GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG LỄ ĐỨC MARIA MẸ THIÊN CHÚA (01/01)
Văn Việt (tổng hợp)
NỘI DUNG CHÍNH
Số 464-469: Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và Người thật
Số 495, 2677: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa
Số 1, 52, 270, 294, 422, 654, 1709, 2009: Chúng ta được nhận làm nghĩa tử
Số 527, 577-582: Chúa Giêsu suy phục Lề Luật và kiện toàn nó
Số 580, 1972: Luật Mới giải thoát khỏi những hạn chế của Luật Cũ
Số 683, 689, 1695, 2766, 2777-2778: Trong Chúa Thánh Thần, chúng ta có
thể gọi Thiên Chúa là “Abba - Cha ơi”
Số 430-435, 2666-2668, 2812: Danh Chúa Giêsu
Bài Ðọc I: Ds 6, 22-27
Bài Ðọc II: Gl 4, 4-7
Phúc Âm: Lc 2, 16-21
Số 464-469: Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và Người thật
464. Biến cố độc nhất vô nhị là việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa không có
nghĩa là Chúa Giêsu Kitô một phần là Thiên Chúa, một phần là người; cũng không
có nghĩa Người là kết quả của một sự pha trộn lẫn lộn giữa hai ban tính thần
linh và nhân loại. Người đã thật sự làm người, mà vẫn thật sự là Thiên Chúa.
Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật. Hội Thánh đã phải bảo vệ
và làm sáng tỏ chân lý đức tin này suốt những thế kỷ đầu tiên, trước các lạc
thuyết đã làm sai lạc chân lý đó.
465. Các lạc thuyết đầu tiên không phủ nhận thần tính của Đức Kitô, cho
bằng chối bỏ nhân tính thật của Người (Ảo thân thuyết theo chủ trương Ngộ đạo).
Ngay từ thời các Tông Đồ, đức tin Kitô giáo nhấn mạnh đến việc Nhập Thể thật
của Con Thiên Chúa, Đấng đã đến trong xác phàm [1] . Nhưng vào thế kỷ thứ III,
để chống lại Phaolô Samosatênô, tại Công đồng họp ở Antiôchia, Hội Thánh phải
khẳng định rằng: Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa do bản tính chứ không phải
do được nhận làm nghĩa tử. Công đồng chung thứ I, họp tại Nicêa vào năm 325,
tuyên xưng trong Tín biểu của mình rằng: Con Thiên Chúa “được sinh ra mà không
phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha” (trong tiếngHy Lạp là
homousion) [2] , và Hội Thánh đã kết án Ariô là người đã khẳng định rằng “Con
Thiên Chúa đã xuất phát từ hư vô” [3] và “có một bản thể hay yếu tính khác với
Chúa Cha” [4] .
466. Lạc thuyết cua Nestôriô cho rằng trong Đức Kitô ngôi vị nhân loại
được liên kết với Ngôi Vị thần linh của Con Thiên Chúa. Chống lại lạc thuyết
này, Thánh Cyrillô Alêxanđria và Công đồng chung thứ III họp tại Êphêsô năm 431
tuyên xưng rằng: “Ngôi Lời đã làm người, khi một thân thể do một linh hồn có lý
trí làm cho sống động được kết hợp với Ngài theo Ngôi Vị” [5] . Nhân tính của
Đức Kitô không có một chủ thể nào khác ngoài Ngôi Vị thần linh của Con Thiên
Chúa, Đấng đã nhận lấy nhân tính ấy làm của mình từ lúc tượng thai. Chính vì
vậy, Công đồng chung Êphêsô vào năm 431 công bố rằng Đức Maria, nhờ sự tượng
thai nhân loại của Con Thiên Chúa trong lòng bà, bà đã rất thật sự trở thành Mẹ
Thiên Chúa: “[Đức Maria là] Mẹ Thiên Chúa…, không phải vì bản tính của Ngôi Lời
và thần tính của Ngài đã bắt đầu được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ rất thánh, nhưng
vì từ Đức Trinh Nữ đã sinh ra thân xác thánh thiêng đó, do một linh hồn có lý
trí làm cho sống động, và Ngôi Lời Thiên Chúa đã kết hợp với thân xác đó theo
Ngôi Vị, nên có thể nói Ngôi Lời đã được sinh ra theo xác phàm” [6] .
467. Những người chủ trương thuyết Nhất Tính (Monophysitae) khẳng định:
bản tính nhân loại không còn tồn tại nơi Đức Kitô, khi bản tính đó được Ngôi Vị
thần linh của Con Thiên Chúa đảm nhận. Để chống lại lạc thuyết này, Công đồng
chung thứ IV, họp tại Chalcêđonia năm 451, tuyên xưng:
“Theo sau các thánh phụ, chúng tôi đồng thanh dạy phải tuyên xưng Một
Chúa Con Duy Nhất là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, hoàn hảo trong thần tính và
cũng hoàn hảo trong nhân tính; là Thiên Chúa thật và là người thật, gồm có một
linh hồn có lý trí và một thân xác; đồng bản thể với Đức Chúa Cha theo thần
tính mà cũng đồng bản tính với chúng ta theo nhân tính, ‘giống chúng ta về mọi
phương diện ngoại trừ tội lỗi’; [7] sinh bởi Đức Chúa Cha theo thần tính từ
trước muôn đời, và trong những thời cuối cùng này, vì chúng ta và để cứu độ
chúng ta, Người được sinh ra theo nhân tính từ Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Cùng một Đấng duy nhất là Đức Kitô, là Chúa, là Con Một, phải được nhìn
nhận trong hai bản tính một cách không lẫn lộn, không thay đổi, không phân
chia, không tách biệt, sự khác biệt giữa hai bản tính không hề bị mất đi do
việc kết hợp, nhưng các đặc điểm của mỗi bản tính đã được bảo tồn khi kết hợp
với nhau trong một Ngôi Vị và một Đấng duy nhất” [8] .
468. Sau Công đồng Chalcêđônia một số người biến nhân tính của Đức Kitô
thành như một chủ thể có ngôi vị riêng. Chống lại những người này, Công đồng
chung thứ V, họp tại Constantinôpôli, năm 553, tuyên xưng rằng: “Chỉ có một
Ngôi Vị duy nhất, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Một Ngôi Vị trong Ba Ngôi
Chí Thánh” [9] . Bởi vậy, mọi sự trong nhân tính của Đức Kitô đều phải được quy
về Ngôi Vị thần linh của Người với tư cách là chủ thể riêng của Người [10] ,
không những các phép lạ, nhưng cả những đau khổ [11] và chính cái chết: chúng
tôi tuyên xưng rằng “Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Đấng bị đóng đinh vào thập
giá về phần xác, là Thiên Chúa thật, là Chúa vinh quang, và là một Ngôi trong
Ba Ngôi chí thánh” [12] .
469. Như vậy, Hội Thánh tuyên xưng rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và
là người thật một cách không thể tách biệt. Người thật sự là Con Thiên Chúa đã
làm người, là anh em của chúng ta, mà vẫn không ngừng là Thiên Chúa, Chúa chúng
ta:
Phụng vụ Rôma hát kính: “Ngài vẫn là Ngài như trước [Ngài là Thiên Chúa],
và Ngài đã đam nhận lấy điều mà trước đó Ngài không là [Ngài làm người]” [13] .
Còn phụng vụ của thánh Gioan Kim Khẩu công bố và hát kính: “Lạy Con duy nhất và
Ngôi Lời của Thiên Chúa, dù bất tử, nhưng để cứu độ chúng con, Chúa đã đoái
thương nhập thể trong lòng Đức Maria, Mẹ rất thánh của Thiên Chúa và trọn đời
đồng trinh. Chúa đã làm người và đã chịu đóng đinh vào thập giá mà không hề
biến đổi. Lạy Đức Kitô, là Thiên Chúa, Chúa đã dùng cái chết của mình mà đập
tan sự chết, Chúa là Một trong Ba Ngôi Chí Thánh, được tôn vinh cùng với Chúa
Cha và Chúa Thánh Thần, xin cứu độ chúng con!” [14]
Số 495, 2677: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa
495. Trong các sách Tin Mừng, Đức Maria được gọi là “Thân mẫu Chúa Giêsu”
(Ga 2,1; 19,25) [15] . Cả trước khi Con Mẹ chào đời, dưới sự thúc đẩy của Chúa
Thánh Thần, Mẹ đã được gọi là “Thân mẫu Chúa tôi” (Lc 1,43). Quả thật, Đấng mà
Mẹ đã cưu mang làm người bởi phép Chúa Thánh Thần, Đấng thật sự là Con Mẹ theo
xác phàm, chính là Con vĩnh cửu của Chúa Cha, là Ngôi Hai trong Ba Ngôi chí
thánh. Vì vậy, Hội Thánh tuyên xưng Đức Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa
(Theotokos) [16] .
2677. “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con…”. Cùng với bà
Êlisabeth chúng ta sửng sốt: “Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi
thế này?” (Lc 1,43). Đức Maria, vì đã tặng ban cho chúng ta Chúa Giêsu là Con
của Mẹ, nên Mẹ là Thân mẫu của Thiên Chúa và là Thân mẫu của chúng ta: chúng ta
có thể phó thác cho Mẹ mọi nỗi âu lo và những lời cầu xin của chúng ta. Mẹ cầu
nguyện cho chúng ta như Mẹ đã cầu nguyện cho bản thân Mẹ: “Xin Chúa cứ làm cho
tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Khi phó thác để Mẹ cầu nguyện cho chúng ta,
chúng ta cùng với Mẹ phó dâng bản thân chúng ta cho thánh ý Thiên Chúa: “Nguyện
cho ý Cha thể hiện”.
“Cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”. Khi xin
Đức Mẹ cầu nguyện cho chúng ta, chúng ta nhìn nhận mình là những người tội lỗi
khốn cùng và kêu cầu đến “Mẹ của lòng thương xót”, Mẹ hoàn toàn thánh thiện.
Chúng ta trao phó bản thân cho Mẹ “khi nay”, là ngày hôm nay của cuộc đời chúng
ta. Lòng tín thác của chúng ta được mở rộng để ngay từ bây giờ chúng ta đã trao
phó “giờ lâm tử” của chúng ta cho Mẹ. Xin Mẹ hiện diện trong giờ phút đó như Mẹ
đã hiện diện lúc Con Mẹ chết trên thập giá. Vào giờ chúng ta qua đời, với tư
cách là Mẹ chúng ta [17] , xin Mẹ đón nhận và dẫn chúng ta đến với Con của Mẹ,
trên thiên đàng.
Số 1, 52, 270, 294, 422, 654, 1709, 2009: Chúng ta được nhận làm nghĩa tử
1. Thiên Chúa, tự bản thể là Đấng vô cùng hoàn hảo và hạnh phúc. Theo ý định
hoàn toàn do lòng nhân hậu, Ngài đã tự ý tạo dựng con người, để cho họ được
thông phần sự sống hạnh phúc của Ngài. Do đó, trong mọi thời và mọi nơi, Ngài
đã đến gần với con người. Thiên Chúa kêu gọi con người, giúp họ tìm kiếm Ngài,
nhận biết và đem hết tâm lực yêu mến Ngài. Thiên Chúa triệu tập mọi người, vốn
đã bị phân tán vì tội lỗi, để hợp nhất thành gia đình của Ngài là Hội Thánh. Để
thực hiện điều này, khi thời gian tới hồi viên mãn, Ngài đã sai Con Ngài đến
làm Đấng Chuộc Tội và Cứu Độ. Trong và nhờ Người Con ấy, Thiên Chúa kêu gọi
loài người để trong Chúa Thánh Thần, họ trở nên dưỡng tử của Ngài và do đó,
được thừa hưởng sự sống hạnh phúc của Ngài.
52. Thiên Chúa, Đấng “ngự trong ánh sáng siêu phàm” (1 Tm 6,16), muốn
truyền thông sự sống thần linh của Ngài cho loài người mà Ngài đã tự ý tạo
dựng, để cho họ được trở nên nghĩa tử trong Con Một của Ngài [18] . Khi tự mạc
khải, Thiên Chúa muốn làm cho loài người có khả năng đáp lại Ngài, nhận biết và
yêu mến Ngài vượt quá những gì họ có thể làm được tự sức mình.
270. Thiên Chúa là Cha toàn năng. Tình phụ tử và quyền năng của Ngài soi
sáng lẫn nhau. Quả thế, Ngài cho thấy sự toàn năng đầy tình Cha của Ngài qua
cách Ngài chăm lo cho những nhu cầu của chúng ta [19] ; qua việc Ngài nhận
chúng ta làm nghĩa tử (“Ta sẽ là Cha các ngươi, và các ngươi sẽ là con trai,
con gái của Ta, Chúa toàn năng phán như vậy”: (2 Cr 6,18); sau hết, Ngài bày tỏ
rõ ràng quyền năng của Ngài qua lòng khoan dung vô tận, khi Ngài tự ý tha thứ
các tội lỗi.
294. Vinh quang của Thiên Chúa cốt tại việc biểu lộ và truyền thông sự
tốt lành của Ngài, vì đó mà trần gian đã được tạo dựng. “Theo ý muốn nhân hậu
của Ngài, Ngài đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Chúa Giêsu Kitô, để ta hằng
ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Ngài ban tặng cho ta” (Ep 1,5-6). “Thật
vậy, vinh quang của Thiên Chúa là con người sống, và sự sống của con người là
được nhìn thấy Thiên Chúa. Nếu sự mạc khải của Thiên Chúa qua công trình tạo
dựng đã đem đến sự sống cho mọi loài trên trái đất, thì việc Ngôi Lời biểu lộ
Chúa Cha lại càng đem lại sự sống gấp bội cho những ai thấy Thiên Chúa” [20] .
Mục đích tối hậu của công trình tạo dựng là Thiên Chúa, “Đấng dựng nên mọi
loài, cuối cùng sẽ ‘có toàn quyền trên muôn loài’ (1 Cr 15,28), đem lại vinh
quang cho Ngài và đồng thời đem lại vinh phúc cho chúng ta” [21] .
422. “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới,
sinh làm con một người phụ nữ và sống dưới Lề luật, để chuộc những ai sống dưới
Lề luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5). Đây là Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa [22] : Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài [23] .
Ngài đã thực hiện những lời hứa với tổ phụ Abraham và con cháu ông [24] . Ngài
đã thực hiện vượt quá mọi điều chúng ta mong ước: Ngài đã sai Con yêu dấu của Ngài
tới [25] .
654. Trong mầu nhiệm Vượt Qua có hai khía cạnh: Đức Kitô, nhờ sự Chết của
Người, giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, nhờ sự Phục Sinh của Người, mở đường
cho chúng ta tiến vào cuộc sống mới. Trước hết, đây là sự công chính hoá, phục
hồi chúng ta trong ân sủng của Thiên Chúa [26] , để “cũng như Đức Kitô đã được
sống lại từ cõi chết…, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6,4).
Đời sống mới này cốt tại việc chiến thắng cái chết của tội lỗi, và việc tham dự
mới vào ân sủng [27] . Đời sống mới hoàn thành ơn được làm nghĩa tử, bởi vì
người ta trở thành anh em của Đức Kitô, như chính Chúa Giêsu gọi các môn đệ
Người sau cuộc phục sinh của Người: “Về báo cho anh em của Thầy” (Mt 28,10)
[28] . Anh em đây không phải do bản tính, nhưng do hồng ân của ân sủng, bởi vì
ơn được làm nghĩa tử cho chúng ta thật sự thông phần vào sự sống của Người Con
Một, sự sống đó đã được mạc khải trọn vẹn trong sự Phục Sinh của Người.
1709. Ai tin vào Đức Kitô thì trở nên con cái Thiên Chúa. Ơn được làm
nghĩa tử này biến đổi người ấy, giúp họ sống theo mẫu gương Đức Kitô. Ơn này
ban cho họ khả năng hành động đúng đắn và thực thi điều tốt. Được kết hợp với
Đấng Cứu độ của mình, người môn đệ đạt tới sự trọn hảo của đức mến, là sự thánh
thiện. Được hoàn thiện trong ân sủng, đời sống luân lý sẽ được triển nở thành
sự sống vĩnh cửu trong vinh quang trên trời.
2009. Nhờ ân sủng, ơn được làm nghĩa tử cho chúng ta được tham dự vào bản
tính Thiên Chúa, có thể đem lại cho chúng ta một công trạng đích thực theo đức
công chính nhưng không của Thiên Chúa. Đây là một quyền có được nhờ ân sủng,
quyền sung mãn của tình yêu, làm cho chúng ta nên những người “đồng thừa tự”
với Đức Kitô và xứng đáng được hưởng phần gia tài đã được hứa ban là đời sống
vĩnh cửu [29] . Công trạng do các việc tốt lành của chúng ta là những hồng ân
của lòng nhân hậu của Thiên Chúa [30] . “Ân sủng đã được ban trước, giờ đây nợ
được trả.... Các hồng ân của Thiên Chúa là những công trạng của bạn” [31] .
Số 527, 577-582: Chúa Giêsu suy phục Lề Luật và kiện toàn nó
527.Việc cắt bì cho Chúa Giêsu, ngày thứ tám sau khi Người ra đời [32] ,
là dấu chỉ việc Người được tháp nhập vào dòng dõi của tổ phụ Abraham, vào dân
của Giao Ước, là dấu chỉ sự suy phục Lề luật của Người [33] , của việc Người
đến với phụng tự Israel, nền phụng tự mà Người sẽ tham dự suốt đời Người. Dấu
chỉ này báo trước “phép cắt bì của Đức Kitô”, tức là bí tích Rửa Tội [34] .
577. Khởi đầu Bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đưa ra một giáo huấn long
trọng trong đó Người trình bày Lề luật, đã được Thiên Chúa ban tại Sinai dịp
Giao Ước đầu tiên, dưới ánh sáng của ân sủng của Giao Ước Mới:
“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môisen hoặc lời các ngôn sứ.
Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh
em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề luật cũng sẽ
không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một
trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là
kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành, và dạy làm như thế, thì sẽ được
gọi là lớn trong Nước Trời” (Mt 5,17-19).
578. Chúa Giêsu, Đấng Messia của Israel, do đó là người lớn nhất trong
Nước Trời, đã phải chu toàn Lề luật, khi tuân giữ toàn bộ Lề luật, theo chính
lời Người nói, cho đến cả những điều răn nhỏ nhất. Nói cho đúng, chính Người là
Đấng duy nhất đã có thể làm điều này một cách trọn hảo [35] . Những người Do
Thái, theo chính họ thú nhận, đã không bao giờ có thể chu toàn trọn bộ Lề luật
mà không vi phạm một điều răn nhỏ nhất nào [36] . Vì vậy trong lễ Xá Tội hằng
năm, con cái Israel cầu xin Thiên Chúa tha thứ cho những lỗi phạm Lề luật của
họ. Thật vậy, Lề luật tạo thành một tổng thể và, như thanh Giacôbê nhắc nhở,
“ai tuân giữ tất cả Lề luật, mà chỉ sa ngã về một điểm thôi, thì cũng thành
người có tội về hết mọi điểm” (Gc 2,10) [37] .
579. Những người Pharisêu rất trọng nguyên tắc tuân giữ toàn bộ Lề luật,
không những chỉ theo văn tự, mà cả theo tinh thần nữa. Khi nêu nguyên tắc đó
cho Israel, họ đã dẫn đưa nhiều người Do Thái thời Chúa Giêsu tới việc hết sức
nhiệt thành giữ đạo [38] . Điều này, nếu không bị phá huỷ do việc xét đoán mọi
sự cách “giả hình” [39] , thì nhất định đã chuẩn bị cho dân hướng tới sự can
thiệp chưa từng thấy của Thiên Chúa, là việc thi hành trọn vẹn Lề luật sẽ được
hoàn thành bởi Đấng Công Chính duy nhất thay cho mọi tội nhân [40] .
580. Việc chu toàn Lề luật cách trọn hảo chỉ có thể được thực hiện bởi
Đấng ban hành Lề luật của Thiên Chúa, là Ngôi Con, được sinh ra dưới Lề luật
[41] . Nơi Chúa Giêsu, Lề luật không còn được ghi trên bia đá nữa, nhưng “vào
lòng dạ” và “vào tâm khảm” (Gr 31,33) của Người Tôi Trung, là người, vì đã
“trung thành làm sáng tỏ công lý” (Is 42,3), nên được đặt làm “Giao Ước với
dân” (Is 42,6). Chúa Giêsu chu toàn Lề luật cho đến độ đảm nhận trên mình “lời
nguyền rủa của Lề luật” [42] mà những ai “không bền chí thi hành tất cả những
gì được chép trong sách Luật” đã chuốc lấy [43] , bởi vì Đức Kitô đã chịu chết
“mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời Giao Ước Cũ” (Dt 9,15).
581. Trước mắt người Do Thái và các nhà lãnh đạo tinh thần của họ, Chúa
Giêsu xuất hiện như một “kinh sư” [44] . Người thường tranh luận về cách giải
thích Lề luật của các kinh sư [45] . Nhưng đồng thời, Chúa Giêsu tất yếu phải
đối đầu với những tiến sĩ Luật bởi vì khi trình bày cách giải thích của mình,
Người không tự giới hạn trong những cách giải thích của họ; “vì Người giảng dạy
như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ” (Mt 7,28-29). Nơi
Người, cùng một Lời của Thiên Chúa đã từng vang lên trên núi Sinai để ban hành
Lề luật được ghi khắc cho ông Môisen, nay lại vang dội trên núi Bát Phúc [46] .
Đấng là Ngôi Lời không bãi bỏ, nhưng kiện toàn Lề luật, bằng cách đưa ra lời
giải thích tối hậu với một uy quyền thần linh: “Anh em còn nghe Luật dạy người
xưa rằng…. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết” (Mt 5,33-34). Chính Người, với
cùng một thẩm quyền thần linh ấy, phủ nhận một số “truyền thống của người phàm”
[47] (Mc 7,8) của nhóm Pharisêu, vì những truyền thống đó hủy bỏ Lời Thiên Chúa
[48] .
582. Đi xa hơn nữa, Chúa Giêsu còn kiện toàn Lề luật về sự thanh sạch của
các thức ăn, một điều hết sức quan trọng trong cuộc sống hằng ngày của người Do
Thái, khi Người cho thấy ý nghĩa “quản giáo” của luật ấy [49] bằng lời giải
thích thần linh: “Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể
làm cho con người ra ô uế…. Như vậy là Người tuyên bố mọi thức ăn đều thanh
sạch…. Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế.
Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu” (Mc 7,18-21). Khi
lấy thẩm quyền thần linh mà đưa ra lời giải thích tối hậu về Lề luật, Chúa
Giêsu ở trong tình thế đối nghịch với một số kinh sư không chấp nhận lời giải
thích của Người, mặc dù lời giải thích này được củng cố bằng những dấu lạ thần
linh kèm theo [50] . Điều này đặc biệt đúng, trong vấn đề ngày sabat. Chúa
Giêsu thường dựa trên chính lập luận của các kinh sư [51] , để nhắc nhở rằng
luật nghỉ ngơi ngày sabat không bị vi phạm khi phục vụ Thiên Chúa [52] hay phục
vụ người lân cận [53] , như trường hợp các lần Người chữa lành.
Số 580, 1972: Luật Mới giải thoát khỏi những hạn chế của Luật Cũ
580. Việc chu toàn Lề luật cách trọn hảo chỉ có thể được thực hiện bởi
Đấng ban hành Lề luật của Thiên Chúa, là Ngôi Con, được sinh ra dưới Lề luật
[54] . Nơi Chúa Giêsu, Lề luật không còn được ghi trên bia đá nữa, nhưng “vào
lòng dạ” và “vào tâm khảm” (Gr 31,33) của Người Tôi Trung, là người, vì đã
“trung thành làm sáng tỏ công lý” (Is 42,3), nên được đặt làm “Giao Ước với
dân” (Is 42,6). Chúa Giêsu chu toàn Lề luật cho đến độ đảm nhận trên mình “lời
nguyền rủa của Lề luật” [55] mà những ai “không bền chí thi hành tất cả những
gì được chép trong sách Luật” đã chuốc lấy [56] , bởi vì Đức Kitô đã chịu chết
“mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời Giao Ước Cũ” (Dt 9,15).
1972. Luật mới được gọi là luật của tình yêu, bởi vì dạy chúng ta hành
động vì tình yêu mà Chúa Thánh Thần tuôn đổ, hơn là vì sợ hãi; Luật mới được
gọi là luật của ân sủng, bởi vì mang lại sức mạnh của ân sủng để hành động nhờ
đức tin và các bí tích; Luật mới được gọi là luật của sự tự do [57] , bởi vì
giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc về nghi thức và pháp lý của luật cũ,
khiến chúng ta sẵn sàng tự nguyện hành động theo sự thúc đẩy của đức mến, và
sau hết làm cho chúng ta chuyển từ thân phận của một tôi tớ “không biết việc
chủ làm”, sang tình trạng là bạn hữu của Đức Kitô “vì tất cả những gì Thầy nghe
được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15), hoặc còn tới địa vị là
một người con thừa tự nữa [58] .
Số 683, 689, 1695, 2766, 2777-2778: Trong Chúa Thánh Thần, chúng ta có
thể gọi Thiên Chúa là “Abba - Cha ơi”
683. “Không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giêsu là Chúa’, nếu người ấy không ở
trong Thần Khí” (1 Cr 12,3). “Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự
trong lòng anh em mà kêu lên: ‘Abba, Cha ơi!’” (Gl 4,6). Sự nhận biết đó của
đức tin chỉ có thể có được trong Chúa Thánh Thần. Để được hiệp thông với Đức
Kitô, trước hết cần phải được Chúa Thánh Thần đánh động. Ngài đến với chúng ta
trước và khơi dậy đức tin trong chúng ta. Nhờ phép Rửa Tội của chúng ta, là bí
tích đầu tiên của đức tin, mà sự sống, vốn bắt nguồn nơi Chúa Cha và được ban
cho chúng ta trong Chúa Con, được truyền thông một cách thân mật và cá vị bởi
Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh:
Bí tích Rửa Tội “ban cho chúng ta ơn tái sinh trong Chúa Cha, nhờ Con của
Ngài, trong Chúa Thánh Thần. Bởi vì những ai mang Thần Khí Thiên Chúa, thì được
dẫn đến với Ngôi Lời, nghĩa là đến với Chúa Con; nhưng Chúa Con trình diện họ
với Chúa Cha và Chúa Cha ban cho họ sự bất diệt. Vì vậy, không có Thần Khí thì
không thể thấy Con Thiên Chúa, và không có Chúa Con thì không ai có thể đến gần
Chúa Cha, bởi vì Chúa Con là sự nhận biết Chúa Cha, và sự nhận biết Con Thiên
Chúa là nhờ Chúa Thánh Thần” [59] .
689. Đấng mà Chúa Cha đã sai đến trong tâm hồn chúng ta, Thần Khí của Con
Ngài [60] , Đấng ấy thật sự là Thiên Chúa. Là Đấng đồng bản thể với Chúa Cha và
Chúa Con, Ngài không thể bị tách biệt khỏi Chúa Cha và Chúa Con, trong đời sống
thâm sâu của Ba Ngôi cũng như trong hồng ân tình yêu của Ba Ngôi dành cho trần
gian. Nhưng đức tin của Hội Thánh, khi tôn thờ Ba Ngôi Chí Thánh ban sự sống,
đồng bản thể và không thể phân chia, cũng tuyên xưng sự phân biệt giữa các Ngôi
Vị. Khi Chúa Cha sai Lời của Ngài đến, Ngài luôn sai Thần Khí của Ngài nữa: một
sứ vụ phối hợp trong đó Chúa Con và Chúa Thánh Thần được phân biệt, nhưng không
thể tách biệt. Đức Kitô là Đấng xuất hiện vì Người là hình ảnh hữu hình của
Thiên Chúa vô hình, nhưng chính Chúa Thánh Thần là Đấng mạc khải Đức Kitô.
1695. Các Kitô hữu, “được nên công chính nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ
Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta” (1 Cr 6,11), được thánh hoá và được gọi là
thánh [61] , họ trở thành “đền thờ của Chúa Thánh Thần” (1 Cr 6,19). Chính
“Thần Khí của Chúa Con” dạy họ cầu nguyện với Chúa Cha [62] , và khi đã trở nên
sự sống của họ, Ngài thúc đẩy họ hành động [63] , để mang lại hoa trái của Thần
Khí [64] , nhờ thực hiện đức mến. Khi chữa lành các vết thương của tội lỗi,
Chúa Thánh Thần canh tân nội tâm chúng ta bằng sự biến đổi thiêng liêng [65] ,
Ngài soi sáng chúng ta và củng cố để với tư cách là “con cái ánh sáng” (Ep
5,8), chúng ta sống “lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5,9).
2766. Nhưng Chúa Giêsu không để lại cho chúng ta một công thức được lặp
đi lặp lại cách máy móc [66] . Cũng như trong bất cứ lời khẩu nguyện nào, chính
nhờ Ngôi Lời Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần dạy cho con cái Thiên Chúa biết cầu
nguyện với Cha họ. Chúa Giêsu không những ban cho chúng ta những lời cầu nguyện
của người con hiếu thảo, mà đồng thời Người còn ban tặng chúng ta Thần Khí để
những lời ấy trở thành “thần khí và là sự sống” (Ga 6,63) trong chúng ta. Hơn
nữa, chúng ta có lý do và có khả năng dâng lời cầu nguyện con thảo là vì Chúa
Cha “đã sai Thần Khí của Con Ngài đến ngự trong lòng chúng ta mà kêu lên:
‘Abba, Cha ơi’” (Gl 4,6). Bởi vì lời cầu nguyện của chúng ta nói lên những ước
muốn của chúng ta trước mặt Chúa Cha, nên Đấng “thấu suốt tâm can”, tức là Chúa
Cha, “biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh
theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,27). Việc cầu nguyện dâng lên Cha chúng ta được
đưa vào trong sứ vụ huyền diệu của Chúa Con và của Thần Khí.
2777. Trong phụng vụ Rôma, cộng đoàn tham dự thánh lễ được mời đọc kinh
Lạy Cha với sự bạo dạn của người con hiếu thảo; các phụng vụ Đông Phương cũng
dùng những cách diễn tả tương tự và triển khai thêm: “Chúng con dám tin tưởng
nguyện rằng”, “xin làm cho chúng con xứng đáng”. Trước bụi gai rực cháy, có
tiếng phán bảo ông Môisen: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra!” (Xh 3,5). Duy một
mình Chúa Giêsu có thể bước qua ngưỡng cửa của sự thánh thiện của Thiên Chúa,
vì Người là Đấng “đã tẩy trừ tội lỗi” (Dt 1,3), dẫn chúng ta đến trước tôn nhan
Chúa Cha: “Này Con đây, cùng với những con cái mà Cha đã ban cho Con” (Dt
2,13).
“Ý thức về tình trạng nô lệ của mình sẽ dìm chúng ta xuống đất, thân phận
phàm trần sẽ tiêu tan thành bụi tro, trừ phi quyền bính của chính Chúa Cha,
Thần Khí của Con Ngài thúc đẩy chúng ta kêu lên lời này. Thiên Chúa đã sai Thần
Khí của Con Ngài kêu lên trong lòng chúng ta: ‘Abba, Cha ơi!’ (Rm 8,15). Có khi
nào một phàm nhân đáng chết dám gọi Thiên Chúa là Cha, nếu quyền năng của
thượng giới không tác động vào nội tâm con người?” [67]
2778. Quyền năng này của Thần Khí, Đấng dẫn đưa chúng ta vào Lời Kinh
Chúa dạy, được diễn tả trong các phụng vụ Đông và Tây phương, bằng kiểu nói đẹp
đẽ, mang nét đặc trưng Kitô giáo, là “parrhesia”, có nghĩa là sự đơn sơ thẳng
thắn, lòng tin tưởng của người con thảo, sự an tâm phấn khởi, sự bạo dạn khiêm
tốn, sự xác tín rằng chúng ta được yêu thương [68] .
Số 430-435, 2666-2668, 2812: Danh Chúa Giêsu
430. Trong tiếng Do thái, “Giêsu” có nghĩa là “Thiên Chúa Cứu Độ”. Khi
Truyền tin, thiên thần Gabriel dạy đặt tên cho Người là Giêsu; tên gọi này vừa
diễn tả căn tính của Người, vừa diễn tả sứ vụ của Người [69] . Bởi vì không ai
“có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa” (Mc 2,7), cho nên, trong Chúa
Giêsu là Con vĩnh cửu của Ngài, đã làm người, chính Thiên Chúa “sẽ cứu dân Ngài
khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). Như vậy, nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa tóm kết toàn
bộ lịch sử cứu độ của Ngài cho nhân loại.
431. Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa không chỉ bằng lòng với việc giải
thoát Israel khỏi “cảnh nô lệ” (Đnl 5,6) khi đưa họ ra khỏi Ai cập. Ngài còn
cứu họ khỏi tội lỗi của họ nữa. Bởi vì tội luôn là một xúc phạm đến Thiên Chúa
[70] , nên chỉ mình Ngài mới có quyền tha tội [71] . Vì vậy, khi Israel càng ý
thức rõ hơn về tính phổ quát của tội lỗi, họ càng không thể tìm kiếm ơn cứu độ
ngoài việc khẩn cầu danh Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc [72] .
432. Danh “Giêsu” nói lên rằng chính Danh Thánh Thiên Chúa hiện diện nơi
bản thân của Con Ngài [73] , Đấng đã làm người để cứu chuộc mọi người khỏi tội
lỗi một cách dứt khoát. “Giêsu” là một Danh thần linh, Danh duy nhất mang lại
ơn cứu độ [74] , và từ nay mọi người có thể kêu cầu Danh của Người, bởi vì qua
việc Nhập Thể, chính Người đã tự kết hợp với tất cả mọi người [75] đến độ “dưới
gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta
phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,12) [76] .
433. Thánh danh Thiên Chúa Cứu Độ được vị thượng tế kêu cầu mỗi năm một
lần để xin ơn xá tội cho Israel, khi ông lấy máu của hy lễ rảy lên bàn xá tội
trong nơi Cực Thánh [77] . Bàn xá tội xưa là nơi Thiên Chúa hiện diện [78] .
Khi thánh Phaolô nói về Chúa Giêsu: “Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội nhờ
máu của Người” (Rm 3,25), ông muốn nói rằng trong bản tính nhân loại của Chúa
Giêsu, “Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Ngài” (2 Cr 5,l9).
434. Việc phục sinh của Chúa Giêsu làm hiển vinh thánh danh Thiên Chúa
Cứu Độ [79] , bởi vì từ lúc đó Danh Giêsu bày tỏ cách trọn vẹn quyền năng tối
thượng của “Danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2,9-l0). Các Thần
dữ khiếp sợ Danh Người [80] , và nhân Danh Người, các môn đệ Chúa Giêsu làm nhiều
phép lạ [81] , bởi vì tất cả những gì họ xin Chúa Cha nhân danh Chúa Giêsu,
Chúa Cha đều ban cho họ [82] .
435. Danh Chúa Giêsu nằm ở trung tâm của kinh nguyện Kitô giáo. Tất cả
các lời nguyện trong phụng vụ đều kết thúc bằng công thức: “Nhờ Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng con”. Tột đỉnh của Kinh Kính Mừng Maria là câu “và Giêsu, con lòng
Bà gồm phúc lạ”. Lời tâm nguyện của Giáo Hội Đông phương, gọi là “Lời khẩn
nguyện Chúa Giêsu” (oratio Iesu) thưa lên rằng: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên
Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Nhiều Kitô hữu đã chết khi mieng chỉ
kêu danh thánh “Giêsu”, như thánh nữ Jeanne d’Arc [83] .
2666. Nhưng Danh thánh hàm chứa tất cả các tước hiệu trên là Danh thánh
mà Con Thiên Chúa đã tiếp nhận trong cuộc Nhập Thể: đó là Danh thánh GIÊSU.
Danh Thiên Chúa là siêu phàm, môi miệng loài của chúng ta không được đọc lên
[84] , nhưng Ngôi Lời Thiên Chúa, khi nhận lấy bản tính nhân loại của chúng ta,
đã trao Danh ấy cho chúng ta, và chúng ta có thể kêu cầu Danh ấy: “Giêsu”,
nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ” [85] . Danh thánh Giêsu bao hàm mọi sự: Thiên Chúa
và con người cùng với toàn thể Nhiệm cục tạo dựng và cứu độ. Cầu nguyện danh
“Giêsu”, là khẩn cầu Người, là kêu gọi Người. Danh của Người là Danh duy nhất
hàm chứa sự hiện diện mà Danh ấy biểu thị. Chúa Giêsu là Đấng phục sinh, và bất
cứ ai kêu cầu Danh Người thì đón nhận Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương họ và
tự nộp mình vì họ [86] .
2667. Lời khẩn nguyện này của đức tin, tuy đơn sơ, đã được khai triển
dưới nhiều hình thức trong truyền thống kinh nguyện Đông và Tây phương. Công
thức thông dụng nhất, được các đan sĩ ở núi Sinai, Syria và núi Athos truyền
lại, là lời khẩn nguyện: “Lạy Đức Giêsu Kitô, là Con Thiên Chúa, và là Chúa
chúng con, xin thương xót chúng con là những kẻ tội lỗi”. Công thức này phối
hợp thánh thi ca ngợi Đức Kitô trong Thư gửi giáo đoàn Philipphê (2,6-11) với
lời van xin của người thu thuế và những người xin được sáng mắt [87] . Nhờ lời
khẩn nguyện này, tâm hồn được hòa nhịp với sự khốn cùng của con người và lòng
thương xót của Đấng Cứu Độ họ.
2668. Lời khẩn nguyện Danh thánh Chúa Giêsu là con đường đơn giản nhất
của việc cầu nguyện liên lỉ. Được thường xuyên lặp đi lặp lại bởi một tâm hồn
chăm chú cách khiêm tốn, lời khẩn nguyện này không bị phân tán thành những lời
“lải nhải” (Mt 6,7), nhưng “nắm giữ Lời Chúa và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết
quả” [88] . Lời khẩn nguyện này có thể thực hiện “luôn luôn”, vì đây không phải
là một công việc bên cạnh một công việc khác, nhưng chỉ là công việc duy nhất,
đó là việc yêu mến Thiên Chúa, công việc này làm sinh động và biến đổi mọi hoạt
động trong Đức Kitô Giêsu.
2812. Sau cùng, Danh của Thiên Chúa chí thánh được mạc khải và được ban
tặng cho chúng ta trong Chúa Giêsu, trong xác thể, với tư cách là Đấng Cứu Độ
[89] : Danh Thiên Chúa được mạc khải bằng điều “Người Là”, bằng lời Người và
bằng hy lễ của Người [90] . Đó là trung tâm của lời nguyện tư tế của Người: Lạy
Cha chí thánh, “vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ
cũng được thánh hiến” (Ga 17,19). Bởi vì Chúa Giêsu đã “thánh hiến” Danh của
Người [91] , nên Người “biểu lộ” cho chúng ta Danh của Chúa Cha [92] . Lúc
Người hoàn tất cuộc Vượt Qua, Chúa Cha ban cho Người một Danh vượt trên mọi
danh: Đức Giêsu là Chúa để tôn vinh Thiên Chúa Cha [93] .
Bài Ðọc I: Ds 6, 22-27
“Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel và Ta sẽ chúc lành cho chúng”.
Trích sách Dân Số.
Chúa phán cùng Môsê rằng: “Hãy nói với Aaron và con cái nó rằng: Các
ngươi hãy chúc lành cho con cái Israel; hãy nói với chúng thế này: “Xin Chúa
chúc lành cho con, và gìn giữ con. Xin Chúa tỏ nhan thánh Chúa cho con, và
thương xót con. Xin Chúa ghé mặt lại cùng con, và ban bằng yên cho con”. Họ sẽ
kêu cầu danh Ta trên con cái Israel, và Ta sẽ chúc lành cho chúng”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 66, 2-3. 5. 6 và 8
Ðáp: Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con.
Xướng: 1) Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con; xin
chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn
biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ.
Ðáp: Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con.
2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân,
và Ngài cai quản các nước địa cầu.
Ðáp: Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con.
3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài; thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng
Ngài! Xin Thiên Chúa ban phúc lành cho chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái
đất kính sợ Ngài.
Ðáp: Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con.
Bài Ðọc II: Gl 4, 4-7
“Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, khi đã tới lúc thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con
Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ Luật, để cứu chuộc những người
ở dưới chế độ Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử. Sở dĩ vì anh em
được làm con, Thiên Chúa đã sai Thần Trí của Con Ngài vào tâm hồn chúng ta, kêu
lên rằng: “Abba!”, nghĩa là “Lạy Cha!” Thế nên, bạn không còn phải là tôi tớ,
nhưng là con; mà nếu là con, tất bạn cũng là người thừa kế, nhờ ơn Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Dt 1, 1-2
Alleluia, alleluia! - Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng
các tiên tri mà phán dạy cha ông, nhưng đến thời sau hết, tức là trong những
ngày này, Người đã phán dạy chúng ta nơi người Con. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 2, 16-21
“Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi... và tám ngày sau người ta gọi
tên Người là Giêsu”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse
và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về
hài nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử
thuật lại cho họ.
Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những
mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem
thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên
Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong
lòng mẹ.
Ðó là lời Chúa.
_______
[1] X. 1 Ga 4,2-3; 2 Ga 7.
[2] Tín biểu Nicêa: DS 125.
[3] CĐ Nicêa, Epistula synodalis
“Epeidê tês” ad Aegyptios: DS 130.
[4] Tín biểu Nicêa: DS 126.
[5] CĐ Êphêsô, Epistula II Cyrilli
Alexandrini ad Nestorium: DS 250.
[6] CĐ Êphêsô, Epistula II Cyrilli Alexandrini ad Nestorium: DS 251.
[7] X. Dt 4,15.
[8] CĐ Chalcêđônia, : DS 301-302.
[9] CĐ Constantinôpôli II, Sess. 8a. Canon 4: DS 424.
[10] X. CĐ Êphêsô, Anathematismi Cyrilli Alexandrini, 4: DS 255.
[11] X. CĐ Constantinôpôli II,
Sess. 8a. Canon 3: DS 423.
[12] X. CĐ Constantinôpôli II,
Sess. 8a. Canon 10: DS 432.
[13] Lễ trọng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, Điệp ca kinh “Benedictus”:
Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v.1 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 394;
x. Thánh Lêô Cả, Sermo 21, 2: CCL 138, 87 (PL 54, 192).
[14] Officium Horarum Byzantinum, Hymnus “Ho monogenês: Opologion to
mega” (Romae 1876) 82.
[15] X. Mt 13,55.
[16] X. CĐ Êphêsô, Epistula II Cyrilli Alexandrini ad Nestorium: DS 251.
[17] X. Ga 19,27.
[18] X. Ep 1,4-5.
[19] X. Mt 6,32.
[20] Thánh Irênê, Adversus haereses, 4, 20, 7: SC 100, 648 (PG 7, 1037).
[21] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 2: AAS 58 (1966) 948.
[22] X. Mc 1,1.
[23] X. Lc 1,68.
[24] X. Lc 1,55.
[25] X. Mc 1,11.
[26] X. Rm 4,25.
[27] X. Ep 2,4-5; 1 Pr 1,3.
[28] X. Ga 20,17.
[29] X. CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 16: DS
1546.
[30] X. CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 16: DS
1548.
[31] Thánh Augustinô, Sermo 298, 4-5:SPM 1, 98-99 (PL 38, 1367).
[32] X. Lc 2,21.
[33] X. Gl 4,4.
[34] X. Cl 2,11-13.
[35] X. Ga 8,46.
[36] X. Ga 7,19; Cv 13,38-41; 15,10.
[37] X. Gl 3,10; 5,3.
[38] X. Rm 10,2.
[39] X. Mt 15,3-7; Lc 11,39-54.
[40] X. Is 53,11; Dt 9,15.
[41] X. Gl 4,4.
[42] X. Gl 3,13.
[43] X. Gl 3,10.
[44] X. Ga 11,28; 3,2; Mt 22,23-24.34-36.
[45] X. Mt 12,5; 9,12; Mc 2,23-27; Lc 6,6-9; Ga 7,22-23.
[46] X. Mt 5,1.
[47] X. Mc 7,8.
[48] X. Mc 7,13.
[49] X. Gl 3,24.
[50] X. Ga 5,36; 10,25.37-38; 12,37.
[51] X. Mc 2,25-27; Ga 7,22-24.
[52] X. Mt 12,5; Ds 28,9.
[53] X. Lc 13,15-16; 14,3-4.
[54] X. Gl 4,4.
[55] X. Gl 3,13.
[56] X. Gl 3,10.
[57] X. Gc 1,25; 2,12.
[58] X. Gl 4,1-7.21-31; Rm 8,15-17.
[59] Thánh Irênê, Demonstratio praedicationis apostolicae, 7: SC 62,
41-42.
[60] X. Gl 4,6.
[61] X. 1 Cr 1,2.
[62] X. Gl 4,6.
[63] X. Gl 5,25.
[64] X. Gl 5,22.
[65] X. Ep 4,23.,
[66] X. Mt 6,7; 1V 18,26-29.
[67] Thánh Phêrô Kim ngôn, Sermo 71, 3: CCL 24A, 425 (PL 52, 401).
[68] X. Ep 3,12; Dt 3,6; 4,16; 10,19; 1 Ga 2,28; 3,21; 5,14.
[69] X. Lc 1,31.
[70] X.Tv 51,6.
[71] X.Tv 51,11.
[72] X. Tv 79,9.
[73] X. Cv 5,41; 3 Ga 7.
[74] X. Ga 3,18; Cv 2,21.
[75] X. Rm 10,6-13.
[76] X. Cv 9,14; Gc 2,7.
[77] X. Lv 16,15-16; Gv 50,22; Dt 9,7.
[78] X. Xh 25,22; Lv 16,2; Ds
7,89; Dt 9,5.
[79] X. Ga 12,28.
[80] X. Cv 16,16-18; 19,13-16.
[81] X. Mc 16,17.
[82] X. Ga 15,16.
[83] X. La réhabilitation de Jeanne la Pucelle. L’enquête ordonnée par
Charles VII en 1450 et le codicille de Guillaume Bouille, ed. P. Doncoeur-Y.
Lanhers (Paris 1956) 39. 45. 56.
[84] X. Xh 3,14; 33,19-23.
[85] X. Mt 1,21.
[86] X. Rm 10,13; Cv 2,21; 3,15-16;
Gl 2,20.
[87] X. Lc 18,13; Mc 10,46-52..
[88] X. Lc 8,15.
[89] X. Mt 1,21; Lc 1,31.
[90] X. Ga 8,28; 17,8; 17,17-19.
[91] X. Ed 20,39; 36,20-21.
[92] X. Ga 17,6.
[93] X. Pl 2,9-11.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét