GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN NĂM C
Số 714: Sự mong đợi trong Cựu Ước về Mêsia và Thần Khí
Số 714. Chính vì vậy, Đức khởi đầu cuộc tấn công cho vay Báo Tin Mừng của Người dùng cách áp dụng cho mình đoạn sau đây của Tiên tri Isaia (Lc 4,18-19) [1] :
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn,
Ngài đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha,
cho người biết họ được sáng mắt,
trả lại tự làm cho người bị áp bức,
công bố một năm hồng ân của Chúa”.
Số 1965-1974: Luật mới và Tin Mừng
Số 1965. Luật mới hay Luật Tin Mừng là sự hoàn hảo nơi trần thế của Luật thần linh, tự nhiên và được khải. Đây là công trình của Đức Giết, được trình bày theo cách đặc biệt trong Bài nghiên cứu trên núi. Đây cũng là công trình của Chúa Thánh Thần, và nhờ ngài, nó trở thành luật nội tâm của đức viếng thăm: “Ta hoàn thành một Giao ước Mới với nhà Israel và nhà Giuđa.... Ta sẽ ghi vào lòng họ, sẽ giải quyết tâm khảm của chúng ta về luật pháp; Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng còn chúng sẽ là Dân của Ta” (Dt 8,8.10) [2] .
Số 1966 . Luật mới là ân sủng của Chúa Thánh Thần được ban cho các tín hữu giúp đỡ vào Đức Kitô. Luật này hoạt động nhờ đức viếng mộ, và dùng Bài giảng trên núi của Chúa để dạy chúng ta những điều phải làm, và dùng các bí tích để truyền ân sủng giúp đỡ chúng ta thực hiện điều đó:
“Nếu ai sốt sắng và bình tâm suy nghĩ bài giảng được Chúa chúng ta là Chúa Giêsu Kitô bố bố trên núi, như chúng ta đọc trong Sách Tin Mừng theo thánh Matthêu, tôi nghĩ rằng người đó sẽ gặp được ở đó, vì là những lời răn dạy tốt nhất, một luật khoáng hảo của đời sống Chết Hữu. Bài giảng này chứa đựng tất cả những mệnh lệnh mà nhờ đó đời sống Chết hữu được đúc đúc nên” [3] .
Số 1967. Luật Tin Mừng hoàn thành [4] , luyện tập, vượt qua và toàn Luật cũ. Trong mối mối Phúc, Luật mới hoàn thành những lời hứa thần linh khi nâng cao chúng lên và hướng dẫn chúng về “Nước Trời”. Luật Tin Mừng dành cho những ai sẵn sàng đón nhận niềm hy vọng mới này với lòng tin: những người nghèo, người Khiêm tốn, người đau khổ, người có tim trái trong sạch, người bị bách hại vì Đức Kiệt, như vậy Luật Tin Mừng phác họa những con đường chưa từng thấy của Nước Trời.
Số 1968. Luật Tín Mừng hoàn thành các mệnh lệnh của Luật Luật. Bài giải của Chúa không bỏ hay làm giảm giá trị các quy định luân lý của Luật cũ, nhưng rút ra những sức mạnh còn ẩn kín của chúng, và làm cho từ nơi chúng phát sinh ra những đòi hỏi mới: Luật Tin Mừng sa mạc khải toàn bộ chân lý thần linh và nhân linh của Luật cũ. Luật mới không bổ sung những mệnh lệnh mới từ bên ngoài, nhưng đi đến chỗ biến đổi gốc rễ của các hành vi, là trái tim, nơi con người lựa chọn giữa thanh sạch và ô uế [5] , nơi hình thành đức tin, đức tin, tôn kính, và cùng với họ, các nhân đức khác. Như vậy, Tin Mừng đưa Lề Luật tới sự viên mãn của nó nhờ bắt sự tinh tế của Cha trên trời [6] , nhờ việc tha thứ cho kẻ thù và cầu nguyện cho những người bách hại, giống như lòng quảng đại của Thiên Chúa [7] .
Số 1969. Luật mới thực thi các hành vi tôn giáo : bố thí, cầu nguyện và chay tịnh, khi quy định các công việc về “Chúa Cha, thải sạch những gì kín bọc”, khác với những người muốn “được người” ta thấy”. [8] Lời cầu nguyện của Luật mới là kinh “Lạy Cha” [9] .
Số 1970. Luật Tin Mừng bao hàm sự lựa chọn thuốc kiên quyết giữa “hai con đường” [10] , và thực hiện các lời giảng dạy của Chúa [11] ; Luật Tin Mừng được nhân lược trong mã vàng thước ngọc : “Tất cả những gì anh muốn người ta làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môisen và lời ngôn sứ là thế đó” ( Mt 7,12) [12] .
Toàn bộ Luật Mừng được chứa đựng sự bảo vệ trong điều răn mới của Chúa Giêsu [13] , là chúng ta hãy yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta [14] .
Số 1971 . Phải bổ sung vào bài giảng của Chúa giáo lý luân lý trong giáo dục của các Tông đồ, như đoạn Rm 12-15; 1Cr 12-13; Cl 3-4; Tập 4-5; vv... Giáo huấn này lưu truyền đạo lý của Chúa với quyền bính của các Tông Đồ, đặc biệt trong chương trình trình bày các nhân đức sản xuất đức tin vào Đức Kitô và là các nhân đức được ân đức, hồng ân chủ Yếu tố của Chúa Thánh Thần, làm cho sinh động. “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ... thương mến nhau với tình huynh đệ... Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ hiển chiến lúc gặp gian truan, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong thánh lâm cảnh thiếu thốn cơ sở vật chất và ân cần tiếp đãi khách đến nhà” (Rm 12,9-13). Giáo lý này cũng dạy chúng ta giải quyết những vấn đề lương tâm dưới ánh sáng của mối tương quan giữa chúng ta với Đức Kitô và với Hội Thánh [15] .
Số 1972. Luật mới được gọi là luật tình yêu, bởi vì chúng ta hành động vì tình yêu mà Chúa Thánh Thần tuôn đổ, hơn là vì sợ hãi; Luật mới được gọi là luật ân huệ , bởi vì mang lại sức mạnh ân sủng để hành động nhờ đức tin và các bí tích; Luật mới được gọi là luật của sự tự do [16] , bởi vì giải thoát chúng khỏi những ràng buộc về nghi thức và pháp lý của luật cũ, khiến chúng sẵn sàng tự nguyện hành động theo sự thúc đẩy của đức tin , và sau hết làm cho chúng ta chuyển từ thân phận của một tôi đến “không biết việc làm chủ”, hát tình trạng là bạn hữu của Đức Chết “vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15), hoặc còn tới địa chỉ vị trí là một người thừa nữa [17] .
Số 1973. Luật mới, ngoài những điều chuông của mình, còn bao gồm những lời khuyên Phúc Âm . Sự phân biệt của truyền thống giữa các điều chuông của Thiên Chúa với các lời khuyên Phúc Âm được thiết lập liên quan đến đức viếng thăm, là sự hoàn hảo của đời sống Kitô hữu. Những lời chào mừng giúp tránh những điều không hợp lý với tôn kính. Những lời khuyên có mục giúp tránh những điều gì, mặc dầu không đối nghịch, nhưng có thể ngăn chặn sự phát triển của đức viếng thăm [18] .
Số 1974. Những lời khuyên Phúc âm biểu thị sự sung mãn cuộc sống động của một đức viếng không bao giờ hài lòng, vì đã không cho đi nhiều hơn nữa. Lời khuyến khích chứng minh sự cung hiến của tôn kính và kích động sẵn có của chúng ta. Luật mới chủ yếu cốt lõi các điều âm thanh là tôn thờ Chúa yêu người. Những lời khuyên nên chỉ ra những con đường trực tiếp hơn, những phương tiện tiện lợi dễ dàng hơn và phải được thực thi tùy theo lời gọi của mỗi người:
“Thiên Chúa không muốn mỗi người đều phải giữ tất cả các lời khuyên, nhưng chỉ những lời khuyên nào thích hợp với sự khác biệt của các nhân vị, các thời đại, các hoàn cảnh và các sức lực, như tôn kính đòi hỏi ; Thật vậy, chính đức tôn giáo, như là nữ hoàng của mọi nhân đức, mọi giới hạn, mọi lời khuyên khuyên, và cuối cùng, mọi lề luật và mọi hành động Kitô giáo, nên đức thờ ban cho tất cả những điều đo phòng , trật tự, thời gian và giá trị của chúng” [19] .
Số 106, 108, 515: Thiên Chúa linh ngẫu cho các tác giả Kinh Thánh và những người đọc
Số 106. Thiên Chúa đã linh hồn cho các tác giả phàm nhân viết ra các thánh kinh. “Để viết ra các thánh sách, Thiên Chúa đã chọn những người và dùng họ trong tài năng và sức mạnh của họ, để khi chính Ngài hành động trong họ và qua họ, họ viết ra như những tác giả đích thực tất cả những gì Chúa muốn, và chỉ những điều đó thôi” [20] .
Số 108. Tuy nhiên, đức tin Kitô giáo không phải là một “tôn giáo của Sách”. Giáo giáo là tôn giáo của “Lời” Thiên Chúa: Lời đó “không phải là lời được viết ra và im lặng, nhưng là Ngôi Lời nhập thể và sống động” [21] . Cần thiết là phải có Đức Kitô, Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa hằng sống, nhờ Chúa Thánh Thần, mở trí cho chúng ta, thì chúng ta mới hiểu được Thánh Kinh [22] , nếu không thì các sách đó chỉ là văn bản tự chết.
Số 515. Sách Tin Mừng đã được viết bởi những người trong số những người đầu tiên đã có đức tin [23] , và mong muốn những người khác được tham gia vào đức tin đó. Đã được biết đến Chúa Giêsu là ai trong đức tin, họ có thể tìm thấy và chỉ cho người khác tìm thấy những dấu tích huyền nhiệm của Người trong suốt cuộc đời trần thế của Người. Từ những mảnh vụn thân ngày Người Giáng Sinh [24] , cho đến chút ít lúc Người đau khổ hình [25] , và tấm khăn liệm ngày Người Phục Sinh [26] , mọi sự trong cuộc đời Chúa Giêsu đều là dấu chỉ Nhiệm vụ của Người. Qua những cử chỉ, những điều được phép lạ, những lời nói của Người, Người hoang khải “nơi Người, tất cả các viên mãn tính của thần tính hiện diện cách cụ thể” (Cl 2,9). Như vậy, nhân tính của Người xuất hiện như một “bí tích”, nghĩa là, một dấu chỉ và công cụ của thần tính của, và của ơn tình mà Người mang lại: những gì hữu hình trong cuộc đời trần thế Của Người, dẫn dắt chúng ta đến với huyền vô hình, là địa vị làm Con Thiên Chúa của Người và sứ mệnh nghiên cứu của Người.
Số 787-795: Hội Thánh là Thân Thể Đức Kitô
Số 787. Ngay từ đầu, Chúa Giêsu đã kết hợp các môn đệ đệ vào cuộc đời người [27] ; Người đã khảm khảm cho họ huyền nhiệm Nước Trời [28] ; và cho họ được tham dự vào sứ vụ, niềm vui [29] và những nỗi đau của Người [30] . Chúa Giêsu còn nói đến một Hiệp thông mật thiết hơn nữa giữa Người với những ai đi theo Người: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em…. Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15,4-5). Và Người cho vay một Hiệp thông bí nhiệm và thực sự giữa thân thể của Người và thể của họ ta: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi lại ở trong người ấy” (Ga 6, 56).
Số 788. Khi không còn hiện diện hữu hình với các môn đệ của Người, Chúa Giêsu đã không để họ phải mồ côi [31] . Người hứa Người sẽ ở cùng họ cho đến tận tận thế [32] . Người sai Thần Khí của Người đến với họ [33] . Như vậy hiệp thông với Chúa Giêsu bằng cách nào đó đã trở thành nên mật thiết hơn: “Quả thật, bằng cách truyền thông Thần Khí của Người, Chúa Giêsu đã thiết lập các anh em Người, được triệu tập từ dân dân, thành thân thể của Người một cách huyền nhiệm” [34] .
Số 789. Việc so sánh Hội Thánh với một thân thể làm sáng tỏ sức mạnh quân sự giữa Hội Thánh và Đức Kitô. Hội Thánh không chỉ được quy tụ xung quanh Đức Chết ; Hội Thánh nên một trong Người , trong Thân Thể của Người. Có ba cạnh của Hội Thánh – Thân Thể Đức Kitô, cần được lưu ý đặc biệt: sự hợp nhất của mọi chi thể với nhau nhờ họ kết hợp với Đức Kitô; Đức Chết là Đầu của Thân Thể; và Hội Thánh là Hiền Thế của Đức Chết.
“Một Thân Thể duy nhất”
Số 790. Khi đáp lại Lời Thiên Chúa và trở nên chi thể của Thân Thể Đức Kitô, các tín hữu được kết nối mật khẩu thiết bị Đức Kitô: “Trong thân thể đó, sự sống của Đức Kitô được truyền thông cho các tín hữu là những người nhờ các bí tích đã được kết hợp một cách bí hiểm và thực sự với Đức Hy vọng chịu nạn và được tôn vinh” [35] . Điều đặc biệt này là thực sự tranh luận về tội lỗi, nhờ bí tích này chúng tôi được kết hợp với cái chết và sự sống lại của Đức Kiến [36] , và tranh luận bí tích Thánh Thể, nhờ bí tích này “khi chúng ta được tham gia vào Thân Thể của Chúa, chúng ta được nâng cấp lên Hiệp thông với Người và với nhau” [37] .
Số 791. Sự hợp nhất trong Thân Thể không làm mất tính chất đa dạng của các chi thể: “Trong việc xây dựng Thân Thể của Đức Kitô, có sự đa dạng của các chi thể và các bộ phận phục vụ. Chỉ có một Thần Khí, Phân phát các hồng ân khác nhau của Ngài, theo sự giàu có của Ngài và theo nhu cầu của các đặc vụ để mang lại lợi ích cho Hội Thánh” [38] . Sự hợp nhất của Nhiệm vụ Thể làm phát sinh và Cổ võ đức ngưỡng giữa các tín hữu. “Từ đó, nếu một chi có thể đau khổ, thì tất cả các chi có thể đều đau khổ; còn nếu một chi có thể được vinh dự thì tất cả các chi có thể đều chung vui” [39] . Sau cùng, sự hợp nhất của Thân Thể Đức Chiến thắng mọi chia Nhân loại: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kiệt, đều mặc lấy Đức Chết; không còn chuyện phân biệt Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; Nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Giết” (Gl 3,27-28).
Đức Sơn là đầu của Thân Thể này
Số 792. Đức Kitô là “Đầu của Thân Thể, nghĩa là Đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18). Người là Nguyên lý của trình tạo trình xây dựng và trình nghiên cứu. Khi được thăng cấp trong vinh quang của Chúa Cha, “Người đứng hàng đầu trong mọi sự” (Cl 1,18), nhất là trong Hội Thánh, và qua Hội Thánh, Người mở rộng Nước của Người trên mọi sự.
Số 793. Chính Người kết hợp chúng ta với cuộc vượt Qua của Người : Mọi chi thể phải trở nên giống như Người “cho đến khi Đức Kitô được hình thành” nơi họ (Gl 4,l9). “Chính vì thế chúng ta… được đảm bảo lấy được những bí ẩn của cuộc đời Người, Hiệp thông với những nỗi đau của Người như thân thể Hiệp thông với Đầu, cùng chịu đau khổ với Người, để cùng tôn vinh với Người” [40] .
Số 794. Chính Người làm cho chúng ta được tăng trưởng [41] : Để làm cho chúng ta tăng trưởng trong Người, là Đầu của chúng ta [42] , Đức Ăn phân phối các hồng ân và các tác vụ trong Thân Thể Người là Hội Thánh, nhờ đó họ đã giúp đỡ lẫn nhau trên đường cứu trợ.
Số 795. Vì vậy, Đức Kitô và Hội Thánh là “Đức Kitô toàn thể” ( Christus totus ). Hội Thánh là một với Đức Chúa. Thánh thức một cách rất sống động về sự hợp lý nhất này:
“Bàn chúng ta hãy vui mừng và cảm tạ, bởi vì không có những người chúng ta trở thành người chết mà còn trở thành chính Đức Chết. Thưa anh em, anh em có hiểu được ân sủng của Thiên Chúa, Đổ là đầu, trên chúng ta không? Anh em hãy cảm phục và vui mừng: chúng ta được trở thành Đức Chết. Quả vậy, nếu Người là Đầu và chúng ta là chi thể, thì con người toàn thể ( totus homo ) chính là Người và chúng ta…. Do đó, các thành viên mãn nguyện của Đức Kitô, là Đầu và các chi thể. Nhưng đầu và các chi có thể là gì? Đó là Đức Kitô và Hội Thánh” [43] .
“Đấn Cứu Chuộc chúng ta đã chứng tỏ đã thấy, Người cùng với Hội Thánh mà Người đã chắc chắn nhận, là một người duy nhất” [44] .
“Đầu và các chi có thể là một người huyền thoại duy nhất” [45] .
Một câu nói của thánh nữ Jeanne d'Arc trước Tòa án summgiảm đức tin của các Thánh tiến sĩ và cũng diễn tả lương tri của tín hữu: “Về Chúa chúng ta và Hội Thánh thì tôi nghĩ cả hai chỉ là một, không phải rối loạn làm gì” [46] .
Bài Đọc I: Nkm 8, 2-4a. 5-6. 8-10
“Học đọc trong Luật và người ta hiểu được điều đã đọc”.
Trích sách Nơkhêmia.
Ngày ấy, thầy tư tế Esdras mang luật ra trước cộng đồng, bao gồm đàn ông, đàn bà và tất cả những ai có thể hiểu luật: hôm nay là ngày đầu tháng bảy. Từ sáng đến giữa chiều, thầy đứng ở công trường, trước cửa Nước, đọc sách trước trang đàn ông, đàn bà và những người hiểu luật. Tất cả mọi người dân đều bình tĩnh tai nghe sách luật. Thầy thư ký Esdras đứng trên bệ bằng cây mà đọc sách; thầy mở sách ra trước công ty, vì thầy đứng cao hơn mọi người. Khi thầy mở sách thì tất cả đều đứng lên. Esdras chúc tụng Chúa là Thiên Chúa Cao Cả. Toàn dân đưa tay lên đáp lại: Amen, amen. Họ dũng cảm và phủ phục trước Thiên Chúa, mặt họ sát đất. Một số người đã đọc từng đoạn trong sách Luật Chúa, giải thích ý nghĩa và người ta hiểu được điều đã đọc. Nơkhêmia là tổng trấn, Esdras là tư tế và là thư ký, các thầy Lêvi huấn luyện dân chúng, nói với họ rằng: “Ngày hôm nay được thánh hoá thánh cho Chúa là Thiên Chúa Chúa ta; anh chị em đừng mang tang chế, đừng than khóc”. Vì lúc đó toàn dân khóc lóc khi nghe đọc các lời trong luật. Họ nói với dân chúng rằng: “Hãy đi ăn thịt béo và uống rượu ngon, hãy gửi phần cho kẻ không có sẵn cho mình, vì ngày này là ngày thánh, dâng cho Chúa, đừng buồn; vì niềm vui của Chúa là tinh thần của anh chị em!”
Đó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 15
Ðáp: Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống.
Hướng dẫn: 1) Luật pháp Chúa an toàn, bồi dưỡng tâm linh; chỉ định cấu hình Chúa, phá ngu dốt. - Đáp.
Ðáp: Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống.
2) Giới răn chúa chánh trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ánh sáng, sáng soi con mắt.
Ðáp: Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống.
3) Lòng tôn sợ Chúa tĩnh khiết, còn mãi đời; Phán quyết của Chúa chân thật, công quyết mình hết.
Ðáp: Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống.
4) Xin Chúa Tân những lời miệng con công bố, và sự lòng con suy gẫm trước thiên nhân, lạ Chúa là Tảng Ðá, là trống Cứu Chuộc con.
Ðáp: Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống.
Bài Đọc II: 1Cr 12, 12-30 (bài dài)
“Anh em là thân xác Chúa, và là chi thể của Người”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Thánh Tông gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, như thân xác là một mà có nhiều chi thể, và tất cả các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do Thái hay Hy Lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ bao gồm một chi thể mà là nhiều chi thể. Nếu chân nói rằng: “Vì tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc xác xác”, có phải vì thế mà nó không thuộc về thân xác đích đâu? Và nếu lỗi tai nói rằng: “Vì tôi không phải là con mắt, nên tôi không thuộc về thân xác”, có phải vì thế mà nó không thuộc về thân xác đích đâu? Nếu toàn thân xác là một thì đâu là thính giác? Nếu toàn thân xác là tai thì đâu là khứu giác? Vì vậy, Thiên Chúa đã đặt các chi thể, và mỗi chi thể ở trong cơ thể giống như ý muốn của con người. Nếu tất cả đều là một chi thể thì còn đâu là thân xác? Thật vậy, có nhiều chi thể, nhưng có một thân xác. Con mắt không thể nói với bàn tay: “Ta không cần mi”. Ðầu cũng không thể nói với chân: “Ta không cần các hạng”. Nhưng hơn thế nữa, các chi thể xác xem như yếu hơn, lại cần thiết hơn. Và những chi có thể ta coi là ít vinh dự nhất, lại là những chi có thể ta đặt cho nhiều vinh dự hơn; và những chi có thể thiếu trang nhãn lại được ta trang sức mạnh hơn, còn những chi có thể trang nhãn lại không cần như thế: nhưng Thiên Chúa đã sắp đặt thân xác, cho cái thiếu vinh dự được vinh dự hơn, để không có bất kỳ đồng trong xác thực, mà là để các chi thể đồng lo công ích cho nhau. Nếu một chi có thể phải đau thì tất cả các chi khác đều phải đau lan tỏa; hoặc một chi có thể được vinh dự thì tất cả các chi có thể cùng chia vui.
Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể của Người, mỗi người có một phần sự sống của mình. Có những người Thiên Chúa đã thiết lập trong Hội thánh, trước hết là các tông đồ, rồi đến các bậc tiên tri, thứ ba là các tiến sĩ. Kế đến là quyền làm phép, các loại thuốc chữa bệnh, các công việc tốt, quản trị, nói nhiều thứ tiếng. Vậy tất cả mọi người là tông đồ? Tất cả đều là tri thứ nhất ư? Tất cả là tiến trình gì? Tất cả đều được phép không được phép? Tất cả đều được ơn chữa bệnh? Tất cả nói nhiều thứ tiếng? Tất cả đều được giải quyết?
Đó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài này: 1Cr 12, 12-14. 27
“Anh em là thân xác Chúa, và là chi thể của Người”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Thánh Tông gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, như thân xác là một mà có nhiều chi thể, và tất cả các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do Thái hay Hy Lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ bao gồm một chi thể mà là nhiều chi thể. Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể Người, mỗi người có một phần sự sống của mình.
Đó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 4, 18-19
Alleluia, Alleluia! - Chúa đã sai con đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, cho mượn truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 1-4; 4, 14-21
“Hôm nay trải nghiệm đoạn Kinh Thánh này”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Bởi vì có nhiều người khởi động sao chép các sự cố đã xảy ra giữa chúng, nên giống như các loại từ kiến trúc và dịch vụ đầu tiên của Chúa, đã truyền lại cho chúng ta, phần tôi, thưa ngài Thhêôphilê, sau khi tìm thấy Hỏi cẩn thận mọi vấn đề từ đầu, tôi quyết định viết bài thông thuật thuật sau đây, để bạn hiểu rõ lý do các giáo viên đã được nhận.
Hãy giờ Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền lực Thánh Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp miền chung quanh. Người giảng dạy trong các tôn giáo và được mọi người ca tụng. Người đến Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày nghỉ lễ, Người vào hội đường. English dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người đầu tiên của Isaia. Mở sách ra, Người ngay đoạn chép rằng: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó, chữa lành những tâm hồn sám hấp, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được nhìn thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”.
Người gấp lại, trao cho tác giả và ngồi xuống. Mọi người trong đường đều chăm sóc Người. Người bắt đầu nói với họ: “ Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các vừa nghệ”.
Đó là lời Chúa.
______
[1] X. Is 61,1-2.
[2] X. Gr 31,31-34.
[3] Thánh Augustinô, De bài giảng Domini ở monte, 1, 1, 1: CCL 35, 1-2 (PL 34, 1229-1231).
[4] X. Mt 5,17-19.
[5] X. Mt 15,18-19.
[6] X. Mt 5,48.
[7] X. Mt 5,44.
[8] X. Mt 6,1-6.16-18.
[9] X. Mt 6,9-13.
[10] X. Mt 7,13-14.
[11] X. Mt 7,21-27.
[12] X. Lc 6,31.
[13] X. Ga 13,34.
[14] X. Ga 15,12.
[15] X. Phòng 14; 1 TK 5-10.
[16] X. Gc 1,25; 2,12.
[17] X. Gl 4,1-7.21-31; Rm 8,15-17.
[18] X. Thánh Tôma Aquinô, Summa thần học, II-II, q. 184, A. 3: Biên tập. Leon. 10, 453-454.
[19] Thánh Francis Salêsiô, Traité de l'amour de Dieu, 8, 6: Oeuvres , v. 5 (Annecy 1894) 75.
[20] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 11: AAS 58 (1966) 823.
[21] Thánh Bênađô Clairvaux, Homilia super “Missus est”, 4, 11: Opera , ed. J. Leclercq-H. Rochais, câu 4 (Romae 1966) 57.
[22] X. Lc 24,45.
[23] X. Mc 1,1; Ga 21,24.
[24] X. Lc 2,7.
[25] X. Mt 27,48.
[26] X. Ga 20,7.
[27] X. Mc 1,l6-20; 3,l3-l9.
[28] X. Mt l3,l0-l7.
[29] X. Lc l0,l7-20.
[30] X. Lc 22,28-30.
[31] X. Ga l4, l8.
[32] X. Mt 28,20.
[33] X. Ga 20,22; Cv 2,33.
[34] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 9.
[35] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 9.
[36] X. Phòng 6,4-5; 1 TK 12,13.
[37] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 9.
[38] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 10.
[39] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 10.
[40] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 10.
[41] X. Cl 2,19.
[42] X. Ep 4,11-16.
[43] Thánh Augustinô, In Iohannis evangeliumtractatus, 21, 8: CCL 36, 216-217 (PL 35, 1568).
[44] Thánh Grêgôriô Cả, Moralia in Iob, Praefatio, 6, 14: CCL 143, 19 (PL 75, 525).
[45] Thánh Toma Aquinô, Summa thần học , III, q. 48, A. 2, quảng cáo 1: Ed. Leon. 11, 464.
[46] Thánh Jeanne d'Arc, Dictum: Procès de condamnation , ed. P. Tisset (Paris 1960) 166.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét