GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG LỄ THÁNH GIA NĂM C
Số 531-534: Thánh Gia
Số 531. Phần lớn cuộc đời Người, Chúa Giêsu đã chia sẻ thân phận của đại đa số con người: một cuộc sống thường ngày không có vẻ cao quan trọng nào, một cuộc sống lao động tay chân, một cuộc sống suy phục Luật Thiên Chúa trong Đồ Thái giáo [1] , một cuộc sống trong cộng đồng. Về toàn bộ tam thời này, chúng ta được khải tượng là Chúa Giêsu đã được phục tùng cha mẹ Người [2] và “ngày càng thêm khôn, thêm cao lớn, và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).
Số 532. Sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với Mẹ Người và cha nuôi của Người là chu trình hoàn hảo tinh tế thứ tư. Sự vâng phục ở trần gian là hình ảnh của sự chấp nhận đồng cỏ của Người đối với Cha trên trời của Người. Chúa Giêsu hằng ngày được hưởng thánh Giuse và Mẹ Maria loan và báo dự dự trước vào sự kiện của lời cầu nguyện trong vườn Dầu: “Xin đừng cho ý con thể hiện…” (Lc 22,42). Sự vâng phục của Đức Chết trong những cảnh hoàn cảnh thường ngày của cuộc đời ẩn dật đã khởi đầu công trình tái tạo những gì mà ông Ađam đã sáng tạo vì bất kể [3] .
Số 533. Cuộc đời ẩn dật ở Nazareth cho phép mọi người Hiệp thông với Chúa Giêsu qua những lối sống thông thường nhất:
“Ngôi nhà Nazareth là Mái trường nơi chúng ta bắt đầu học về cuộc đời Chúa Giêsu; đây là trường học Tin Mừng. Trước hết là bài học về tĩnh lặng . Ước gì chúng ta biết quý Chiến sự mỏng Yên tĩnh, vì đó là bầu khí tuyệt vời và tối cần thiết cho tâm hồn…. Kế đến là bài học về đời sống gia đình : Ước gì Nazareth dạy chúng ta biết gia đình là gì, hiệp thông tình yêu của gia đình là gì, vẻ đẹp quan trọng và sáng sủa của gia đình là gì, tính chất thánh thiên bẩm và bất khả xâm phạm của gia đình là gì…. Sau cùng là bài học về lao động. Ôi Nazareth, ngôi nhà của “Con bác máy mộc”, chính tại đây, chúng ta muốn tìm hiểu và đề cao bá tánh lao động của con người, tuy thắng thắng nhưng tặng lại ơn cứu Võ…. Sau hết, tại đây chúng tôi muốn chào mừng mọi người lao động trên toàn thế giới, và chỉ cho họ một mẫu mực vĩ đại, là người anh thần linh của họ” [4] .
Số 534. Việc tìm thấy Chúa Giêsu trong đền thờ [5] là một biến cố duy nhất phá vỡ sự im lặng của các Tin Mừng trong những năm ẩn dật của Chúa Giêsu. Ở đây, Chúa Giêsu cho chúng ta thoáng thấy bí ẩn của sự tận tận hiến của Người cho sứ vụ xuất phát từ tư cách làm Con Thiên Chúa của Người. “Cha mẹ không biết là con có hoàng phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49) Đức Maria và thánh Giuse “không hiểu” lời này, nhưng đón nhận lời khuyên trong đức tin, và Đức Maria “hằng ghi nhớ những điều đó trong lòng”, suốt những năm dài Chúa Giêsu ẩn mình trong sự tĩnh lặng của cuộc đời bình thường.
Số 1655-1658, 2204-2206: Gia đình Kitô giáo, một Hội Thánh tại gia
Số 1655. Đức Kitô đã muốn được sinh ra và lớn lên trong các gia đình thánh của Giuse và Mẹ Maria. Hội Thánh không gì khác hơn là “gia đình của Thiên Chúa”. Ngay từ những buổi đầu, hạt nhân của Hội Thánh thường bao gồm những người trở thành tín hữu “cùng với cả nhà” [6] . Khi trở về, họ ao ước cho “cả nhà mình” cũng được cứu độ [7] . Những gia đình trở thành tín hữu này, là những tiểu đảo của đời sống Giết giáo giữa một thế giới ngoại giáo.
Số 1656. Ngày nay, giữa một thế giới thường xa lạ và thậm chí chí thù nghịch với đức tin, gia đình các tín hữu là hết sức quan trọng, với tính cách là những lò lửa đức tin sống động và chiếu sáng. Vì vậy, Công đồng Vaticanô II dùng thuật ngữ cổ xưa, gọi gia đình là Hội Thánh tại gia (Ecclesia Domestica) [8] . Trong tổ ấm gia đình, cha mẹ phải là “những người đầu tiên truyền giáo đức tin cho con cái mình, bằng lời nói và kính sáng, cũng như cổ võ ơn gọi riêng của từng đứa con, đặc biệt quan tâm đến ơn gọi thánh thiêng” [9] .
Số 1657. Nơi đây, một cách đặc biệt, người cha, người mẹ, con cái, mọi phần tử tử trong gia đình, thực thi chức năng tư tế do Phép thử “trong việc lãnh nhận các bí tích, trong kinh nguyện và tạ ơn , qua chứng từ của một đời sống thánh thiện, qua sự từ bỏ, và qua lòng bác ái sống” [10] . Bằng cách đó, gia đình là trường học đầu tiên về đời sống Chết hữu và là “một trường học làm người cách phong phú hơn” [11] . Ở đó, người ta học được sự chiến thắng và niềm vui của lao động, tình yêu thương huynh đệ, sự tha thứ quảng đại, thậm chí chí thứ nhiều lần, và nhất là các công việc thờ cúng Thiên Chúa qua kinh doanh và qua sự hiến dâng cuộc đời mình.
Số 1658. Cũng phải nhắc đến một số người, phải sống trong những hoàn cảnh cụ thể – và thường là ngoài ý muốn – đặc biệt gần gũi với trái tim Chúa Giêsu, họ đáng được Hội Thánh, nhất là các mục tử, yêu thương và quan tâm chăm sóc: đó là đông đảo những người sống độc thân . Nhiều người trong số này không lập gia đình được , thường vì điều kiện nghèo khó. Trong hoàn cảnh của mình, có những người sống theo tinh thần mối liên kết Phúc lợi, phục vụ Thiên Chúa và tha nhân một cách gương mẫu. Phải mở ra cho tất cả những người này, cánh cửa của các gia đình là “Hội Thánh tại gia” và cánh cửa của gia đình lớn là Hội Thánh. “Trên đời này, không ai phải thiếu gia đình: vì Hội Thánh là nhà và là gia đình cho tất cả mọi người, nhất là cho những ai 'bổ sung mang gánh nặng nền' (Mt 11,28)” [12 ] .
Số 2204. “Gia đình hy vọng trình bày và có thể thực hiện một cách đặc biệt hiệp thông trong Hội Thánh, vì có lẽ... phải được gọi là một 'Hội Thánh tại gia' ” [13] . Gia đình Kitô giáo là một cộng đồng đức tin, đức tin và tôn thờ; gia đình có một tầm quan trọng đặc biệt trong Hội Thánh, như đã thấy ở Tân Ước [14] .
Số 2205 . Gia đình Kiết là Hiệp thông giữa các nhân vị, là dấu vết và hình ảnh của Hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Hoạt động sinh sản và giáo dục của gia đình là công cụ tạo dựng của Chúa Cha. Gia đình được Đức Kitô kêu gọi tham dự vào việc cầu nguyện và lễ lễ. Việc cầu nguyện hằng ngày và việc đọc Lời Chúa xây dựng gia đình trong đức viếng thăm. Gia đình giáo dục có sứ vụ loan báo Tin Mừng và truyền giáo.
Số 2206. Các tương quan trong gia đình mang lại sự đồng cảm về cảm xúc, tình cảm, và tình nghĩa, chủ yếu phát xuất từ sự tôn trọng giữa các nhân vị. Gia đình là một cộng đồng ưu tiên được kêu gọi thực hiện một kế hoạch chung của đôi ngẫu nhiên và sự cộng đồng của cha mẹ trong việc giáo dục con cái [15] .
Số 2214-2233: Phần bổ sung của các phần tử trong gia đình
Số 2214. Tình phụ tử thần linh là nguồn mạch của tình phụ tử nhân loại [16] ; chính phụ tử đó đặt nền tảng cho việc tôn kính cha mẹ. Lòng tôn kính của con cái, còn nhỏ hay đã trưởng thành, đối với cha và mẹ mình [17] được nuôi dưỡng bằng tình cảm cảm tự nhiên xuất phát từ mối nối dây kết hợp họ. Lòng tôn kính đó được yêu cầu bởi một điều chuông của Thiên Chúa [18] .
Số 2215. Lòng tôn kính cha mẹ ( vui hậu ) dựa trên sự biết ơn đối với những người, bằng việc trao ban sự sống, bằng tình yêu và công lao của mình, đã sinh ra các con cái mình, giúp đỡ họ khả năng nâng cao về tuổi tác, về sự khôn ngoan và ân huệ. “Cha con, con hãy hết lòng tôn kính, và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn ghi nhớ công ơn dưỡng giáo dục thành công, công ơn ấy, con sẽ nhận chi đáp đền cho cân xứng?” (Hc 7,27-28).
Số 2216 . Lòng bàn luận được thể hiện qua sự lo lắng và vâng phục chân thành. “Rồi con, lệnh cha truyền đạt, hãy thoải mái giữ; lời mẹ dạy, đừng bỏ ngoài tai… Những lời đó sẽ hướng dẫn lúc con tới lui, sẽ giữ con khi con nằm xuống, sẽ cùng trò chuyện khi con thức dậy” (Cn 6,20-22). “Con không giữ lời cha béo huấn luyện, lo lắng báng nghe lời giảng dạy” (Cn 13,1).
Số 2217. Bao lâu còn chung sống với cha mẹ, con cái phải giữ mọi điều cha mẹ dạy liên quan đến lợi ích bản thân hoặc của gia đình. “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa” (Cl 3,20) [19] . Con cái cũng phải tuân theo những lời dạy bảo hữu lý của những người giáo dục và của những người cha mẹ đã giao phó cho họ chăm sóc. Nhưng nếu người theo lương tâm nhận thấy tuân theo một lệnh truyền nào đó là điều xấu về mặt luân lý thì không được chấp nhận.
Khi trưởng thành, con cái vẫn phải tôn kính cha mẹ. Con cái phải biết đón trước những điều cha mẹ mong muốn, sẵn sàng hỏi ý kiến và đón nhận những lời khuyên bảo chính đáng của cha mẹ. Sự vâng lời của con cái đối với cha mẹ Susu khi con cái không còn sống chung với cha mẹ nữa, nhưng lòng tôn kính thì không như thế, mà phải tồn tại luôn mãi. Thật ra, lòng tôn kính này có gốc rễ từ lòng kính sợ Thiên Chúa, là một trong các hồng ân của Chúa Thánh Thần.
Số 2218. Điều răn thứ tư còn nhắc nhở những người con, khi đã trưởng thành, nhớ các trách nhiệm của họ đối với cha mẹ . Con cái phải giúp cho cha mẹ về vật chất và tinh thần, bao nhiêu có thể, trong những năm tuổi già, hoặc suốt thời gian bệnh tật, cô đơn hoặc thiếu thiếu. Chúa Giêsu nhắc lại một số phận biết ơn này [20] .
“Chúa làm cho người cha được xuất hiện vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con. Ai thờ cha thì bồi đắp lỗi nhiều, ai kính mẹ thì tích kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng” (Hc 3,2-6).
“Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già, bao lâu người còn sống, đừng làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh người... Ai bỏ rơi cha mình thì khác bất cứ kẻ ngôn ngữ, ai cuồng giận mẹ mình, sẽ được Chúa mỏ diều” (Hc 3 , 12-13.16).
Số 2219. Lòng hoang cỏ củng cố hài hài trong toàn bộ đời sống gia đình, ảnh hưởng đến các tương quan giữa anh chị em . Lòng hoang thảo đối với cha mẹ làm rạng rỡ bầu khí gia đình. “Triều thiên của người già là đàn con cháu, vinh dự của con cái là chính người cha” (Cn 17,6). “Anh em hãy ăn ở thật Khiêm tốn, hiền từ và Võ Vàng; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Tập 4,2).
Số 2220. Các Kitô hữu còn phải biết ơn đặc biệt những ai đã giúp mình lãnh hồng ân đức tin, ân sủng bí tích Sản Tội và sự sống trong Hội Thánh. Những người này có thể là cha mẹ, những phần tử khác của gia đình, ông bà, các vị tử tử, các giáo lý viên, thầy cô giáo hay bạn bè. “Tôi hồi tưởng lại xin tin không giả hình của anh, xin tin đã có nơi Lôít, bà ngoại anh, nơi bà Êunikê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy” (2 Tm 1,5 ).
Bổn phận của cha mẹ
Số 2221. Sự phong phú của tình yêu phu phụ không chỉ giới hạn ở việc sinh sản con cái mà còn phải mở rộng đến cả việc giáo dục luân lý và đào tạo khoáng chất cho con cái. “ Nhiệm vụ của cha mẹ trong việc giáo dục hết sức lực quan trọng đến nỗi đau, dù thiếu, chắc chắn là không gì thay thế được” [21] . Quyền và phận giáo dục con cái là quyền và hoàn phận hàng đầu và bất khả năng của cha mẹ [22] .
Số 2222. Cha mẹ phải xem con cái của mình như những người con của Thiên Chúa và tôn giáo chúng như những nhân vị . Họ phải dạy cho con cái biết chu toàn Luật Thiên Chúa, bằng cách cho con cái thấy chính họ cũng tuân theo thánh ý Cha trên trời.
Số 2223. Cha mẹ là những người đầu tiên có trách nhiệm giáo dục con cái. Họ có thể thực hiện nhiệm vụ này trước khi hết việc xây dựng gia đình, trong đó, tình lo lắng, lòng tha thứ, sự tôn trọng lẫn nhau, lòng chung thủy và sự phục vụ vô lợi phải là những tiêu chuẩn. Gia đình là nơi thích hợp cho việc giáo dục các nhân đức. Việc giáo dục này đòi phải bỏ mình, tập phán đoán lành mạnh, tập tự chủ, là những điều kiện để có sự tự động thực hiện mục tiêu. Cha mẹ phải dạy cho con cái biết “đặt những gì là vật chất và tự nhiên phụ thuộc những gì thuộc nội tâm và tinh thần” [23] . Cha mẹ có trách nhiệm quan trọng là phải nêu gương tốt cho con cái. Khi biết nhìn nhận những thiếu sót của mình trước mặt con cái, cha mẹ có uy tín hơn để hướng dẫn và sửa dạy con cái:
“Thương con thì cho roi cho bướm... Ai biết giáo dục con sẽ được đồng ý về con” (Hc 30,1-2).
“Các lớp làm cha mẹ đừng làm cho con cái giận dữ, nhưng hãy thay mặt Chúa giáo dục chúng bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Tập 6,4).
Số 2224 . Gia đình là môi trường tự nhiên để khai tâm cho nhân vị về tình liên đới và về trách nhiệm trong cộng đồng. Cha mẹ phải dạy cho con cái biết giữ mình khỏi những nguy hiểm và những kẻ sa đọa đang đe dọa xã hội người.
Số 2225. Ân sủng của bí tích Hôn Phối, cha mẹ nhận trách nhiệm và đặc ân loan báo Tin Mừng cho con cái . Cha mẹ khai tâm cho con cái về các mầu nhiệm đức tin ngay từ lúc đầu đời, chính họ là “những sứ giả đầu tiên” [24] của đức tin đối với con cái mình. Lúc họ còn thơ thơ, cha mẹ phải cho con cái hoà nhập vào đời sống của Hội Thánh. Cách sống của gia đình có thể nuôi dưỡng những tâm tình tốt đẹp, những tâm tình đó vẫn luôn là sự chuẩn bị và nâng đỡ mục tiêu thực sự cho đức tin sống động trong suốt cuộc đời.
Số 2226 . Việc giáo dục đức tin cho con cái phải được cha mẹ bắt đầu ngay từ tâm thơ của chúng. Việc giáo dục này đã bắt đầu, khi các phần tử trong gia đình giúp đỡ nhau lớn lên trong đức tin, nhờ lời chứng của một đời sống Đời hữu theo Tin Mừng. Dạy giáo lý trong gia đình đi trước, đồng hành và làm phong phú các hình thức khác nhau của công việc giáo dục đức tin. Cha mẹ có sứ dạy con cái cầu nguyện và khám phá ơn gọi làm con Thiên Chúa [25] . Giáo xứ là cộng đồng Thánh Thể và là trung tâm đời sống Phục vụ của các gia đình Kitô giáo; đó là nơi tốt nhất để dạy giáo lý cho con cái và cho cha mẹ.
Số 2227. Về phần mình, con cái cũng làm cho cha mẹ chúng trưởng thành trong sự tốt lành [26] . Mọi người và mỗi người phải biết quảng đại và luôn sẵn sàng thứ hai khi gặp những mối đe dọa, gây nguy hiểm, bất công và bỏ rơi. Tình yêu thương lẫn lộn điều chỉnh đó. Tình yêu đối với Đức Đòi buộc điều đó [27] .
Số 2228. Khi con cái còn nhỏ, tôn trọng và yêu thương của cha mẹ được bộc lộ trước hết qua việc chăm sóc và lưu tâm giáo dục phun cái mình, để đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần của họ . Khi chúng lớn lên, chúng cũng vẫn tôn trọng và tận tận đó cung cấp cha giáo dục con cái để chúng biết sử dụng lý trí và sự tự làm của mình một cách đúng đắn.
Số 2229. Cha mẹ là những người đầu tiên có trách nhiệm giáo dục con cái, nên có quyền lựa chọn cho con cái một trường học đáp ứng những tín tín riêng của mình. Quyền này là một bản quyền. Cha mẹ có hoàn phận, bao nhiêu có thể, lựa chọn những trường học nào giúp mình cách tốt nhất, để chu toàn nhiệm vụ của mình là nhà giáo dục Kitô giáo [28] . Công quyền có phận bảo đảm quyền này của các bậc cha mẹ và tạo ra những điều kiện thực tế để cha mẹ thực thi quyền đó.
Số 2230. Khi tuổi trưởng thành, con cái có phận và có quyền lựa chọn nghề nghiệp và bậc sống của mình. Con cái đảm nhận những trách nhiệm mới trong tương quan đầy tin tưởng đối với cha mẹ, sẵn sàng bàn hỏi và đón nhận các ý kiến kiến trúc và lời khuyên của cha mẹ. Cha mẹ phải lưu ý để không ép buộc cái cái trong nghề nghiệp hoặc chọn bạn trăm năm. Bổ sung phận giữ chừng mực này không ngăn cản họ – mà trái lại – trong công việc giúp con cái bằng những lời khuyên khôn ngoan, nhất là khi con cái có ý định lập gia đình.
Số 2231. Có những người không lập gia đình, để đảm nhận công việc chăm sóc cha mẹ hoặc anh chị em mình, hoặc để ngâm hết tâm trí vào một nghề nghiệp hay vì những động lực cao đẹp khác. Họ có thể đóng góp phần lao vào lợi ích của loại gia đình nhân.
Số 2232. Các mối liên hệ trong gia đình dù quan trọng, nhưng không phải tuyệt đối. Cũng như trẻ con trưởng thành trong sự trưởng thành và tự thiết về mặt nhân bản và thiên nhiên, thì cũng vậy, ơn gọi riêng của nó, ơn gọi từ Thiên Chúa, cũng được khẳng định một cách rõ ràng hơn và mạnh mạnh mẽ hơn. Cha mẹ phải tôn trọng ơn gọi này và khuyến khích cái trả lời bằng việc đi theo ơn gọi đó. Phải xác định rằng lời gọi thứ nhất của Người hữu là đi theo Chúa Giêsu [29] . “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy. Ai yêu con trai, con gái hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37).
Số 2233. Trở thành môn đệ Chúa Giêsu là chấp nhận lời mời gọi thuộc về gia đình Thiên Chúa , sống theo cách sống của Người: “Ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Nấu ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12,50).
Cha mẹ phải đón nhận và tôn trọng, với tâm tình vui mừng và tạ ơn, tạ ơn mà Chúa dành cho ai đó trong số con cái mình để đi theo Người trong sự trinh khiết vì Nước Trời, trong đời sống thánh hiến hay trong dịch vụ tư vấn.
Số 534, 583, 2599: Việc tìm thấy Chúa Giêsu Đền thờ trong nhà thờ
Số 534. Việc tìm thấy Chúa Giêsu trong đền thờ [30] là một biến cố duy nhất phá vỡ sự im lặng của các Tin Mừng trong những năm ẩn náu của Chúa Giêsu. Ở đây, Chúa Giêsu cho chúng ta thoáng thấy bí ẩn của sự tận tận hiến của Người cho sứ vụ xuất phát từ tư cách làm Con Thiên Chúa của Người. “Cha mẹ không biết là con có hoàng phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49) Đức Maria và thánh Giuse “không hiểu” lời này, nhưng đón nhận lời khuyên trong đức tin, và Đức Maria “hằng ghi nhớ những điều đó trong lòng”, suốt những năm dài Chúa Giêsu ẩn mình trong sự tĩnh lặng của cuộc đời bình thường.
Số 583. Chúa Giêsu, cũng như các Tiên tri trước Người, bày tỏ tôn kính rất sâu xa đối với Đền thờ Giêrusalem. Ở đó, Người đã được thánh Giuse và Đức Maria tiến tiến, bốn mươi ngày sau khi Người ra đời [31] . Lúc mười hai tuổi, Người quyết định ở lại trong Đen thờ để nhắc cha mẹ Người nhớ rằng Người phải lo việc làm của Cha Người [32] . Trong quãng đời ẩn dật của Người, Người đều lên đền thờ mỗi năm ít nhất để mừng lễ Vượt Qua [33] ; kiệt tác công khai của Người được đánh dấu như theo nhịp điệu những lần Người hành hương lên Giêrusalem vào những dịp lễ lớn của người Đỗ Thái [34] .
Số 2599. Con Thiên Chúa, khi trở thành Con Đức Trinh Nữ, cũng đã học cầu nguyện theo trái tim nhân loại của Người. Chúa Giêsu đã học những công thức cầu nguyện nơi thân mẫu Người là ngọc hằng ghi nhớ và luôn suy niệm trong lòng về mọi điều “cao cả” của Đào Toàn Năng [35] . Người cầu nguyện sử dụng những lời kinh và nhịp điệu của dân dân, ở Hội đường Nazareth và ở Đền Thờ. Nhưng kinh nguyện của Người vẫn phát xuất từ một nguồn mạch sâu kín hơn, như chính Người đã mở cho thấy lúc Người lên mười hai tuổi: “Con có phận phận ở nhà của Cha con” (Lc 2,49). Ở đây, tính cách mới mẻ của cầu nguyện trong thời đại mãn nhãn bắt đầu được sa mạc: đó là lời cầu nguyện của Con , mà Chúa Cha vẫn chờ Người nơi các con cái của Ngài, cuối cùng đã được chính Người Con Một thực hiện trong tính chất của Người cùng với con người và vì con người.
Số 64, 489, 2578: Bà Anna và con là tiên tri Samuel
Số 64. Qua các bậc tiên tri, Thiên Chúa đào tạo dân Ngài trong niềm hy vọng ân tình độ, trong sự mong đợi Giao ước mới và vĩnh cửu dành cho tất cả mọi người [36] , Giao ước đó sẽ được khắc phục in left time [37] . Các tiên tri loan báo ơn nghiên cứu triệt để cho dân của Thiên Chúa, ơn thanh tẩy khỏi mọi bất trung của họ [38] , và ơn cứu độ ấy sẽ bao gồm tất cả các dân tộc [39] . Đặc biệt những người nghèo khó và khiêm tốn của Chúa [40] sẽ ấp niềm hy vọng này. Những phụ nữ thánh thiện như các bà Sara, Rêbecca, Rachel, Miryam, Đêbora, Anna, Juđitha và Esther, đã cung cấp dưỡng chất cho niềm hy vọng cứu độ của Israel luôn sống. Hình ảnh tinh tuyền nhất của niềm hy vọng này là Đức Maria [41] .
Số 489. Trong suốt Cựu Ước, sứ mệnh của Đức Maria đã được chuẩn bị bởi những phụ nữ thánh thiện. Ngay từ đầu, là bà Evà: bất chấp sự bất đồng của mình, bà đã nhận được Lời hứa rằng một hậu duệ của bà sẽ chiến thắng ma quỷ [42] và Lời Hứa rằng bà sẽ là mẹ của tất cả chúng sinh [43] . Do lời hứa đó, bà Sara, mặc dù đã cao niên, vẫn thụ thai một người con trai [44] . Trái ngược với mọi niềm hy vọng nhân loại, Thiên Chúa đã chọn những gì được coi như bất sức và yếu đuối [45] để chứng minh Ngài luôn trung tín với lời Ngài đã hứa: bà Anna, mẹ của tiên tri Samuel [46] , bà Đêbôra, bà Ruth, bà Juđitha, bà Esther và nhiều phụ nữ khác. Đức Maria “trượt giữa những người khiêm hạ và nghèo nàn của Chúa, những người hy vọng và đón nhận ân tình từ nơi Ngài với lòng tin tưởng. Cuối cùng, sau sự chờ đợi lâu dài Lời Chúa đã hứa, thời gian đã đến hồi phục viên mãn và một nhiệm vụ mới đã bắt đầu với Đức Maria, người Con Gái Sion cao quan trọng nhất” [47] .
Số 2578. Việc cầu nguyện của Dân Thiên Chúa sẽ được phát triển dưới bóng nhà Chúa, hòm bia Giao ước và sau đây là Đền thờ. Trước đó, chính những người lãnh đạo đạo dân – các mục tử và tiên tri – dạy cho dân cầu nguyện. Cậu bé Samuel cũng phải học nơi mẹ mình cách “đứng trước nhan Chúa” [48] và học nơi tư tế Êli để biết cách lắng nghe Lời Chúa: “Lạy Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” ( 1 Sm 3,9-10). Sau này, chính Samuel cũng biết đến giá trị và tầm quan trọng của lời chuyển cầu: “Phần tôi, không đời nào tôi phạm tội cùng Chúa là thôi cầu nguyện cho anh em. Tôi sẽ cho anh em biết đường ngay nỏo chính” (1 Sm 12,23).
Số 1, 104, 239, 1692, 1709, 2009, 2736: Bây giờ, chúng ta là con Thiên Chúa
Số 1. Thiên Chúa, tự bản thể là vô cùng hoàn hảo và hạnh phúc. Theo ý định hoàn toàn làm ơn nhân hậu, Ngài đã tự ý tạo dựng con người, để họ được thông tin về sự sống hạnh phúc của Ngài. Do đó, trong mọi thời điểm và mọi nơi, Ngài đã đến gần với con người. Thiên Chúa kêu gọi con người, giúp họ tìm kiếm Ngài, nhận biết và chào hết tâm lực yêu Ngài Ngài. Thiên Chúa triệu tập mọi người, vốn đã được phân giải vì lỗi, để hợp nhất thành gia đình của Ngài là Hội Thánh. Để thực hiện điều này, trong khi thời gian tới hồi phục viên mãn, Ngài đã sai Con Ngài đến làm Chuộc Tội và Cứu Độ. Trong và giúp Người Con ấy, Thiên Chúa kêu gọi các loài để trong Chúa Thánh Thần, họ trở nên nuôi tử tử của Ngài và nhờ đó, được thừa hưởng cuộc sống hạnh phúc hạnh phúc của Ngài.
Số 104. Hội Thánh không ngừng tìm thấy lương thực và sức mạnh cho mình trong Thánh Kinh [49] , vì ở nơi đó, Hội Thánh không chỉ tiếp nhận một lời phàm nhân, nhưng thực sự là Lời của Thiên Chúa [50] . “Quả thật, trong các thánh sách, Cha trên trời trầm đến gặp con cái và trò chuyện với họ” [51] .
Số 239. Khi gọi Thiên Chúa là “Cha”, ngôn ngữ đức tin chủ yếu muốn nêu lên hai khía cạnh: Thiên Chúa là nguồn gốc thứ nhất và là Đào uy quyền siêu việt trên hết mọi sự, đồng thời gian là hậu nhân hậu và yêu thương chăm sóc mọi con cái của Ngài. Tình phụ tử này của Thiên Chúa cũng có thể được mô tả qua hình ảnh mẫu tử tử [52] . Hình ảnh tình mẫu tử nói lên rõ ràng hơn sự gần gũi của Thiên Chúa và thân mật giữa Thiên Chúa với thụ tạo của Ngài. Như vậy, ngôn ngữ đức tin múc nguồn nơi kinh nghiệm phàm nhân về cha mẹ, các vị trí này là một cách đo lường, là những đại diện đầu tiên của Thiên Chúa đối với con người. Nhưng kinh nghiệm cũng cho thấy rằng, cha mẹ phàm nhân có thể phạm sai lầm và họ có thể làm tỉ mỉ dung giả mạo của tình phụ tử và mẫu tử. Vì vậy phải nhớ rằng, Thiên Chúa siêu việt chứng minh sự phân biệt phái tính của phàm nhân. Ngài không là nam mà cũng không là nữ. Ngài là Thiên Chúa. Ngài cũng siêu việt mạnh mẽ trên sự làm cha làm mẹ của người phàm [53] , mặc dù Ngài là nguồn gốc và là chuẩn mực [54] của chức năng làm cha làm mẹ: không ai là cha như Thiên Chúa là Cha.
Số 1692. Tín hiệu tuyên bố chiến thắng cao cả của các hồng ân Thiên Chúa đã rộng rãi cấm cho người trong công trình tạo dựng của Ngài và hơn nữa nhờ ơn cứu trợ và thánh hoá. Điều đức tin kiêu hãnh, được các bí tích truyền thông: nhẹ các bí tích tái sinh, các Kitô hữu trở nên “con Thiên Chúa” (1 Ga 3,1) [55] , “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4). Khi nhận biết sản phẩm giá mới của mình nhờ đức tin, các Kitô hữu được kêu gọi từ nay ăn ở cho xứng đáng với Tin Mừng của Đức Chúa [56] . Nhờ các bí tích và kinh nguyện, họ đã nhận được ân sủng của Đức Kitô và các hồng ân của Thần Khí của Người, làm cho họ có khả năng thực hiện điều đó.
Số 1709. Ai tin vào Đức Chết thì trở nên con cái Thiên Chúa. Cảm ơn được thực hiện ý nghĩa biến đổi người này, giúp họ sống theo mẫu gương Đức Kiến. Cảm ơn điều này ban cho họ khả năng hành động đúng đắn và thực thi điều tốt. Được kết hợp với Cứu độ của mình, người môn đệ đạt tới sự hảo hảo của đức kính, là sự thánh thiện. Được hoàn thiện trong ân huệ, đời sống luân lý sẽ được phát triển nở thành thành vĩnh cửu trong vinh quang trên trời.
Số 2009. Ân sủng ân sủng, may mắn được làm nghĩa tử cho chúng ta được tham dự vào bản tính Thiên Chúa, có thể mang lại cho chúng ta một công trạng đích thực theo đức công chính nhưng không của Thiên Chúa. Đây là một quyền được giúp đỡ, quyền sung mãn của tình yêu, làm cho chúng ta nên những người “đồng thừa tự động” với Đức Kiệt và xứng đáng được hưởng phần gia tài được hứa ban là đời sống đã vĩnh cửu [ 57] . Công trạng làm việc lành của chúng ta là những hồng ân của lòng nhân hậu của Thiên Chúa [58] . “Ân ân đã được ban trước, giờ đây nợ được trả…. Các hồng ân của Thiên Chúa là những công trạng của bạn” [59] .
Số 2736. Chúng ta có tín hiệu điều này không: “Chúng ta ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải” (Rm 8,26)? Chúng ta có xin Thiên Chúa “những điều thích hợp” không? Cha trên trời biết rõ điều chúng ta cần, trước khi chúng ta xin Ngài [60] ; Nhưng Ngài chờ đợi lời cầu xin của họ bởi vì sản phẩm giá của con Ngài là ở nơi họ tự làm. Vì vậy phải cầu nguyện, với Thần Khí tự do của Ngài, để chúng ta có thể thật sự được mong muốn của Ngài [61] .
Số 163, 1023, 1161, 2519, 2772: Chúng ta sẽ nhìn thấy Thiên Chúa “mặt giáp mặt” và nên “giống như Thiên Chúa”
Số 163. Đức tin làm cho chúng ta như được thoải mái trước niềm tin hoan lạc và ánh sáng của ơn kiến trúc hồng phúc ( visio beatifica ), may mắn đó là mục tiêu của cuộc hành trình trần gian này của chúng ta. Lúc đó chúng ta sẽ nhìn thấy Thiên Chúa “mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12), và “lực thế nào chúng ta sẽ thấy Ngài như vậy” (1 Ga 3,2). Vì vậy đức tin đã là sự khởi đầu của sự sống đời đời:
“Khi chúng ta ngưỡng ngưỡng, như nhìn trong khung, ân sủng là những điều thiện hảo nhưng tiện lợi được hứa ban cho chúng ta, mà nhờ đức tin chúng ta mong đợi được hưởng, thì y như những điều đó đã có ở đây rồi ” [62] .
Số 1023. Những ai chết trong ân huệ và tình hữu của Thiên Chúa, và những ai đã được thanh luyện trọn vẹn thì được sống đời đời với Đức Chết. Muôn đời họ sẽ giống như Thiên Chúa, bởi vì họ thấy Ngài “như Ngài là” (1 Ga 3,2), “mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12) [63] :
“Bằng thẩm quyền tông đồ, chúng tôi khẳng định rằng: Theo sự một bài chung của Thiên Chúa, từ sau cuộc Thăng thiên của Giải cứu Độ chúng ta là Chúa Giêsu Kitô, linh hồn của tất cả các Thánh … và của mọi người hữu đã chết sau khi lãnh nhận Thần thiêng của Đức Kitô, nếu họ không có gì phải luyện tập, sau khi họ chết,… hoặc nếu lúc đó họ đã hoặc sẽ có gì phải thanh luyện, mà đã luyện xong sau khi chết … thì ngay cả trước khi họ đảm nhận lại thân xác của Mình và trước cuộc phán xét chung, các linh hồn này đã, đang và sẽ ở trên trời, trên Nước Trời và trên Thiên Đàng cùng với Đức Kitô, được nhập vào các thánh thần, và sau cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu Kitô, các linh hồn này đã và đang được xem bản tính thần linh bằng sự tác động trực tiếp và giáp mặt, không qua trung gian một thụ tạo nào” [64] .
Số 1161. Tất cả các dấu chỉ của công việc cử hành phụng sự đều quy định về Đức Kitô: kể cả các hình ảnh tượng trưng của Mẹ Thiên Chúa và các thánh. Quả thật, những hình ảnh này nói về Đức Chết, được tôn vinh nơi các ngài. Các hình ảnh này cho thấy “ng cần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh” (Dt 12,1), các bạn đang tiếp tục tham gia vào công trình nghiên cứu độ trần gian và chúng ta có thể liên kết với các bạn, nhất là khi cử hành các bí tích. Qua hình ảnh của các ngài, điều được khải tượng cho đức tin của chúng ta là, con người, được tạo dựng “theo hình ảnh Thiên Chúa”, cuối cùng được biến hình nên “như Thiên Chúa” [65] , và cả các vị thần, là những vị đã được quy tụ lại trong Đức Kitô:
“Theo giáo huấn của các Thánh Giáo phụ được Thiên Chúa linh ngẫu, và theo truyền thống của Hội Thánh Công giáo (mà chúng ta biết rằng đó là truyền thống của Chúa Thánh Thần, Giai đoạn chắc chắn ngự trong Hội Thánh), chung Tôi ấn định tất cả sự chắc chắn và chính đáng rằng, cũng như hình tượng cây Thánh Giá quý trọng và cấm sự sống, các hình ảnh đáng kính và thánh thiện, hoặc được vẽ và gắn đá, hoặc bằng những chất liệu thích hợp hợp lý khác, phải được đặt trong các thánh đường của Thiên Chúa, trên các thánh thánh và y thánh, trên các bức tường và các bức vẽ, trong nhà và trên các đường phố: đó là hình ảnh của Chúa Kitô Kitô, là Thiên Chúa và là Giải thoát Độ chúng ta, cũng như hình ảnh tượng trưng của Đức Bà tinh tuyền, là Thánh thánh của Thiên Chúa, hình tượng của các Thiên thần đáng kính, của tất cả các Thánh và những người công chính” [66] .
Số 2519. Những người có “trái tim trong sạch” được hứa sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa mặt giáp mặt và trở nên giống như Ngài [67] . Sự trong sạch của trái tim là điều kiện tiên quyết để được thấy Thiên Chúa. Ngay từ bây giờ, trái tim trong sạch giúp chúng ta biết nhìn mọi sự theo cái nhìn của Thiên Chúa , biết đón nhân tha như “người lân cận”; Trái tim trong sách tạo ra chúng ta biết nhận ra thân thể con người, của mình và của người lân cận, như thần thờ của Chúa Thánh Thần, như biểu hiện lộ vẻ đẹp thần linh.
Số 2772. Từ niềm tin không lay chuyển ấy, phát xuất niềm hy vọng khơi dậy mỗi một trong bảy lời cầu xin. Những lời cầu xin này diễn tả tiếng vang của thời hiện tại, của thời chiến và mong đợi điều này, lúc mà “chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được trình bày” (1 Ga 3,2) [68 ] . Thánh Lễ và kinh Lạy Cha đều hướng về ngày Chúa quang lâm, “cho tới khi Chúa đến” (1 Cr 11,26).
Bài Đọc I: Hc 3, 3-7. 14-17a
“Ai kính sợ Chúa, thì thảo kính cha mẹ”.
Trích sách Huấn Ca.
Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái; quyền bà lợi mẹ, Người củng cố trên phi đoàn con. Ai yêu mến cha mình, thì đền bù lỗi; ai thảo kính mẹ mình thì như người thu được một kho tàng. Ai thảo kính cha mình, sẽ được vui mừng trong con cái, khi cầu xin, người ấy sẽ được duyệt lời. Ai chỉnh kính cha mình, sẽ được tồn tại lâu dài. Ai vâng lời cha, sẽ làm vui lòng mẹ.
Ngẩn ngơ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha lùn, đừng làm phiền lòng người khi còn sống. Nếu tinh thần người sa lân thì hãy tận dụng sức mạnh, kẻ là kẻ phản bội, đừng nản lòng thèm người. Vì dâng cho cha, sẽ không rơi vào quên lãng. Biếu cho mẹ, bạn sẽ phải bồi thường lỗi và xây dựng công đức chính của mình.
Đó là lời Chúa.
Đáp án: Tv 127, 1-2. 3. 4-5
Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn kính Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người.
Xhướng: 1) Phúc thay những bạn tôn kính Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Kết quả bạn làm cho bạn có tác dụng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.
Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn kính Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người.
2) Hiền mở rộng bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia đình nội thất nhà bạn. Con cái bạn như những con sâu non của khóm ô-liu ở chung quanh bàn ăn của bạn. Thứ là phúc lộc dành để cho người biết tôn kính Đức Chúa Trời.
Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn kính Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người.
3) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem hết mọi ngày trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy khối cháu đàn con!
Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn kính Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người.
Bài đọc II: Cl 3, 12-21
“Về đời sống gia đình trong Chúa”.
Trích thư Thánh Thánh Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, như những người được Thiên Chúa chọn, những người thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc định những tâm tình từ bi, nhân hậu, Khiêm cung, ôn hòa, võ nhẫn, chịu khó chăm nhau , và hãy tha thứ cho nhau nếu người này có chuyện phải cảm ơn người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây nịt buộc an toàn. Nguyện cầu bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em, sự bình an mà anh em đã được kêu gọi để làm nên một thân thể. Anh em hãy cảm tạ Thiên Chúa. Nguyện cho lời Chúa mộng dồi dào trong anh em. Với tất cả những điều khôn ngoan, anh em hãy học hỏi và bảo trì lẫn nhau. Hãy dùng các bài thánh bay, thánh thi và thánh ca của Thần khí, cùng với lòng tri ân, để hát mừng Thiên Chúa trong lòng anh em. Và tất cả những gì anh làm, trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện, anh em hãy làm vì danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người tạ ơn Thiên Chúa Cha.
Giảm các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa phải được phép. Bên cạnh người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng ngày hôm đó. Ngẫm những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là lòng Chúa đẹp lòng. Ngâm những người cha, đừng nổi cơn hấp dẫn bên trong con cái, quá chúng ta nên giảm độ sợ.
Đó là lời Chúa.
Alleluia: Cl 3, 15a. 16a
Alleluia, Alleluia! - Nguyện cầu bình an Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em. Nguyện cho lời Chúa mộng dồi dào trong anh em. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 2, 41-52
“Hai Ông Bà gặp Chúa Giêsu đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để chúc mừng Lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo ngày lễ khuyến khích Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Jesus đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đã đi được một ngày, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết.
Nhưng không gặp Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người. Sau ba ngày, hai ông bà gặp Người trong đền đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người trả lời lại.
Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: “Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con”. Người thưa với hai ông bà rằng: “Mà tại sao cha mẹ tìm Con? Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?” Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói.
Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà. Maria mẹ Người ghi nhớ những công việc đó trong lòng. Còn Chúa Giêsu thì tiến tiến tới trong sự phi quan, tuổi tác và ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và người ta.
Đó là lời Chúa.
_____
[1] X. Gl 4,4.
[2] X. Lc 2,51.
[3] Phòng 5,19.
[4] ĐGH cổng VI, Homilia in templo Annuntiationis beatae Mariae Virginis in Nazareth (5-1-1964): AAS 56 (1964) 167-168.
[5] X. Lc 2,41-52.
[6] X. Câu 18,8.
[7] X. Cv 16,31; 11,14.
[8] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16; x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Famamiris consortio, 21: AAS 74 (1982) 105.
[9] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16.
[10] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 10: AAS 57 (1965) 15.
[11] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 52: AAS 58 (1966) 1073.
[12] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Famamiris consortio, 85: AAS 74 (1982) 187.
[13] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Famamiris consortio, 21: AAS 74 (1982) 105; x. CĐ Vaticanô II, Hiến pháp chế độ tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16.
[14] X. Tập 5,21 - 6,4; Cl 3,18-21; 1 Pr 3,1-7.
[15] X. CĐ Vaticanô II, Hiến pháp chế độ dịch vụ Gaudium et spes, 52: AAS 58 (1966) 1073.
[16] X. Tập 3,14.
[17] X. Cn 1,8; Tb 4,3-4.
[18] X.Xh 20,12.
[19] X. Tập 6,1.
[20] X. Mc 7,10-12.
[21] CĐ Vaticanô II, Tuyên ngôn Gravissimum educationis, 3: AAS 58 (1966) 731.
[22] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Famamiris consortio, 36: AAS 74 (1982) 126.
[23] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus annus, 36: AAS 83 (1991) 838.
[24] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16; x. Bộ Giáo Luật, điều 1136.
[25] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16.
[26] X. CĐ Vaticanô II, Hiến pháp chế độ dịch vụ Gaudium et spes, 48: AAS 58 (1966) 1069.
[27] X. Mt 18,21-22; Lc 17,4.
[28] X. CĐ Vaticanô II, Tuyên ngôn Gravissimum educationis, 6: AAS 58 (1966) 733.
[29] X. Mt 16,25.
[30] X. Lc 2,41-52.
[31] X. Lc 2,22-39.
[32] X. Lc 2,46-49.
[33] X. Lc 2,41.
[34] X. Ga 2,13-14; 5,1,14; 7.1.10.14; 8,2; 22-10-23.
[35] X. Lc 1,49; 2,19.51.
[36] X. Is 2,2-4.
[37] X. Gr 31,31-34; Đnl 10,16.
[38] X. Biên tập 36.
[39] X. Is 49,5-6; 53,11.
[40] X. Sp 2,3.
[41] X. Lc 1,38.
[42] X. Đoạn 3,l5.
[43] X. Mục 3,20.
[44] X. St l8,l0-l4; 2l,l-2.
[45] X.l Cr l,27.
[46] X. l Sm l.
[47] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 55: AAS 57 (1965) 59-60.
[48] 1 Sm 1,9-18.
[49] X. CĐ Vaticanô II, Hiến pháp tín lý Dei Verbum, 24: AAS 58 (1966) 829.
[50] X. 1 Tx 2,13.
[51] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 21: AAS 58 (1966) 827-828.
[52] X. Is 66,13; Tv 131,2.
[53] X. Truyền hình 27,10.
[54] X. Ep 3,14-15; Is 49,15.
[55] X. Ga 1,12.
[56] X. Câu 1,27.
[57] X. CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 16: DS 1546.
[58] X. CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 16: DS 1548.
[59] Thánh Augustinô, Sermo 298, 4-5: SPM 1, 98-99 (PL 38, 1367).
[60] X. Mt 6,8.
[61] X. Phòng 8,27.
[62] Thánh Basiliô Cả, Liber de Spiritu Sancto, 15, 36: SC 17bis, 370 (PG 32.132); x. Thánh Tôma Aquinô, Summa thần học , II-II, q. 4, A. 1, c: Ed. Leon. 8, 44.
[63] X. Kh 22,4.
[64] ĐGH Bênêđictô XII, Hiến chế Benedictus Deus : DS 1000; x. CĐ Vaticanô II, Hiến pháp chế độ tín hiệu Lumen Gentium, 49: AAS 57 (1965) 54.
[65] X. Phòng 8,29; 1 Ga 3,2.
[66] CĐ Nicêa II, Definitio de sacris tưởng tượng : DS 600.
[67] X. 1 Cr 13,12; 1 Ga 3,2.
[68] X. Cl 3,4.
https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/giao-ly-cho-bai-giang-le-thanh-gia-nam-c
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét