LỊCH SỬ CỨU ÐỘ
ĐGM. Giuse Võ Ðức
Minh
Viết từ tác phẩm
"Salvation History" của Neal M. Flanacan, ofm
CHƯƠNG III
QUỐC GIA VÀ VƯƠNG QUỐC
MỘT QUỐC GIA (Ðọc
Yôsua, các chương 1 - 12 và 24).
Sau khi Môsê, tôi tớ
Yavê chết rồi, Yavê phán với YÔSUA, con của Nun, tôi bộc của Môsê rằng :
"Môsê tôi tớ của Ta đã chết. Vậy bây giờ ngươi hãy chỗi dậy qua sông Yodan
kia, ngươi và toàn dân này, mà vào đất Ta ban cho chúng - cho con cái Israel, mọi
nơi bàn chân các ngươi dẫm lên, thì Ta đã ban cho các ngươi rồi, như Ta đã phán
với Môsê" (Yôsua 1, 1 - 13).
Không có đất đai và
xứ sở riêng, thì một dân tộc chưa phải là một quốc gia. Ðó là trường hợp dân
Israel. Khi Môsê chết thì họ hãy còn là dân du mục. Sách Yôsua thuật cho chúng
ta việc đánh chiếm đất Canaan và dòng giống Abraham biến chuyển thành một dân tộc.
Môsê như chúng ta thấy,
không phải là người dẫn đưa dân chúng vào đất Canaan. Nhiệm vụ này viên phụ tá
của ông là Yôsua phải gánh vác. Yôsua là con của Nun, chi tộc Eprhaim, đã được
phong làm kẻ kế vị Môsê trong một nghi lễ được chính thức cử hành trước mặt vị
tư tế và toàn thể cộng đồng (Dân Số 27, 22 - 23). Bước đầu tiên trong cuộc
chinh phục là vượt qua sông Yodan, biên giới phía đông của Canaan. Ở đây xảy ra
một sự kiện linh thiêng, tương tự như việc vượt Biển Ðỏ (Hồng Hải) thời Môsê.
Khi Khám Giao Ước đi vào, thì nước sông Yodan liền khô cạn. Trên bờ phía tây của
con sông thuộc lãnh thổ Canaan, lễ Vượt Qua được cử hành và Khám Giao Ước được
đặt vào lều tại Galgal, và ở lại đó trong khoảng 5 năm.
Cuộc giáp mặt đầu
tiên với dân Canaan xảy ra tại Yêricô, gần chỗ vượt sông. Ở đây, Thiên Chúa một
lần nữa cứu trợ Dân Ngài và thành này đã bị chiếm đóng cách dễ dàng. Một lần nữa
Thiên Chúa bước vào những cuộc mạo hiễm của dân Israel, để dân chúng tin tưởng
rằng Ngài luôn luôn có mặt giữa họ và hằng bênh đỡ họ. Chính sự tin tưởng này của
dân Israel sẽ giúp giải nghĩa được một loạt những biến cố trong lịch sử Yôsua
mà một độc giả thời nay có thể cho là gai chướng. Trong nhiều trường hợp chúng
ta đọc thấy trong Yôsua những cuộc tàn sát tận diệt tất cả những cư dân trong
những thành bị dân Israel tràn ngập. Ðó là một cách thông thường thời ấy. Nó đã
được áp dụng và hoan nghênh bởi những người Môab và Ammônít sống ở phía đông
Canaan và những người Assyriên sống ở miền đông bắc vài kỷ nguyên sau đó. Những
cuộc thánh chiến Aicập, vào kỷ nguyên sau Thiên Chúa giáng sinh cũng sử dụng
chiến thuật tương tự, và ngay cả những quân thập tự cũng nhúng gươm vào những
máu vô tội. Phương tiện tối tân của một cuộc chiến tranh toàn diện thời nay
cũng chỉ là một quan điểm phổ biến về sự tiêu diệt như thế (hãy nhớ lại
Hiroshima và Nagasaki). Những điều có thể coi là gai chướng trong sách Yôsua là
nó quả quyết rằng những cuộc tàn sát của Israel là do lệnh Thiên Chúa truyền.
Một số học giả về vấn
đề này đã lý luận rằng Thiên Chúa có toàn quyền trên tính mạng, và Ngài được
phép thực hiện quyền ấy một ách thích hợp xuyên qua những cuộc tàn sát của dân
Israel, cũng như xuyên qua những tai nạn ôtô, bão lụt, động đất . Giải thích
như thế nghe cũng tạm được.
Tuy nhiên cũng có thể
giải thích một cách khác hẳn sự Thiên Chúa ra lệnh tàn sát. Dân Hippri nhận định,
càng rõ ràng hơn chúng ta rằng Thiên Chúa là căn nguyên mọi sự, bất cứ việc gì
xảy đến cũng đều do phần nào bởi Thiên Chúa. Dân Israel hoàn toàn tin chắc như
thế. Họ cũng thấy rõ ràng rằng những cuộc tàn sát cũng có một số hiệu quả tốt.
Họ trừng phạt những việc sùng bái thô tục của người Canaan, họ lấy đất cho Mười
Hai chi tộc, và thu hẹp lại hoặc bài trừ tận gốc những quyến rũ nguy hại trong
việc sùng bái ngẫu tượng mà người Canaan phổ biến cho dân Israel. Bởi thế tác
giả sách Yôsua muốn nhấn mạnh sự phối hợp những hiệu quả tốt của các cuộc tàn
sát, với sự Thiên Chúa là căn nguyên mọi sự, cho nên ông nói rằng Thiên Chúa đã
ra lệnh tàn sát. Bất cứ điều gì do Thiên Chúa mà ra (và Thiên Chúa là căn
nguyên mọi sự), hễ có hiệu quả tốt đều là do lệnh Thiên Chúa, đó là cách lý luận
của tác giả, là lối nói của ông. Hiểu như vậy có lẽ là cách giải thích đúng nhất
và an ủi nhất đối với vấn đề nan giải này.
Cuộc chinh phục
Canaan nói chung là đã thành công. Một vài ổ kháng cự tuy vẫn còn kéo dài nhiều
năm, nói đúng ra, nhiều thế kỷ, nhưng hầu hết các thành trì Canaan đều được
chinh phục trong vòng năm mươi năm. Ngoài yếu tố trợ lực của Thiên Chúa, còn
hai sự kiện hoàn toàn tự nhiên đã khiến cho dân Canaan bị bại trận : Một là họ
thiếu thống nhất, sách Yôsua chương 12 câu 34 có nói tới 31 vị vua riêng biệt
trong đất nước nhỏ bé này. Trong hoàn cảnh đó, dân Israel không cần chia rẽ họ
để mà chinh phục, vì chính dân Canaan đã bị chia rẽ rồi. Sự kiện tự nhiên thứ
hai làm cho dân Canaan bại trận là vì đang khi họ chống cự với dân Israel tấn
công từ phía đông, thì họ lại bị xâm lăng từ bờ biển phía tây do dân Philitinh,
những người sống ở trên những đảo gần Hylạp, kết quả của sự bị tấn công cả hai
mặt không thể nào tránh khỏi. Dân Canaan bị bại và phần đông những người còn sống
sót thì di chuyển về phía bắc vào phần đất gọi là Phênicia, nơi đó họ xây dựng
một đế quốc nổi tiếng về hàng hải. Hai thành phố danh tiếng nhất của họ là Tyrô
và Siđôn.
Khi dân Canaan bị đẩy
lui hay bị giết, đất của họ bị phân chia cho những thị tộc Israel. Ruben, Gad
và phân nửa thị tộc Manassê đã nhận được phần đất ở phía đông sông Yodan, gọi
là miền bên kia sông Yodan. Những thị tộc khác bây giờ mới nhận lãnh phần của họ.
Ranh giới của những phần đất này không thể xác định được một cách rõ ràng,
nhưng bản đồ cũng cho thấy được những nơi các thị tộc định cư. Những người Lêvi
như chúng ta đã ghi chú, không có một lãnh thổ chung nào, mặc dầu họ đã được
các thị tộc kia nhường cho một số thành.
Ranh giới giữa các
thị tộc và quốc gia của họ là như thế, trong khoảng độ hai trăm năm. Ðó là một
quốc gia không có vua, không có thủ đô, không có nghị viện. Cái làm cho họ hợp
nhất lại với nhau, chính là ở sự họ thuộc về Yavê, họ có tôn giáo chung. Dấu hiệu
rõ rệt bề ngoài của sự thống nhất tôn giáo này là Khám Giao Ước được đặt trong
lều tại thành Silô trong đất Ephraim (Yôsua 18, 1).
Biến cố cuối cùng vừa
có ý nghĩa lịch sử vừa có ý nghĩa tôn giáo, trong chuyện Israel trở thành một
quốc gia, được thuật lại trong sách Yôsua ở chương 8 và 24. Những chương ấy tường
thuật lại việc Yôsua tổ chức nghi lễ rất cảm động nhắc lại lời Giao Ước. Dân
chúng thề hứa trung thành với Thiên Chúa của mình và tuân phục giới răng của
Ngài. Lời Giao Ước giữa Thiên Chúa và Môsê không phải là một sự kiện bất động.
Những người mới sinh trong quốc gia này và trong tôn giáo này phải bước vào
giao ước một cách tự nguyện, phải dấn thân vào giao ước ấy một cách mạnh mẽ chẳng
khác gì Môsê và tổ tiên của họ trong sa mạc xưa kia.
Qua sự kiện Israel
đã thu nhận đất đai và trở nên một quốc gia như lời hứa thứ nhì mà xưa kia
Thiên Chúa phán với Abraham đã được thực hiện. Lời hứa thứ nhất là một dòng giống
đông đảo phát xuất từ một người con trai chưa sinh của Sara, người vợ già và
son sẻ của Abraham. Lời hứa này đã trọn vẹn qua sự Isaac ra đời và sự bành trướng
của dân Israel. Lời hứa thứ hai là sẽ ban đất cho. Lời hứa này được thực hiện ở
cuối sách Yôsua. Nhưng vẫn còn chưa thấy thực hiện lời nói huyền nhiệm về phúc
lành sẽ đổ xuống trên các dân vì Abraham và gia đình ông.
THỜI KỲ CÁC THẨM
PHÁN (Ðọc "Thẩm Phán" các chương 1 - 16).
Thời kỳ này kéo dài
khoảng 200 năm từ khi xảy ra vụ đạo binh của Yôsua xâm lấn xứ Canaan. Trong lúc
đó, như chúng ta đã nói ở trước, quốc gia được thống nhất bằng bối cảnh một gia
đình chung và nhất là bằng tôn giáo chung thể hiện qua Khám Giao Ước. Từ ngữ Thẩm
Phán ở đây, có phần nào không thích đáng lắm, bởi vì những người được chỉ định
như thế không phải là những vị thẩm phán theo kiểu nói của chúng ta ngày nay.
Ðúng hơn họ là những người được thiên phú tài lãnh đạo quân sự, tương tự Yoan
dArc, nhưng không nhất thiết là có sự thánh thiện như Yoan dArc. Họ là những
người Thiên Chúa chọn để lãnh đạo dân chúng trong thời kỳ nguy cơ chiến tranh
như thế rất nhiều, bởi vì nước Israel giáp giới với kẻ thù ở phía bắc và phía
đông, và nguy hiểm nhất là quân Philitinh, sống bên trong đất Canaan dọc theo đồng
bằng Sharon trên bờ Ðịa Trung Hải.
Thời kỳ này rất ít
quan trọng đối với lịch sử cứu độ, ngoại trừ việc nó cho thấy Dân Thiên Chúa vi
phạm giới luật Ngài một cách thường xuyên và dễ dàng, sự họ tin tưởng vững vàng
vào lời Giao Ước và lòng nhân từ khoan dung của Thiên Chúa. Trong hai thế kỷ
này, dân Israel đã hai lần bỏ Thiên Chúa để tôn thờ ngẫu tượng. Không phải là tất
cả những người ngoại giáo Canaan đã bị tận diệt, và ảnh hưởng các nghi lễ tà
giáo của họ cũng chưa hẳn là đã hoàn toàn bị loại trừ. Dân Israel đôi khi từ bỏ
Thiên Chúa của mình để bái phục dưới chân tượng Baal và Astarte của dân Canaan,
đó là hai vị thần nam và thần nữ của sự sinh sản đông đảo. Vì lý do đó, theo lời
của tác giả sách Thẩm Phán, Thiên Chúa đã trừng phạt Israel bằng cách cho chỗi
dậy những kẻ thù ác liệt.
Nhưng Thiên Chúa
cũng rất từ bi, Ngài cũng cho chỗi dậy những nhà lãnh đạo quân sự, những vị thẩm
phán để cứu dân Israel, một khi cơn trừng phạt đã chấm dứt. Mười hai vị trong số
những nhà lãnh đạo đó đã được kể tên, và một số mẫu chuyện về những chiến công
của họ chẳng khác nào những bản anh hùng ca. Chẳng hạn, Êhud của thị tộc
Benjamin, chuyên sử dụng tay trái, đã giết được vua Êglon xứ Moab, với một đoản
kiếm hai lưỡi độ một xích bề dài (Thẩm Phán 3, 12 - 30). Và Ghêđêôn của thị tộc
Manassê đã giảm bớt dần dần quân số, để chứng tỏ rằng sức mạnh quân sự của ông
không phải là do số lượng, song là nhờ sự trợ lực của Thiên Chúa. Rồi với một đạo
quân rất ít người, ông đã đánh bại quân thù gấp bội (Thẩm Phán 6, 1 - 8, 28).
Và ai có thể quên được Samson thuộc thị tộc Ðan. Samson con người tội lỗi
"người khổng lồ với cặp chân bằng đất sét" ? Ông đã tổ chức những cuộc
mạo hiểm táo bạo chống lại quân Philitinh, và mặc dù bản tính vốn nhục dục và
tàn bạo, chính ông là kẻ đã bảo vệ dân Israel đánh trả những quân thù mạnh mẽ
hơn, vì họ có những xe trận và những vũ khí mà dân Israel không có (Thẩm Phán
13, 1 - 16, 31).
Thời kỳ này còn có
câu chuyện bà Rút, sống dưới thời các vị Thẩm Phán. Cái đẹp của câu chuyện
chính ở mối tình tha thiết của bà quả phụ Rút đối với Nôêmi, mẹ chồng của mình.
Nhưng Rút nói :
"Mẹ đừng giục con bỏ mẹ mà lui về không theo mẹ nữa ! Vì mẹ đi đâu con sẽ
đi đó. Dân của mẹ sẽ là dân của con, và Thiên Chúa của mẹ sẽ là Thiên Chúa của
con" (Rút 1, 16).
Tuy nhiên trong lịch
sử cứu độ, thì sự quan trọng trong sách bà Rút là do người con của bà ấy tên là
Abed. "CHính Obed là cha của Ysai, thân sinh của Ðavít" (Rút 4, 17),
ông này sẽ làm vua dân Israel và bà Rút là bà ngoại của Ðavít.
VƯƠNG QUỐC
SAMUEL VÀ SAUL (Ðọc
sách Các Vua I, cũng gọi là sách Samuel II).
Samuel sinh vào khoảng
1060 trước Thiên Chúa giáng sinh, lúc cha mẹ đã già và chưa có con. Do đó việc
ông sinh ra là một việc của Thiên Chúa đúng với ý nghĩa của các từ ngữ ấy. Khi
còn bé ông đã được đưa vào thánh điện của Khám Giao Ước ỡ thành Silô. Nơi đó mặc
dù hãy còn thơ dại, ông đã phụng sự Thiên Chúa. Êli là vị tư tế của đền thánh
lúc bấy giờ, ông là một con người tính tình nhu nhược, không đủ uy quyền để sửa
trị hai cậu con trai của ông, thường trộm cắp những lễ vật dâng cho Thiên Chúa
và ăn nằm với những phụ nữ đến Silô. Bởi đó giữa một đêm tối tăm kia, Thiên
Chúa đã gọi Samuel, trẻ Samuel liền đáp : "Lạy Chúa xin hãy phán dạy"
và Thiên Chúa đã phán những lời khiến cho mọi người nghe đều kinh hãi, Ngài báo
trước tai họa sẽ giáng xuống ; sự trừng phạt Êli và hai đứa con trai của ông.
Và những điều ấy đã sớm xảy ra, trong trận giao chiến ở Aphek (khoảng 1050 trước
Thiên Chúa giáng sinh), cả hai người con trai đều bị giết trong khi quân của Israel
tháo lui trước những vũ khí bằng sắt của quân Philitinh. Ngay cả Khám Giao Ước
cũng bị cướp đoạt. Và Êli, khi nghe những tin hãi hùng ấy, đã từ trên chiệc ghế
ông đang ngồi, ngã ngữa ra chết.
Trong vòng 20 năm từ
khi Êli chết, Samuel là nhân vật lãnh đạo quốc gia. Ông thực là một thẩm phán,
vị thẩm phán cuối cùng và là người đứng ra giải quyết các công việc đồng bào
đem đến cho ông. Hơn nữa, quan trọng hơn rất nhiều, ông còn là một tiên tri, sứ
giả của Thiên Chúa, truyền đạt lại Thánh Ý Thiên Chúa cho dân chúng, và dâng lời
cầu xin của dân chúng lên Thiên Chúa. Samuel được gọi là vị thẩm phán cuối cùng
và là vị tiên tri thứ nhất. Ðúng như thế, nếu chúng ta hiểu rằng "Vị tiên
tri thứ nhất" có nghĩa là vị đầu tiên trong một hàng dài và liên tục những
vị tiên tri chỗi dậy trong các thế hệ kế tiếp. Trước ông và rất xa ông về thời
gian, có Abraham và Môsê, cả hai đều là những phát ngôn viên nổi tiếng của
Thiên Chúa, nhưng kể từ Samuel trở đi, thì mỗi thế kỷ đều có vị tiên tri của
mình, và Samuel là người đứng hàng đầu trong các vị tiên tri ấy.
Ðời sống của vị tiên
tri này không được hạnh phúc và bằng an lắm. Khám Giao Ước đã bị quân Philitinh
chiếm đoạt và giữ lấy trong vài năm, và bị giữ tại thành nào thì thành đó bị
tai họa nhiều. Sự mất Khám Giao Ước đã làm Samuel đau lòng hơn các đồng bào của
ông nhiều. Tệ hơn nữa, khi mất Khám Giao Ước, dân Israel cũng mất cả niềm tin
nơi Thiên Chúa quan phòng. Thành điện ở Silô điêu tàn ; Khám Giao Ước đã bị cướp
đoạt. Dân Israel tìm kiếm lý do để giải thích sự thành công của quân thù và sự
thất bại của chính mình. Những nước lân bang đều có những người làm vua, còn họ
thì không có. Có lẽ đó là điều họ cần chăng, và dân Israel đã yêu cầu Samuel
phong cho họ một người làm vua. Từ trước tới nay, vua của họ, vua độc nhất của
họ chính là Thiên Chúa. Giờ đây giữa lúc suy yếu, họ cho rằng vương quyền của
Thiên Chúa chưa đủ, họ hết còn hy vọng ở vị Vua trên trời, mà chỉ ước mong một
vị vua nơi trần thế, khả dĩ mang lại thành công cho họ.
Samuel coi việc yêu
cầu phải có một người làm vua như thế là từ bỏ Thiên Chúa, nhưng ông không thể
làm cho dân chúng thay lòng đổi dạ. Họ đã kêu lên : "Không, thế nào cũng
phải có vua cho chúng tôi để chúng tôi nên như mọi dân tộc khác. Vua chúng tôi
sẽ cai trị chúng tôi, xuất chinh đi trước chúng tôi và giao chiến các cuộc chiến
của chúng tôi ." Và Thiên Chúa phán bảo Samuel : "Ngươi cứ nghe tiếng
chúng mà đặt một vua trên chúng". (Các Vua I, hay Samuel I. 8, 19 - 22).
Vị vua đầu tiên của
Israel là Saul thuộc thị tộc Benjamin "Trong hàng con cái Israel không ai
tuấn tú bằng ông ; ông cao hơn tất cả dân từ vai trở lên " (Các Vua I hay
SamuelI 9, 20). Ông xuất hiện lần đầu tiên với một dáng điệu tầm thường nhất,
bước đi khập khiểng trên con đường dẫn về phía bắc, băng qua miền cao nguyên xứ
Ephraim để tìm kiếm những con lừa cái của cha ông đã bị lạc mất. Nhờ tiên tri
Samuel, ông đã tìm lại được những con lừa này. Câu chuyện lên đến cực điểm khi
Samuel lấy dầu xức cho Saul để tấn phong ông làm vua Israel.
Những năm đầu tiên ở
ngôi vua, Saul rất thành công. Tất cả những hành động của ông đều thuộc về
phương diện quân sự. Sau khi đã tổ chức và thống nhất các lực lượng Israel, ông
đưa họ đi giao chiến với quân Phlitinh, đẩy lui những quân này về tận xứ của họ
dọc theo bờ biển phía tây Phalệtinh. Saul đúng là một chiến sĩ hơn là một vị
vua. Thủ đô Gibea của ông cách Yêrusalem về phía bắc độ vài dặm đã được thiết lập.
Kích thước khiêm tốn những ngôi nhà của nó dưới thời Saul cho thấy rằng Saul
không màng chi đến danh vọng thế trần, khác hẳn những vị vua kế tiếp ông.
Tuy nhiên câu chuyện
của Saul kết thúc một cách rất bi thảm. Ðã được Thiên Chúa tuyển chọn và được xức
dầu để đại diện Ngài, ông đã không ăn ở đúng với trách nhệm cao vời của ông.
Ông nghe lời dân chúng hơn là nghe lời Yavê. Những lời lên án của Samuel trong
sách Các Vua I (hay Samuel I) 15, 22 - 23 vạch rõ tội trạng : "Phải chăng
Yavê vui nơi thượng hiến và lễ tế bằng vâng nghe tiếng của Yavê ? Này vâng nghe
tốt lành hơn lễ tế, và tuân lệnh quí hơn mỡ béo của dê. Vì cưỡng lệnh khác gì tội
bói toán và bất phục cũng bằng tội bất công và tôn thờ ngẫu tượng. Vì ông đã phế
bỏ lời của Yavê, Yavê đã phế bỏ ông, ông hết làm vua".
Sau vụ truất phế
này, Saul mỗi ngày một hóa ra tệ hơn. Từ chỗ bất tuân lệnh, ông đi đến chỗ hạ
sát các tư tế thành Nôb, từ chỗ ghen tị đến chỗ điên khùng vì mặc cảm bị bách hại,
bởi đó ông sống phí sức lực và thời giờ để đuổi bắt Ðavít một cách luống công,
đang khi đó kẻ thù đích thực của dân Israel, chính là quân Philitinh lại thu hoạch
được nhiều chiến thắng. Ông chết do chính bàn tay của ông (Các Vua II. 1, 10).
Ngay cả tác giả cũng không cho cách mô tả nào là chính xác hơn. Ðó là cuộc đời
đáng thương hại và sự kết kiễu bi thảm của một con người ở ngôi vua mà không
làm đúng theo ý Thiên Chúa. Quyền lên ngôi vua cũng chấm dứt theo ông, bởi vì
con cái của ông không được kế vị. Vậy qua Saul, quốc gia đã trở thành vương quốc.
VUA ÐAVÍT (Ðọc sách
Các Vua II, cũng còn gọi là sách Samuel II).
Ðavít được giới thiệu
lần đầu tiên cho chúng ta trong mối tương quan với sự sụp đổ của Saul trước mặt
Thiên Chúa. Tiên tri Samuel được lệnh đi đến Belem để xức dầu cho một người sẽ
thay thế Saul. Người ấy đã được tìm thấy, chính là Ðavít, người con nhỏ nhất của
Ysai, và có "mái tóc hoe hoe, đôi mắt xinh xắn, dáng vẻ khôi ngô".
Ðavít trông có vẻ một cậu con trai đầy đủ đức tính của người Israel nhất, và
đúng như vậy, cây đàn của cậu đã làm khuây khỏa nổi buồn rầu cay đắng của Saul.
Cái ná của cậu đã phóng một viên đá nhẵn nhụi đánh gục Gôliat, một người khổng
lồ trong đạo quân Philitinh và đã đem lại chiến thắng cho quân binh Israel. Sự
chính xác của Ðavít trong việc sử dụng ná và viên đá nhắc chúng ta nhớ câu nói
thậm xưng táo bạo trong sách Thẩm Phán chương 20 câu 18, thuật lại việc những
người thuộc thị tộc Benjamin (cũng như Ðavít) tập họp để giao chiến :
"Trong tất cả quân binh ấy có bảy trăm quân tinh nhuệ thuận cả hai tay, mỗi
người có thể dùng ná bắn đá một sợi tóc cũng không sai". Ðavít chắc là
cũng chẳng kém chính xác.
Mối quan hệ giữa
Ðavít với vua Saul và gia đình vua ấy đã bị rắc rối vì nhà vua ghen tỵ ông. Về
phần Ðavít, ông vẫn luôn kính trong Saul đến độ có một lần kia (Các Vua I, 24,
1 - 22 ; 26, 1 - 25), Ðavít có thể giết Saul cách dễ dàng, đang khi ông này tìm
cách sát hại ông. Nhưng Ðavít đã bỏ qua cơ hội ấy, bởi vì lòng luôn luôn kính
trọng vị đã được Thiên Chúa xức dầu.
Mối tình bằng hữu một
ngày một thêm khăng khít giữa Ðavít và Yônathan đã trở thành tục ngữ. Chúng ta
được thuật lại rằng "Linh hồn của Yônathan khăng khít với linh hồn của
Ðavít, và Yônathan yêu Ðavít như chính mình vậy". Và con gái của Saul tên
là Michal đã trở thành vợ của Ðavít. Thật là chuyện kỳ lạ ! Saul trong lúc điên
cuồng, đã tìm cách giết Ðavít, chồng của con gái mình và là bạn chí thân của
con trai mình. Cuối cùng, khi Saul và Yônathan bị quân Philitinh giết, Ðavít đã
hát một khúc ai ca mà chúng ta ngày nay, đã cách 3000 năm rồi, vẫn còn cảm thấy
mối xúc động sâu xa :
"Israel hỡi !
Tinh hoa đã bị chết đẫm trên các mỏm đồi nơi ngươi ! Làm sao anh hùng đã ngã ?.
Núi non Gilboa ! Chớ hề có được trên ngươi sương móc, mưa nguồn . vì ở đó, thuẩn
của anh hùng đã ra hoen ố, thuẩn của Saul. Saul và Yônathan đáng mến dễ thương,
khi sống khi chết không hề chia phôi, họ lanh hơn cắt, mạnh hơn sư tử . Làm sao
anh hùng đã ngã ? Ngay giữa chiến trường đã bị chết đâm, Yônathan trên các mỏm
đồi nơi ngươi ? Tôi những đòi đoạn về anh Yônathan hỡi ! Thương anh vô hồi !
Tình anh đối với tôi thật quá phi thường, quá hơn tình của nữ lưu thiên hạ. Làm
sao anh hùng đã ngã ? Làm sao binh khí trận vong ?" (Các vua II. 1, 19 -
27).
Sau khi Saul chết, một
cuộc nội chiến ngắn xảy ra để chọn người kế vị ông. Miền bắc thì ủng hộ Ishbaal
người con trai còn sống sót của Saul ; đang khi đó miền nam lại ủng hộ Ðavít,
tôn ông lên làm vua tại thành Hêbron. Tuy nhiên cuộc nội chiến đã sớm chấm dứt
và Ðavít được công nhận là vua Israel. Nguy cơ sự tranh chấp giữa hai miền nam
bắc vẫn còn, bởi đó Ðavít chọn làm thủ đô một thành mà ông vừa mới chinh phục ;
một thành dĩ nhiên là không có liên quan gì trong quá khứ với bản đồ của miền
nào cả. Thành phố đó là Yêrusalem, gần ranh giới nam bắc. Ở đây Ðavít cai trị
khoảng 40 năm. Ðiều này cho phép chúng ta ghi chú được một trong những niên đại
bản lề, niên đại dễ nhớ đối với Cựu Ước. Năm 1000 trước Thiên Chúa giáng sinh,
Ðavít làm vua tại Yêrusalem. Ðể thành ấy không phải chỉ là một trung tâm chính
trị mà thôi, Ðavít đưa về đó Khám Giao Ước đã đoạt lại khỏi tay quân Philitinh.
Với sự di chuyển khôn ngoan này, Ðavít đã làm cho Yêrusalem trở thành một trung
tâm tôn giáo của Phalệtinh, nơi hiện diện của Thiên Chúa và là trung tâm thờ phụng
của dân Israel.
Câu chuyện về đời sống
của Ðavít sẽ thiếu sót nếu bỏ qua một trọng tội ông đã phạm và hình phạt tiếp
theo đó. Sự quá say mê Bat-shêba, vợ của Uria đã làm cho Ðavít sa đọa. Tội ngoại
tình kèm theo tội sát nhân khi Ðavít âm mưu đưa Uria vào một chổ giao tranh ác
liệt nhất. Âm mưu ấy đã thành công : Uria bị giết và Bat-shêba vào cung điện của
Ðavít để làm hoàng hậu, đang khi bà cất bước vào cung, thì một khuôn mặt can đảm
xuất hiện, đó là Nathan vị tiên tri của Thiên Chúa, người kế vị Samuel giờ đây
đã chết, ông đối diện với vị vua uy quyền này, khiển trách ông về những tội ác
ông đã phạm và báo trước những hình phạt Thiên Chúa sẽ giáng xuống cho ông vì
những tội lỗi ấy. Câu trả lời của Ðavít tuy đơn sơ nhưng rất đáng cảm phục
"Tôi đã phạm tội nghịch với Yavê". Sau đó Ðavít trai giới bảy ngày bảy
đêm.
Những năm kế tiếp,
Ðavít gặp rất nhiều khó khăn chưa từng có người nào, sau khi yếu đuối sa ngã,
đã phải đau khổ như Ðavít. Yônathan, người bạn tâm phúc nhất của ông đã chết.
Michal, người vợ thứ nhất của ông trở thành một mụ khó nết. Absolôm, một trong
những người con ông thương yêu nhất, nổi loạn để cướp ngôi cha và suýt thành
công. Dẫu vậy, khi đứa con phản nghịch này bị giết, Ðavít đã khóc nức nở :
"Absolôm con ơi ! Con ơi ! Phải chi cha chết thay cho con !" (Các Vua
2. 18 ; 33).
Ðavít quả thật là một
con người rất lạ thường : Là một cậu bé chăn cừu, một chiến sĩ anh hùng, một
người si tình, một tướng cứơp, một thi sĩ, một đế vương, một người tội lỗi, một
người biết thống hối, một người cha nhân từ, một người bạn trung tín, người
sáng lập một triều đại vĩnh cữu ! Xuyên qua nhiều thế kỷ sau này, ông vẫn là vị
vua của Israel, là tiêu chuẩn cho các vị vua kế tiếp.
ÐAVÍT VÀ LỊCH SỬ CỨU
ÐỘ (Ðọc lại sách Các Vua II, chương 7).
Sở dĩ chúng ta đã để
nhiều thì giờ đi vào chi tiết tiểu sử của Ðavít, chính là vì muốn làm nổi bật
con người này, một con người đóng một vai trò rất quan trọng trong lịch sử cứu
độ. Mãi cho đến khi Ðavít xuất hiện, lịch sử cứu độ này đã cho thấy Thiên Chúa
tuyển chọn một người, Abraham, và ông này đã sinh ra một người con (Isaac) mà
dòng giống đã bành trướng thành một gia đình, một dân tộc, một quốc gia, một
vương quốc. Ðiều này có nghĩa là từ trước tới sau niềm hy vọng cứu độ vẫn nằm
nơi một người, nơi gia đình ông, dân tộc ông, quốc gia ông và vương quốc của
ông. Ðó chính là hình ảnh khi Ðavít được xức dầu phong vương. Tuy nhiên, trong
suốt triều đại của Ðavít, xảy ra một sự kiện làm cho niềm hy vọng cứu độ quay
sang một chiều hướng mới. Trong sách Các Vua, chương 7, chúng ta đọc thấy rằng
khi Ðavít đã hoàn tất việc xây cất cung điện của ông, thì ông lấy làm hổ thẹn
khi nghĩ đến Khám Giao Ước, nơi hiện diện của Thiên Chúa, chỉ được che chở bằng
chiếc lều Nhà Tạm không mấy lộng lẫy, ông bắt đầu dự tính xây một đền thờ, một
ngôi nhà tráng lệ cho Thiên Chúa. Nhưng cũng chính đêm ấy, Yavê có lời phán với
Nathan. Ðó là một sứ điệp sâu xa, gây ấn tượng đậm đà trong tâm hồn người
Israel. Thay vì để cho Ðavít cất nhà cho Yavê, thì Yavê sẽ thiết lập nhà cho
Ðavít, nghĩa là sẽ thiết lập một triều đại. Chúng ta hãy đọc chính văn bản :
"Và chỉ có
ngươi là được Yavê loan báo rằng : chính Yavê sẽ làm cho ngươi có nhà, khi ngày
đời ngươi đã mãn và ngươi yên nghỉ nằm xuống với tổ tiên ngươi, Ta sẽ cho dòng
giống ngươi chỗi dậy kế vị ngươi, dòng giống xuất tự lòng dạ ngươi và Ta sẽ cho
vương quyền nó kiên vững. Chính nó sẽ xây nhà cho Danh Ta, và Ta sẽ cho ngai
vương quyền nó kiên vững muôn đời. Ta sẽ là Cha nó và nó sẽ là con Ta. Nó có lầm
lỗi thì Ta sẽ sửa trị nó bằng roi người phàm, bằng đòn nhân loại trị nhau.
Nhưng lòng nhân nghĩa của Ta sẽ không rời xa nó, như Ta đã cho rời khỏi Saul, kẻ
Ta đã truất khỏi trước mặt ngươi. Nhà ngươi và vương quyền của ngươi sẽ kiến cố
mãi mãi trước mặt Ta, ngai ngươi sẽ vững bền mãi mãi" (Các Vua II hay
Samuel II. 7, 11 - 16).
Ðó là lời tiên tri của
Nathan và thường được nói tới trong những sách khác của Cựu Ước, nhất là trong
các Thánh Vịnh như Thánh Vịnh 88 , 89 chẳng hạn, gần như hoàn toàn nói về thỏa
hiệp này, về giao ước này giữa Thiên Chúa và Ðavít. Thánh Vịnh 2 là một Thánh Vịnh
khác ca tụng sứ điệp của Nathan, và Thánh Vịnh này nói rằng vương quốc của
Ðavít sẽ phổ bác, không những về thời gian mà thôi (như trong Các Vua II,
chương 7) nhưng còn về không gian nữa.
Bởi đó sứ điệp của
Nathan bảo cho Ðavít hay rằng ông và dòng giống ông đã bước vào con đường đặc
biệt trong chương trình của Thiên Chúa, vương quốc của ông sẽ vĩnh viễn và phổ
bác, mặc dù ông không biết cách nào và khi nào. Không những thế mà thôi, chính
các vua kế vị Ðavít, sẽ được gọi là con của Thiên Chúa. Tước hiệu này, như
chúng ta còn nhớ đã là tước hiệu vinh quang của mọi người Israel. Giờ đây nó đặc
biệt thuộc về các vua mà thôi. Ðiều này có nghĩa là các vua thuộc dòng dõi
Ðavít, được bước vào giao ước Môsê và tôn giáo Môsê một cách độc đáo. Giờ đây
vua đóng vai trò trung gian. Với tư cách là con cách riêng của Thiên Chúa, vua
sẽ đại diện Thiên Chúa giữa dân chúng và cũng sẽ đại diện dân chúng trước mặt
Thiên Chúa. Dân Israel, qua vị vua, sẽ thấy dấu hiệu rõ ràng sự bảo trợ của
Thiên Chúa, và bằng chứng lòng trung thành của Thiên Chúa đối với lời hứa uy
quyền Ngài đã phán. Mỗi lần một vị hoàng tử thuộc dòng dõi Ðavít sinh ra, mỗi lần
một vị đế vương thuộc dòng dõi Ðavít được tấn phong trong những năm về sau, đều
là dịp để ăn mừng, bởi vì hoàng tử ấy, hay đế vương ấy được gần Thiên Chúa, và
biết đâu sẽ là vị đế vương, mà vương quốc sẽ phổ bác về không gian và vĩnh cửu
về thời gian. Dân chúng cứ như thế mà chuẩn bị đón tiếp một vị khác thường thuộc
dòng dõi Ðavít, vị này sẽ đóng một vai trò quyết định trong lịch sử cứu độ, sẽ
là vị thiên sai có vương quyền.
Cách mô tả việc
Ðavít dời Khám Giao Ước về Yêrusalem và việc ông khuyến khích sự thờ phụng ở đó
cho ta thấy, ngoài tước vị đế vương, ông còn có tính cách tư tế thiêng liêng nữa.
Trên đường đi đến Yêrusalem "Ðavít và toàn thể nhà Israel nhảy mừng trước
nhan Yavê, hết sức họ, với ca vãn, với đàn cầm, đàn sắt với trống khẩu, não bạt,
phèng la" (Các Vua II. 6, 5). Sau khi Khám Giao Ước đã được đặt vào lều
Nhà Tạm, Ðavít tổ chức một nghi thức thờ phụng cầu kinh để ca tụng Thiên Chúa
trong nơi thánh ấy.
"Ðavít thượng
tiến lễ thượng hiến và kỳ an xong, thì ông chúc lành cho dân, nhân Danh Yavê.
Ông phân phát cho mỗi người Israel, nam cũng như nữ, mỗi người một ổ bánh, mứt
chà là và mứt nho.
Ông đặt trước khám
Yavê, ít người thuộc dòng Lêvi sung vào việc phụng sự để ca tụng, tán dương,
khen ngợi Yavê Thiên Chúa Israel.
Ðavít để lại đó trước
Khám Giao Ước của Yavê, Asaph và các anh em ông, để luôn luôn phụng sự trước
khám, ngày nào có nghi lễ ngày ấy . Tư tế Sađok cùng các tư tế, anh em ông,
Ðavít để lại trước Nhà Tạm của Yavê trên cao đàn ở Gabaôn, để thượng tiến hàng
ngày, sáng và chiều. Hêman và Gơđutun có loa, phèng la cùng các nhạc khí cho
các ca ngợi của Thiên Chúa" (Sách Ký Sự I. 16, 2 - 42).
Bởi đó, với Ðavít,
chương trình cứu độ của Thiên Chúa tiến thêm một bước đầy ý nghĩa. Như Abraham
đã là cha của tất cả dân Israel và là người duy nhất được Thiên Chúa cùng vạch
ra chương trình, như Môsê là trung gian để Thiên Chúa ràng buộc chính mình Ngài
với dân của Ngài trong một tôn giáo thật sự, được đặt nền tảng trên Giao Ước.
Cũng vậy, Ðavít là vị vua Thiên Chúa đã chọn để thiết lập một vương quốc mà một
ngày nào đó, sẽ trở nên vĩnh cửu và phổ bác, trong đó ơn cứu độ sẽ được tìm thấy.
Từ lúc này trở đi, niềm hy vọng của Israel, và thật ra, niềm hy vọng của toàn
thế giới, được hướng về triều đại của Ðavít, về vị vua đang cai trị lúc đó, và
về vị vua vĩ đại sẽ đến trong tương lai.
Cũng nên nhắc tới một
hành vi tôn giáo cuối cùng của Ðavít, đó là việc mua lại sân đập lúa của
Araunah tại Yêrusalem để xây một đến thờ tại địa điểm đó, và mặc dầu Ðavít
không đích thân xây đền thờ, nhưng khi Salômon, con của ông xây cất, thì cũng
là tại địa điểm này. Ðavít qua đời khoảng 965 năm trước Thiên Chúa giáng sinh, chỉ
ít lâu sau khi ông chỉ định Salômon lên kế vị ông.
http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/KINHTHAN/LichSuCuuDo/ChuongIII.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét