệ đến các lời Đức Giêsu nói cách huyền bí về cuộc Thương Khó của Người. Vậy sự không hiểu của Maria ở đây không do lỗi Mẹ, nhưng do chỗ lời Đức Kitô loan báo về Thương Khó phải bị che giấu với những người được loan báo. Họ chỉ hiểu sau khi các lời này được ứng nghiệm.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bằng câu truyện dâng trẻ Giêsu vào Đền Thờ, tác giả Lc cho thấy Đức Chúa đã trở lại theo các lời sấm Cựu Ước mà chiếm lấy Đền Thờ của Người. Bằng câu truyện hôm nay, tác giả cho thấy Người “ngự trị” trong Đền Thờ. Tuy nhiên các ý nghĩa này chìm dưới những truyện rất tầm thường trong đời thường.
Đức Giêsu ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Người ở lại Đền Thờ, nghe các cuộc đối thoại của các vị thầy, đặt câu hỏi và làm người ta kinh ngạc vì sự khôn ngoan trong các câu trả lời của Người. Ở tuổi 12, khi “ngồi giữa các bậc thầy”, Người đã tự loan báo mình như là người sau này sẽ giảng dạy với uy quyền trong toàn xứ sở và ngay trong Đền Thờ (19,47–21,38). Nhưng Người cũng đang sống tư cách là “Đức Chúa hiển ngự” trong Đền Thánh của Người.
Trong khi đó, Maria và Giuse đang trên đường về Nadarét. Sau một ngày đàng, các ngài mới nhận ra là Đức Giêsu không có ở đây, các ngài rất lo lắng. Các ngài phải mất “ba ngày” mới tìm ra Đức Giêsu: ba ngày là khoảng thời gian đi từ cái chết đến cuộc sống lại của Đức Giêsu (“vào ngày thứ ba”); chính Đức Giêsu diễn tả điều đó khi nói là “cần thiết phải”, một công thức được Lc gắn liền với cuộc Thương Khó như sự hoàn tất các sấm ngôn. Khi tìm ra Người, Maria đã bộc phát nói lên một câu hỏi mà cũng là một lời than thở: “Này con, tại sao con làm thế? Này cha con và mẹ phải đau khổ tìm con!”. Đây là một phản ứng bộc phát của một người mẹ đang phải đau khổ và cho biết là bà đã phải đau khổ đến độ nào. Maria ngỏ lời với Đức Giêsu trong tư cách là con. Bà chưa bao giờ thấy và chờ đợi là con có một hành vi như thế. Đức Giêsu, trong tư cách Con Thiên Chúa, hoàn toàn độc lập với mọi người. Sự độc lập này được diễn tả qua thế tương phản giữa từ ngữ “cha con” trên môi miệng Maria và “Cha Con” trên môi miệng Đức Giêsu.
Câu trả lời của Đức Giêsu cũng gây ngạc nhiên như lối xử sự của Người vậy: “Thì tại sao tìm con? Lại còn không biết là con phải ở nơi nhà Cha con sao?” (NTT). Đức Giêsu đã gọi Thiên Chúa là “Cha Người”. Cho đến nay, trong Tin Mừng, không có một ai gọi Thiên Chúa như thế cả. Maria đã ngỏ lời với Thiên Chúa như là “Đức Chúa và Thiên Chúa” (1,46t); Dacaria gọi Thiên Chúa là “Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en” (1,68); Simêôn thưa với Thiên Chúa là “Đức Chúa” (2,29). Cả sau này Đức Giêsu cũng sẽ gọi Thiên Chúa là “Cha” (10,21; 22,42) và sẽ dạy các môn đệ thưa với Thiên Chúa như thưa với một người “Cha”. Nhưng thiên thần đã loan báo về Đức Giêsu như là Con Đấng Tối Cao” (1,32), Con Thiên Chúa (1,35). Người ở trong một quan hệ hoàn toàn đặc biệt với Thiên Chúa: Thiên Chúa là Cha Người và Người là Con Thiên Chúa. Hành động đầu tiên của Người mà tác giả ghi nhận là một hành động nhằm diễn tả bí mật thâm sâu đó trong cuộc đời Người. Người biết Người là Con Thiên Chúa và nhất là Người biết rằng Người được liên kết với ý muốn của Thiên Chúa. Trong tư cách là Con Thiên Chúa và trong quan hệ hết sức chặt chẽ với Thiên Chúa, được biểu lộ ra nơi sự vâng lời của Người với ý muốn của Chúa Cha, Người sẽ đi theo đường lối của Chúa Cha.
Tác giả ghi rằng Maria và Giuse không hiểu các lời ấy. Những lời Đức Giêsu nói đây là một câu nói huyền bí, chẳng giải thích gì cả, cũng chẳng phải để biện minh cho cách xử sự của Người. Những lời ấy chỉ mời Maria và Giuse vượt lên trên bình diện của những lo toan đời thường để gặp bình diện của Thiên Chúa, là nơi mà Người vẫn ở. Ngay cả hôm nay nữa cũng không dễ gì mà hiểu các lời ấy, không những trong các từ ngữ mà cả trong ý nghĩa. Điều này thúc đẩy chúng ta đặt ra các câu hỏi: Phải chăng Maria và Giuse không được đi tìm Người? Làm thế nào các ngài có thể hiểu được rằng Thiên Chúa muốn rằng Người phải ở lại trong Đền Thờ? Phải chăng Thiên Chúa lại không muốn điều này được thông tri cho các ngài? Phải chăng ý muốn của Thiên Chúa là cứ bỏ mặc các ngài ba ngày trong tình trạng lưỡng lự và để các ngài phải đi lòng vòng mà tìm Đức Giêsu? Không dễ gì mà trả lời các câu hỏi như thế. Ý nghĩa của biến cố này phải được tìm ra trong chiều hướng này: Maria và Giuse phải trải nghiệm một cách hết sức sâu xa, đau đớn và không thể quên được rằng Đức Giêsu quy phục một quyền bính cao hơn. Tương quan đặc biệt của Đức Giêsu với Thiên Chúa đưa Đức Giêsu đến một lối xử sự có vẻ cứng cỏi không sao hiểu được và có một sự chia cắt đau đớn, do chỗ nó không tương ứng với các chờ đợi của cha mẹ Người. Đức Giêsu sẽ đi theo con đường của Người, con đường đã được Chúa Cha vạch ra từ trước rồi. Kể cả Maria cũng phải chấp nhận con đường ấy như thế. Kể cả bà cũng không được mong là biết ngay mọi sự cách rõ ràng và được khai mở ngay vào mọi sự.
Bà phải làm gì khi bà không hiểu? “Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (2,51). Ghi nhớ điều ấy và chờ đợi, tôn trọng điều ấy và kiên nhẫn, thái độ này là một hình thái đức tin, một hình thái tin tưởng vào Đức Giêsu và vào Thiên Chúa.
+ Kết luận
Sự cố này, được tác giả Lc kể trong khung cảnh những bước khởi đầu của Đức Giêsu là sự cố duy nhất qua đó ta không ghi nhận được các nét vui tươi hân hoan. Con trẻ, đã được đón tiếp với biết bao niềm vui và lời ca ngợi Thiên Chúa, sẽ đi theo con đường vâng phục đối với Chúa Cha. Niềm vui và lời ca ngợi vẫn có giá trị và ngày càng nhận được nền tảng vững chắc và lý hữu vững vàng hơn. Ở đây ta thấy Đấng Cứu thế, Đức Kitô, Đức Chúa, ơn cứu độ của Israel và của mọi dân tộc không là gì khác ngoài Con Thiên Chúa. Thiên Chúa đã chọn ở lại với chúng ta và cách tốt nhất để thực hiện điều này là sự hiện diện của Con của Người. Nơi Chúa Con, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Và không có lý do nào to lớn hơn để mà vui lên nữa. Nhưng ở đây ta cũng thấy rằng chúng ta không thể áp đặt cho Chúa Con nẻo đường Người phải theo, trái lại chúng ta phải chấp nhận con đường của Người, cho dù trong chúng ta phát sinh ra nhiều câu hỏi “tại sao”.
5.- Gợi ý suy niệm
  1. Ngay từ thuở niên thiếu, Đức Giêsu đã ý thức rằng Người sẽ phải trở về nhà Cha Người trên trời bằng một cái chết dữ dội, đã được Kinh Thánh tiên báo (Is 53; Tv 22; Tv 69…) và, vẫn theo Kinh Thánh (Hs 6,2; 2 V 20,5), người ta chỉ gặp lại Người (đang sống) vào ngày thứ ba. Truyện này cho thấy Người muốn cho Maria và Giuse sống cách biểu tượng mầu nhiệm Thương Khó – Phục Sinh, trước khi sống thực sự mầu nhiệm này. Thật ra mọi sự cố trong cuộc đời Đức Giêsu đều nói về mầu nhiệm trung tâm này. Chúng ta được mời gọi nhận biết rằng các biến cố thông thường của đời ta chỉ có ý nghĩa khi chúng giúp chúng ta sống mầu nhiệm Phục Sinh (Vượt Qua), nghĩa là đi từ cuộc sống này mà vào sự sống của chính Thiên Chúa.
  2. Như Đức Maria đã hiểu, các cha mẹ hôm nay cũng cần phải hiểu: họ không bao giờ được chống lại ơn gọi của con cái họ, khi chúng đã nhận ra (ơn gọi linh mục, tu sĩ, hoặc ơn gọi lập gia đình). Muốn giữ con cái lại cho mình bằng mọi giá là một hình thái ích kỷ không tương hợp với tình yêu chân chính mà các cha mẹ phải có đối với con cái. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh lại: đi theo ơn gọi phải là sống một sự vâng phục đối với Đấng Cao Cả, chứ không phải là một sự đào thoát để tránh một quyền bính. Đức Giêsu vâng lời Chúa Cha, nhưng Người cũng vâng lời cha mẹ trần thế.
  3. Maria và Giuse bị lạc Đức Giêsu, không do lỗi các ngài. Nhưng các ngài vẫn đi tìm vì không thể sống thiếu Đức Giêsu. Khi người ta cảm thấy mình khô khan, sầu khổ thiêng liêng, không do lỗi mình, sự ngờ vực, bóng tối hoàn toàn, thì phải xem có phải do lỗi mình không, hay là do Thiên Chúa muốn đào luyện chúng ta (x. Lc 24,28). Cứ đi tìm Người cho đến khi tìm ra Người.
  4. Điều ta không hiểu, ta có thể phớt lờ đi hoặc tìm cách quên đi. Ta có thể tuyên bố rằng điều ấy chẳng có nghĩa gì và triệt để từ chối nó. Ngược lại, Đức Maria ghi giữ điều ấy và làm cho nó thành lực thúc đẩy bà kiên trì suy nghĩ (x. 2,19). Thật ra một điều gì đó có thể không nói cho tôi biết mọi sự vào lúc này. Tôi cũng chẳng có thể tự phụ cho rằng vào mọi lúc tôi hiểu tất cả những gì có một ý nghĩa. Mức độ hiểu biết giới hạn không phải là một lý do để loại bỏ hoặc xua trừ một điều gì đó. 
24. Suy niệm chú giải Lời Chúa LỄ THÁNH GIA - Lm. Inhaxio Hồ Thông
Lễ Thánh Gia nhắc chúng ta nhớ những năm tháng thầm lặng của Đức Giê-su trong thời thơ ấu và niên thiếu, dưới mái ấm gia đình của thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a. Đây là một gia đình thánh mẫu gương của tất cả mọi gia đình.
Hc 3: 3-7, 14-17a
Hiền nhân Do thái, ông Si-rác, khuyên con cái phải có lòng thảo kính cha mẹ, nhất là khi các ngài già yếu.
Cl 3: 12-21
Thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Cô-lô-xê thực hành trong cộng đoàn, nhất là trong gia đình, các nhân đức như là lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại, yêu thương. Đó là những mối dây liên kết tuyệt hảo.
Lc 2: 41-52
Tin Mừng Lu-ca tường thuật chuyện tích Đức Giê-su lên mười hai tuổi ngồi giữa các tiến sĩ Luật, trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
BÀI ĐỌC I (Hc 3: 3-7, 14-17a)
Vào đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, một hiền nhân Do thái, ông Si-rác, mở trường dạy học và ghi lại những thành quả của những kinh nghiệm và những suy tư của ông. Tác phẩm của ông được viết bằng tiếng Híp-ri và được cháu của ông dịch sang Hy ngữ vào năm 150 trước Công Nguyên.
Tác phẩm này là “cẩm nang đạo đức thực hành” dành cho người Ít-ra-en nào muốn trung thành với đức tin của cha ông mình, không để cho mình bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa dân ngoại chung quanh, đặc biệt là sức lôi cuốn mãnh liệt của sự khôn ngoan Hy lạp. Trong sách ông bàn đến nhiều chủ đề rất đa dạng, được tô điểm bởi những thành ngữ rất dễ nhớ, và rất được Do thái giáo mến chuộng. Giáo Hội sử dụng sách này đến mức sách có biệt danh là “Giảng Viên”.
Tác giả cho thấy mình rất gắn bó với Lề Luật. Theo ông, việc thực hành Lề Luật là nguồn mạch của sự khôn ngoan. Trong chương 3, ông Si-rác khai triển một trong những huấn lệnh của Thập Giới, liên quan đến bổn phận của con cái đối với cha mẹ: “Ngươi hãy thờ kính cha mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20: 12; Đnl 5: 16).
1.Lòng hiếu thảo mang chiều kích phổ quát:
Bổn phận thảo kính cha mẹ thuộc vào những truyền thống rất lâu đời của các nền văn hóa, được các tôn giáo và triết học ca tụng. Những lời khuyến dụ của hiền nhân Ít-ra-en rất gần với những bản văn cổ của các nền văn hóa lớn, như Trung Quốc, Ấn Độ và Hy-lạp. Ở Việt Nam, lòng thảo kính của con cái đối với cha mẹ được truyền tụng trong những thành ngữ cao dao, ví dụ như: 
“Công cha như núi Thái Sơn; 
nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. 
Một lòng thờ mẹ kính cha; 
cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Như vậy lòng thảo kính của con cái đối với cha mẹ mang chiều kích phổ quát. 
2.Lòng hiếu thảo mang chiều kích siêu việt:
Huấn lệnh của Thập Giới về lòng hiếu thảo không chỉ thuộc về trật tự tự nhiên, nhưng cũng là chương trình của Đấng Tạo Hóa. Đời sống gia đình ở Ít-ra-en không chỉ nhằm lưu truyền nòi giống của tổ phụ Áp-ra-ham, nhưng cũng truyền đạt từ thế hệ này đến thế hệ khác đức tin của cha ông vào một vị Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã tỏ mình ra. Chính vì Thiên Chúa “làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con” (Hc 3: 2) nên Ngài ban những lời chúc phúc cho con cái có lòng thảo kính cha mẹ mình.
3.Những ân phúc của tấm lòng hiếu thảo:
“Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ”: Đây là lời chúc phúc truyền thống nhất, cuộc sống trường thọ được xem là quý giá nhất vào thời đó, thời mà những niềm hy vọng ở bên kia nấm mồ đã chưa được biết đến ở Ít-ra-en. Ngạc nhiên hơn, và thuộc trật tự khác, chính là lời hứa: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm”, cũng như “Ai kính mẹ thì tích trữ kho báu” (kho báu chứa đựng ơn tha thứ của Thiên Chúa). Cách diễn tả này tương tự với câu 14: “Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con”.
Trong Do thái giáo thời hậu lưu đày, người ta rất nhạy bén với khái niệm tội lỗi và rất bận tâm đến sự thanh sạch nội tâm. Ông Si-rác thuộc vào những thế hệ này, họ suy niệm giáo huấn của các ngôn sứ; vì thế, ông cũng đề cao việc thực hành các nhân đức hơn việc tế tự bên ngoài. Về phương diện này, ông còn đi xa hơn khi gán cho việc thực hành lòng hiếu thảo của Thập Giới một giá trị hy tế xá tội. Tuy nhiên, chúng ta nhận ra một sự khác biệt: trong khi các ngôn sứ đặc biệt bận lòng đến ơn cứu độ tập thể, các hiền nhân quan tâm hơn đến ơn cứu độ cá nhân. Sau cùng, chúng ta cũng nên ghi nhận rằng hiền nhân này cẩn thận viện dẫn những nghĩa vụ không chỉ đối với cha mà còn đối với mẹ nữa. Phải nói rằng đây là một trường hợp họa hiếm trong Cựu Ước, ở đó thường là chỉ mình người cha được nêu lên.
 BÀI ĐỌC II (Cl 3: 12-21)
Như thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thư gởi tín hữu Cô-lô-xê được thánh Phao-lô viết khi thánh nhân bị giam cầm giữa năm 61-63 Công Nguyên.
1.Bối cảnh:
Thành phố Cô-lô-xê, được định vị ở Tiểu Á, cách thành phố Ê-phê-xô 200 cây số về hướng đông, đã thấy xuất hiện một cộng đoàn Ki-tô hữu, cộng đoàn này được một người bạn đồng hành và cũng là môn đệ của thánh Phao-lô thiết lập. Những giáo lý sai lạc, những suy luận về các quyền năng của các thiên thần, những lối sống khắc khổ, cũng như những khuynh hướng Do thái giáo, gây nguy hiểm cho niềm tin của cộng đoàn non trẻ này. Thánh Phao-lô đang bị cầm tù nên không thể đích thân đến tận nơi được, vì thế ngài gởi một bức thư cho các tín hữu Cô-lô-xê. Trong thư này, thánh nhân tập trung giáo huấn của ngài vào Đức Ki-tô và quy chiếu cuộc đời Ki-tô hữu vào điểm cốt yếu: sống kết hiệp với Đức Ki-tô, noi gương Đức Ki-tô, thực hành đức ái và các nhân đức thường ngày.
Vào ngày lễ Thánh Gia hôm nay, đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-lô-xê này mời gọi chúng ta suy gẫm về đời sống gia đình: “Hãy có lòng xót thương, nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau”.
2.Giáo Huấn:
Đức ái Ki-tô giáo là nguồn mạch của sự hiệp nhất và bình an trong cộng đoàn, huống chi trong cộng đoàn nhỏ bé của gia đình, ở đó tình yêu phải là “mối dây liên kết tuyệt hảo”. Theo thói quen của mình, thánh nhân mời gọi các tín hữu“để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng”.
Đoạn trích kết thúc với vài nguyên tắc đặc thù về những bổn phận giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, mà thánh Phao-lô khai triển trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô 5: 21-32. Chúng ta nên nhớ rằng lời khuyên “người làm vợ hãy phục tùng chồng” được đặt vào trong bối cảnh văn hóa thời đó, như trước đây nền văn hóa cổ truyền Việt Nam chúng ta: đức hạnh của người phụ nữ Việt Nam trước đây được quy định bởi “tam tòng”“tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”.
TIN MỪNG (Lc 2: 41-52)
Giai thoại mà thánh Lu-ca kể trong Tin Mừng hôm nay chiếu soi một luồng ánh sáng trên những năm tháng cuộc đời ẩn dật của Đức Giê-su, giữa việc cha mẹ dâng tiến Ngài trong Đền Thờ vào lúc Ngài được sáu tuần lễ và việc Ngài lãnh nhận phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả vào lúc Ngài ba mươi tuổi.
1.Cách thức đào tạo tôn giáo ở Ít-ra-en:
Được đặt vào trong khung cảnh tôn giáo và văn hóa Do thái, dáng điệu Đức Giê-su ngồi giữa các tiến sĩ Luật, ở Giê-ru-sa-lem, khi Ngài lên mười hai tuổi, không có gì là lạ lùng cả. Tất cả những thiếu niên Ít-ra-en đến mười hai tuổi đều trở thành “con cái của Lề Luật”. Từ nay, các em được tham dự vào cộng đoàn phụng vụ và được dự phần vào buổi cầu nguyện chung.
Việc đào tạo tôn giáo cho con cái cốt yếu là bổn phận của cha mẹ trong gia đình, và được bổ túc bởi việc dạy dỗ ở hội đường, vào ngày sa-bát. Các kinh sư thường mở trường dạy học và người ta có thể nghĩ rằng họ quan tâm đến việc đào tạo những “con cái của Lề Luật” tương lai. Ở Giê-ru-sa-lem, các tiến sĩ Luật hình thành nên một loại hội đường ở bên trong Đền Thờ; họ dạy trên các hành lang. Theo truyền thống dạy dỗ kinh sư, để đối thoại với học viên, họ khuyến khích các học viên nêu lên những câu hỏi hay tự mình đặt ra những câu hỏi cho các học viên.
Ông Flavius Josephus, sử gia Do thái (35-95 AC) kể lại một kỷ niệm thời niên thiếu của ông, giúp soi sáng đặc biệt giai thoại của Tin Mừng Lu-ca. Khi cậu Flavius Josephus đến tuổi “con cái của Lề Luật”, cậu theo đuổi một năm đào tạo tôn giáo. Các kinh sư đòi cậu đến giữa họ để đặt câu hỏi cho cậu và tranh luận với cậu. Thật ra, cậu Flavius Josephus thuộc một gia đình danh giá chốn kinh thành Giê-ru-sa-lem, còn Đức Giê-su chỉ là một cậu thiếu niên khiêm tốn làng Na-da-rét; tuy nhiên, sự kiện chứng thực rằng các tiến sĩ Luật Giê-ru-sa-lem niềm nở tiếp đón mọi trẻ em, tôn trọng những suy nghĩ của chúng, lắng nghe và hướng dẫn chúng. Sau này, trong khi thi hành sứ vụ công khai, tinh thần đối thoại rất sinh động này được phản ảnh rõ nét nhất trong những cuộc tranh luận trong đó giai cấp lãnh đạo Do thái đặt ra những câu hỏi và Đức Giê-su trả lời. Qua những câu trả lời của Ngài, chúng ta nhận ra những nét đặc trưng của Ki-tô giáo so với Do thái giáo.
2.Ơn gọi được khẳng định:
Người ta có thể luôn luôn tự hỏi về mầu nhiệm ý thức mà Đức Giê-su có về ơn gọi của mình, về địa vị Con Thiên Chúa của mình: ý thức này được phát triển như thế nào? Ngài có thật sự hoàn toàn ý thức về sứ mạng của mình khi còn rất bé chứ? Dù sao ở Giê-ru-sa-lem vào lúc mười hai tuổi, Ngài vẫn cảm thấy thoải mái trong nhà của Cha Ngài như nhà của mình; Ngài bày tỏ trí thông minh và sự hiểu biết tôn giáo phi thường trước tuổi mình. “Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu”, nghĩa là, không chỉ những tiến sĩ luật, nhưng những học viên, và ngay cả đám đông trong sân Đền Thờ cũng dừng lại để lắng nghe cậu thiếu niên Giê-su này đối đáp với các chuyên viên Lề Luật. Sau này, sự thông hiểu của Đức Giê-su, sự quán triệt Kinh Thánh của Ngài sẽ làm kinh ngạc những vị lãnh đạo Do thái giáo: “Ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo chữ nghĩa như thế”(Ga 7: 15); còn dân chúng sửng sốt về lời dạy của Ngài: “Vì Người dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ” (Mt 7: 28).
Giai thoại Đức Giê-su ngồi giữa các tiến sĩ Luật hàm chứa hai lời dạy: tinh thần siêu thoát đối với Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se và dấu chỉ tiên báo mầu nhiệm Vượt Qua, tức là mầu nhiệm Thương Khó, đoạn mầu nhiệm Phục Sinh của Ngài vào ngày thứ ba.
3.Tinh thần siêu thoát:
Phải chăng đây là cuộc hành trình đầu tiên của Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem vào dịp cử hành một trong những đại lễ hằng năm? Người ta có thể tự hỏi điều này. Dù sao Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se vẫn để cho con trẻ nhiều tự do. Nghi lễ đã hoàn tất, đoàn hành hương đến từ Ga-li-lê lại lên đường trở về khoảng ba đến bốn ngày đường, theo từng nhóm.
Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se vất vả tìm kiếm Đức Giê-su ròng rả suốt hai ngày; đến ngày thứ ba họ mới tìm thấy Ngài. Mẹ Ngài nói với Ngài về những vất vả lo lắng trong khi tìm kiếm Ngài: “Con ơi, sao con lại cư xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” rốt cuộc để chỉ nghe được câu trả lời của Ngài bày tỏ khoảng cách giữa họ với Ngài: “Sao cha mẹ lại tìm con?”. Ngài nhắc lại bổn phận làm con đích thật của Ngài, bổn phận này nối kết bất khả phân giữa Ngài với Thiên Chúa: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”. Ngay từ lúc này, Ngài để cho thoáng thấy ý nghĩa cuộc đời Ngài: Ngài đến để mặc khải Chúa Cha; Ngài phải thi hành ý muốn của Cha Ngài. Đồng thời Đức Giê-su cũng ghi nhận những khoảng cách của Ngài đối với cha mẹ trần thế của Ngài: tình mẫu tử của Đức Ma-ri-a, tình phụ tử của thánh Giu-se phải nhường bước trước sứ mạng cao cả và mầu nhiệm hơn của người con này mà Thiên Chúa đã trao gởi cho họ. Dù “ông bà không hiểu lời Ngài vừa nói”, tuy nhiên “riêng mẹ Ngài thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng”. Với câu ghi nhận này, thánh Lu-ca chỉ cho chúng ta một trong những nguồn sách Tin Mừng về Thời Thơ Ấu của Đức Giê-su mà thánh ký đã đón nhận, hoặc từ chính Đức Trinh Nữ, nếu thánh ký đã đích thân gặp gỡ Mẹ, hoặc qua thánh Gioan, người môn đệ Chúa yêu mà Mẹ đã sống cùng (Ga 19: 25-27) và chắc chắn đã thổ lộ một số lượng kỷ niệm với người môn đệ này. 
4.Dấu chỉ:
Sau hai ngày tất tả tìm kiếm, “vào ngày thứ ba” họ mới tìm thấy Ngài. Không thể không đọc thấy ở nơi những sự kiện và những lời này, một dấu chỉ báo trước những đau khổ mà Ngài sẽ phải chịu trong biến cố Tử Nạn và những lần gặp lại Ngài cũng vào ngày thứ ba sau khi Ngài sống lại. Không tác giả Tin Mừng nào tường thuật Đấng Phục Sinh hiện ra với Mẹ mình. Phải chăng người ta có thể nói rằng việc ghi nhận Đức Ma-ri-a gặp lại Ngài ở đây ẩn chứa một cuộc gặp gỡ của Mẹ Ngài với Ngài khi Ngài sống lại? Hơn nữa, việc ghi nhận này được định vị ngay sau lễ Vượt Qua mà Đức Giê-su vừa mừng lễ ở Giê-ru-sa-lem…  


25. Học hỏi Phúc âm: CN Lễ Thánh Gia Thất - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu S.J.  
41 Hằng năm cha mẹ Ngài đi Yêrusalem vào dịp lễ Vượt qua. 42 Khi Ngài lên mười hai tuổi, ông bà cũng lên theo thói lễ; 43 và khi các ngày đã mãn, và ông bà trở về, thì trẻ Yêsu ở lại Yêrusalem, mà cha mẹ Ngài không hay. 44 Nghĩ là Ngài có trong đoàn lữ hành, nên ông bà đi một ngày đàng, cố tìm kiếm Ngài giữa hàng bà con quen thuộc. 45 Nhưng không tìm ra, ông bà mới quay trở lại Yêrusalem, mà tìm kiếm Ngài. 46 Và xảy ra là: sau ba ngày ông bà đã gặp được Ngài trong Ðền thờ, ngồi giữa các tấn sĩ mà nghe và hỏi họ. 47 Mọi kẻ nghe Ngài đều sửng sốt về trí thông minh và các lời Ngài đối đáp. 48 Thấy Ngài ông bà thất kinh, và mẹ Ngài nói cùng Ngài: "Này con, tại sao con làm thế? Này cha con và mẹ phải đau khổ tìm con!" 49 Nhưng Ngài đáp lại: "Thì tại sao tìm con? Lại còn không biết là con phải ở lại nơi nhà Cha con sao?" 50 Nhưng ông bà đã không hiểu lời Ngài nói với họ.
51 Và Ngài đã xuống với ông bà về Nazaret. Và Ngài hằng tùng phục hai ông bà. 52 Và Ðức Yêsu cứ tấn tới thêm về khôn ngoan, vóc dạng, và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta.
Học hỏi :
1.  Đọc Lc 2, 41-42. Bạn nghĩ gì về lòng đạo đức của cha mẹ Đức Giê su qua đoạn Phúc âm này ?
2.  Đọc Lc 2,46-47. Bạn có nghĩ Đức Giêsu năm 12 tuổi là một thần đồng không ? Ngài có phải là một bậc thầy không ? Ngài có cần học không ? Đọc thêm Lc 2,52.
3.  Đọc Lc 2,48. Bạn nghĩ gì về câu nói của Đức Mẹ ?
4.  Đọc Lc 2,49. Câu trả lời của Đức Giêsu vén mở cho ta thấy điều gì về con người Ngài? Tại sao cha mẹ Đức Giêsu lại không hiểu?
5.  Đức Giêsu có bị giằng co giữa sự vâng phục đối với cha mẹ và sự vâng phục đối với Thiên Chúa không? Rốt cuộc Đức Giê su đã chọn ai ? Ngài có phải trả giá không ? Đọc Lc 2,49. 51.
6.  Cậu bé Giêsu có phải là đứa con bướng bỉnh khi sống với cha mẹ ở mái nhà Na-da-rét không ?
7.  Đọc Lc 2,52. Cậu Giêsu lớn lên về những mặt nào ? Cậu có lớn lên một cách quân bình không ?
8.  Luca 2,40 và Luca 2,52 có cho thấy những giai đoạn lớn lên khác nhau của Đức Giêsu không ?
9.  Đọc Lc 2,19 v à Lc 2,51. Mẹ Maria thường có thái độ nào khi gặp một biến cố khó hiểu ?
10. Qua đoạn Phúc âm này, bạn học được gì nơi Thánh Gia ? Gia đình ngày nay thiếu trầm trọng điều gì ?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét