WHĐ (14/01/2025) - Trong thế giới hôm nay đầy như văn hóa có xu hướng muốn đồng hóa hóa, cách riêng không quan tâm đến sự khác biệt giới tính nam-nữ, tất cả các giới đều như nhau và như thế tất cả có nguồn gốc là mình, không phụ thuộc vào ai cả, kể cả Thiên Chúa. Đàng khác, trong Giáo hội Hiệp hành, họ cũng đang quan tâm trở lại ơn gọi và sự tham gia của người nữ vào đời sống và sứ mạng của Giáo hội. Đâu là vai trò và thiên chức của phụ nữ ? Để biết ơn người đã gọi người nói chung, và người nam và người nữ nói riêng, chúng ta cần đọc lại sa mạc khải Kinh về việc tạo con người. Đặc biệt, đọc và suy nghĩ sâu hơn những đoạn sách sáng thế về tạo người nữ, trong sự đối chiếu với việc tạo người dựng nam và con người nói chung. Thiên Chúa sáng tạo người nữ như thế nào, theo Thánh kinh? Suy tư thần học Thánh kinh này được lấy lại từ tác giả Etienne Roze. [1]

“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” ( St  1,27)

Sau giai đoạn trù bị ađam đơn độc trong vườn, Thiên Chúa tiếp tục công trình xây dựng của Ngài và nói: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một sự hỗ trợ tương xứng với nó” ( St 2,18). Cái “không tốt” ở đây tương phản phản ánh với lời khúc khúc “và Thiên Chúa thấy thế nào là tốt đẹp” trong quá trình kỹ thuật tư tế, khi Ngài thấy vui vẻ đồng hành về công trình của mình. Hình ảnh Thiên Chúa phản chiếu trên dung mạo 'ađam giờ đây phải được hoàn thiện nhờ một tương quan khác mới mẻ với một ngã vừa giống như nó nhưng khác với nó.         

By thế, Ngài nói thêm: “Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê nhập xuống trên con người” ( St 2,21). Giấc ngủ mê tiếng Hibri là tardemâ, không phải là một giấc ngủ nông ( nwm ) hay sâu ( senâ' ) bình thường, nhưng là cái gì hơn thế nữa, như là một cái chết biểu tượng hay một thứ phi-hiện-hữu . Nhiều nơi trong Kinh thánh nói, trong giấc ngủ sâu Thiên Chúa “cách li” con người ra hầu có thể yên ổn hoàn tất công trình sáng tạo của mình (xem St 1,5). Trong quá trình kỹ thuật Yahvit, Ađam rơi vào giấc ngủ mê man như hóa thành hư vô trong trạng thái hôn mê sâu để Thiên Chúa hành động như một bác sĩ bác sĩ thuật (sau khi hành động như một thợ xây) đã rút một chiếc xương sườn ( selâ ) ra làm thành một người giống như ông nhưng khác ông. Điều này (tạm thời đưa ông về tình trạng hư vô) trước hết rõ ràng muốn nói rằng hành vi tạo dựng là hành động thuộc sở hữu Thiên Chúa. Hành vi độc lập khởi đầu từ lúc sáng thế ( St 1,1) cho đến khi xây dựng người đàn bà ( St 2,22). Công việc xây dựng đàn bà là hoàn toàn khuất mắt ađam . Nếu ađam có thể kiểm soát và thống trị các loài vật phẩm “đặt tên” cho chúng thì điều đó hoàn toàn không thể làm việc đối với người đàn bà. Ông không thể “định nghĩa” cũng như không thể “thống trị” người đàn bà vì điều đó chỉ thuộc về Thiên Chúa Tạo Hóa mà thôi. Nàng chỉ có thể được nhận như một món quà bất ngờ mà Chúa ban cho sự thiện ích của ông. Kế đến, thông điệp muốn nói, như một hệ thống luận, rằng người nam và người nữ bình đẳng về sản phẩm giá vì có cùng một nguồn gốc: là chính Tạo Tạo Hóa, [2] vì chỉ là Thiên Chúa hiện diện của mình trong khi sáng tạo ađam (như thợ thợ gốm) cũng như chỉ mình Ngài hiện diện trong khi sáng tạo người đàn bà (như vị bác sĩ leo thuật).                 

“Thiên Chúa rút một cái xương sườn của con người ra”  ( St  2,21). Chữ xương sườn, selâ trong tiếng Hibri không có nghĩa đơn giản. Trước hết, selâ như “chiếc xương sườn”, hay xương rồng chỉ có trong St 2,21. Chúng tôi khảo sát các khảo sát này để so sánh đối chiếu ở các đoạn văn bản khác của Cựu ước.      

“ Selâ  phải được hiểu theo một nghĩa chuyên ngành kiến ​​trúc thuộc về kiến ​​trúc thánh […]. Bản văn Yahvit đã mô tả cuộc tạo dựng đàn bà từ người đàn ông qua việc sử dụng từ ngữ cảm tưởng liên tưởng đến việc thiết kế đền thờ […]. Trong mạch văn của đoạn 1V 6 , từ selâ có ý nghĩa những bức tường, trục, xà, phòng hộ thuộc kiến ​​trúc […]. Sau cùng, selâ ở trong đoạn Xh 25,12 có nghĩa “bên hông” của Hòm Bia”: đây là một xác nhận chắc chắn ý nghĩa mà đoạn St 2,21 muốn nói”. [3]         

Khái niệm “xương sườn” có thể được hiểu như cái “trục” hay “xà hỗ trợ”, vật liệu xây dựng cần thiết cho công trình kiến ​​trúc đền thờ Jerusalem, hoặc như “bên hông” của Hòm Bia thánh, được tạo ra để bảo vệ Chứng chỉ: “ rắn sẽ đặt vào Hòm Bia Chứng Ước mà Ta sẽ cấm cho thiện” ( Xh  25,16). Để tạo dựng người phụ nữ Thiên Chúa phải rút ra tự ađam cái tốt nhất, một chất liệu tinh hảo, chắc chắn, có cấu trúc và thánh thiêng, tức là từ “cạnh sườn” của ông, “phần bên”, “một nửa kia” hay phần ẩn chứa trái tim của ông: Ngài cần chất liệu này để tạo ra đàn bà. [4]  

Ta có thể rút ra từ sự kiện tạo dựng đàn bà từ xương sườn ađam kết luận sau đây, hữu ích cho khảo sát của chúng ta về sự dị biệt tính giáo dục.  

1. Nhấn mạnh đến “đồng nhất tính” hay “căn tính” chung của người đàn ông và người đàn bà. Từ selâ có tính nhịp muốn nói người nam và người nữ có cùng một sản phẩm giá nhân tính. Từ đó mới nói tới sự dị biệt nam-nữ.     

Hai điểm khác biệt mạnh mẽ:

2a. Người nữ là “trợ tá” thiết yếu cho người đàn ông. “Xương sườn” ( selâ ) theo Kinh thánh là “cạnh sườn”, “bên hông” của con người, một thành phần cơ thể quan trọng thiết yếu như là một “trục trợ” để mang hay mang vác. Người phụ nữ thế là một “trợ tá” năng lực của đàn ông, cũng như là một “cột trụ” của đàn ông của mình. [5]  

2b. Đàng khác, chính vì là “một nửa” của người đàn ông nên người đàn bà đã bị cuốn vào quan hệ với chàng, như thể muốn trở về nguồn cội của mình, nơi mình có thể nương tựa an toàn, được đón nhận yêu thương nồng nàn, như thế có cơ hội hiến thân, trao thân tin cậy cho người đàn ông. Chuyển động vòng của Chiếc xương sườn nói lên người nữ phát hành từ ông để rồi quay về với ông, qua hành động trao hiến và đón nhận. Nó xác định dị biệt nam-nữ là một tiện ích bổ sung tương thích và có tính năng giao thức.  

“Thiên Chúa lấy xương sườn đã rút từ con người ra  làm  thành người đàn bà”  ( St  2,22)

Thiên Chúa “ làm ” thành ( banâ ) người đàn bà. Chữ banâ tiếng Hibri theo Kinh thánh có nghĩa là “xây dựng”, “làm ra”, “làm cho hiện hữu”, “tạo ra”. [6] Từ này có nghĩa là kiến ​​trúc, xây dựng. Đối với người đàn bà, làm ra ở đây có nghĩa là sinh ra. Nếu đàn ông “xây dựng” nhà cửa, thành trì, thần thờ, vườn nho, ... thì phụ nữ xây dựng bằng cách sinh hạ các công dân ngụ ý, làm việc, sinh sống ở đó. Đàn ông xây dựng bằng sức mạnh cơ bắp của chân tay, đàn bà xây dựng bụng dạ sinh dưỡng. Rakhel và Lea đã xây dựng nhà Israel bằng cách sinh ra các tổ phụ ( Rt 4,11). [7] Trong trình thuật Yahvit, chính Thiên Chúa làm ra ( banâ ) người đàn bà từ “cạnh sườn” người đàn ông. Nếu đặc quyền của đàn bà là xây dựng thành trì bằng công việc sinh sản thì đặc quyền của Thiên Chúa là tạo dựng nên đàn bà có khả năng sinh sản. Từ banâ, được dùng để chỉ tạo dựng đàn bà, có ý nghĩa nhân học quan trọng. Ngoài ra, có nghĩa là được tạo dựng, nhưng trình bày rõ cách thức tạo dựng trang web. Người đàn bà được tạo như thế nào? Một bên, người đàn bà được làm ra từ một chất liệu mạnh mẽ - xương sườn người đàn ông cương cứng, mạnh mẽ trước người đàn ông, có khả năng làm hỗ trợ thủ ( 'ezer ) cho ông; Ngoài ra, nếu người đàn bà được tạo dựng nên để sinh sản thì phải hiện diện với ông trong một quan hệ giao diện để có thể tự hiến và đón chàng ( kenegdô ). Để có thể thực hiện một quan hệ như thế, cần phải có một can thiệp có tính quyết định của Thiên Chúa Tạo Hóa trên cấu trúc cơ thể người đàn bà. Thật vậy, người đàn ông là kẻ duy nhất, trong số tất cả các động vật nhũn, có thể đứng trước mặt người đàn ông trong mối quan hệ đối diện cho phép sống thân mật trao hiến và lãnh nhận như thế và có khả năng “sáng tạo” bằng việc sinh sản. Nếu người đàn ông có xu hướng sáng tạo giúp cơ bắp đôi cánh tay và bàn tay thì người đàn bà sáng tạo qua bụng mình. Sức mạnh của nàng ẩn bên trong là sức mạnh kỳ diệu của tình yêu và sự sống, mà trò chuyện tưởng tưởng nhẹ nhàng như rất yếu đuối nhưng xét cho cùng, còn mạnh hơn sức mạnh nam giới. “Con người đặt tên cho vợ là Eva vì bà là mẹ của họ sinh” ( St 3,20). Chữ banâ chỉ về người đàn bà cho thấy ơn gọi cao cả của người đàn bà làm vợ và làm mẹ. Vì vậy, chữ “làm ra” hay sáng tạo ( banâ ) người đàn bà ở đây là một thuật ngữ nhân học quan trọng diễn tả bản thể sâu xa của người đàn bà trong tương quan với người đàn ông ngoại quá những điều gọi là “ vai trò và mẫu mã” có tính văn hóa - xã hội, vốn chỉ xác định giới tính nữ từ bên ngoài.          

“Thiên Chúa dẫn người đàn bà đến với con người”  ( St  2,22)

Hiện tại chúng tôi muốn dừng phân tích từ “dẫn”, dịch từ bw tiếng Hibri chỉ hành động “dẫn đến với con người” và “dẫn đến” trước mặt con người. Trước đây trong sách Sáng thế, từ “dẫn” đã được sử dụng khi Tạo Hóa dẫn các vật đến với adam : “Thiên Chúa dẫn chúng đến với con người, xem con người gọi chúng là gì” ( St 2, 19) . Cũng được tìm thấy ở một nơi khác, có hạn chế như khi “Anh Isaác đưa cô Rêbécca vào chiều của bà Sara mẹ cậu. Cậu lấy cô làm vợ, cậu yêu thương cô” ( St 24,67). Ở đây, chữ “dẫn” trong tiếng Hibri ( bw ) mang ý nghĩa hôn phối: chính Thiên Chúa dẫn người đàn bà đến trao cho con người, như người dẫn cô dâu con gái đến trao vào tay chú rể hôn phu tương lai của nàng, trong ngày tân hôn. [8] Người con gái được dẫn đến trước mặt adam là ai nếu không phải là một người nữ như là món quà bất ngờ được trao ban cho chàng? Nàng là “tặng sản phẩm” (“hiện tại”) được trao “trước mặt” (“hiện diện”) người đàn ông. Tiếng “này, em đây” được nói lên rất nữ tính cuộc sống đã cửa hàng đi nỗi cô đơn khỏi con người tính của chàng. Điều đáng lưu ý là, người đàn bà không tự ý đến giao diện mà chính Thiên Chúa đã dẫn nàng đến với con người. Điều đó ngoài ý nghĩa nàng là quà tặng được trao ban cho người, còn hàm nghĩa nàng trước hết là “tấm biển” khắc tên Thiên Chúa, chính Ngài mới là Quà trao ban cho người. Thật vậy, đặc tính của sản phẩm quà tặng là gì nếu không phải là một sản phẩm như “dấu chỉ” hiện thân của người trao quà, là ân nhân đối với người ân? Nơi người đàn bà “tặng mỹ phẩm” cho người đàn ông có Thiên Chúa “hiện diện” tự hiến mình cho con người. Chính Thiên Chúa là Trả khi trao ban người nữ cho người nam, như hiến ban chính mình. Như thế, người phụ nữ khi trao hiến mình trở nên như bí tích Thiên Chúa tự hiến cho con người: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban!” ( Ga 4,10). Người đàn ông khi đón nhận quà tặng người đàn bà được đón nhận chính Chúa.               

Tặng quà người nữ mà mối mối mới mẻ chưa từng có, giữa hai người vốn có cùng nhân tính nhưng khác giới tính và có khả năng hoàn thành công trình sáng tạo của Thiên Chúa, giờ đây có thể chín muồi. Chính cuộc hôn nhân hạnh phúc với người đàn bà cuối cùng đã giúp người đàn ông thoát khỏi tình trạng đơn độc nguyên thủy và làm sinh hoa trái các ý nghĩa của cơ thể, đặc biệt là ý hôn phối: “Trong huyền nhiệm tạo dựng người nam và người nữ được tặng ban cho nhau bởi Tạo Tạo Hóa”. [9]  Tóm tắt, động từ “dẫn” ( bw ) đã chào đón một loạt quà tặng: quà tặng người phụ nữ do Thiên Chúa ban là cơ hội để có quà tặng sản phẩm hạnh ngộ, từ đó người đàn ông lại nhận được sản phẩm mới được gặp lại bản thân con người và ơn gọi sâu xa của mình, kết thúc với quà tặng hôn nhân. Khi ấy, con người khám phá được cái đẹp của cuộc sống qua cuộc hạnh phúc kỳ diệu.

Cuộc đời tặng quà kỳ diệu lần đầu tiên đã khiến con người phải mở miệng lên lời tán dương: “Ô phen này…” (xem St 2,23). Cho tới khi ấy vẫn chưa tìm thấy tiếng của adam dù ông đã gọi tên các loài vật. Quan hệ của con người vĩnh viễn chỉ là người bảo vệ sự sống, một quan hệ giữa “Tôi” với “nó” như một vật thể thứ ba, như một vật khách quan trong công việc tương lai. Khi người phụ nữ, as a con người khác tầng thứ hai là “Em”, xuất hiện, thì cuộc sống con người trở nên phong phú hơn bởi quan hệ liên-chủ-vị. Từ cuộc sống hạnh phúc với người phụ nữ, con người không còn sống chỉ để làm việc mà còn để yêu. If before con người gọi tên các loài vật thì nay bắt đầu nói về bản thân. Đó là đặc trưng của người: chừng nào còn chưa yêu thì con người nói về mọi sự mà ít nói về mình, nhưng khi đã gặp “nàng” quà tặng dành cho chàng, thì anh không thể không nói về chính mình bởi vì anh phải nói với cô nàng anh yêu điều mới mẻ kỳ diệu cảm thấy trong tâm hồn. Cảm xúc hưng phấn phải được thoát ra bằng tiếng ồn. Như thế, con người đầu tiên phải xin vì yêu thì nói và khi nói ra thì bộc lộ chính mình. Chính người phụ nữ đã giải phóng sự im lặng của người đàn ông: “Bấy giờ con người nói: “Phen này đây là…” ( St 2,23). [10] Phần mình, người nữ vẫn im lặng, và điều này cũng rất ý nghĩa. Còn chỉ im lặng lắng nghe.      

Tiếng kêu vui mừng của con người khi gặp phụ nữ là khúc dạo đầu của bản Diễm tình ca tiếp tục vang âm và lan rộng – như là “kinh nghiệm nguyên thủy” – niềm vui tươi xuyên suốt dòng lịch sử tình cảm nhân loại . Mỗi khi có một người đàn ông kinh ngạc trước sức hấp dẫn của nữ tính và mỗi khi một người phụ nữ sẵn sàng để được nam nhân ngưỡng mộ thì bài ca của buổi bình minh nhân loại lại được cửa hàng lên. Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết:

“Đoạn văn St 2,23, tuy ngắn Cường nhưng bạch dương và chứa những lời khuyên đường lên từ miệng đàn ông đầu tiên khi người ấy nhìn thấy phụ nữ vốn được tạo dựng bằng cách “được rút từ mình ra”. Đoạn văn đó có thể được coi là nguyên mẫu kinh thánh của (sách) Diễm tình ca. Có thể nói rằng cái cảm xúc đầu tiên và “nguyên thủy”, thật mạnh mẽ và sâu sắc, khi người đàn ông đứng trước mặt người phụ nữ như một con người khác và như một người khác giới, là một điều duy nhất và độc quyền”. [11]  

Tiếng reo mừng “Đây là xương của xương tôi, thịt của thịt tôi” một câu bật “căn tính” chung của hai người, nghĩa là nền tảng của mối mối quan hệ nam-nữ dị biệt; Ngoài ra còn có hai hình thái thể thể của một nhân tính duy nhất, đàn ông và đàn bà: “Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút ra từ đàn ông” ( St  2,23). Tiếng Hípri bày tỏ căn tính và dị biệt nơi trò chơi chữ nghĩa, 'is và 'issâh . [12] Chữ 'có những nghĩa như là hữu thể người, con người, người chồng; còn chữ 'issâh có nghĩa là đàn bà, người vợ. [13]        

“Các thuật ngữ này cùng xuất hiện trong St 2,23: đây là đoạn văn nền quan trọng vì chữ îš được sử dụng lần đầu tiên và 'iššâh được định nghĩa. Theo sát sao ngữ nghĩa, cả iššâh và îš đều không phải là danh từ riêng. Khi người đàn bà xuất hiện với người đầu tiên không còn là 'dm ('adam) mà trở thành người đàn ông hay người chồng – îš – của người đàn bà hay người vợ - iššâh. Như vậy, cả thế giới tạo thành ( St 2,7) cũng như đặc biệt tính giáo dục của thụ tạo ( St 2,21t.) có nguồn gốc phát xuất từ ​​Thiên Chúa […]. Nói cách khác, 'adam nhận ra nơi “con người này” – źt  là người thân cận của mình, nghĩa là cũng một con người như mình nhưng trở thành thành iššâh. Điều thú vị là đoạn St 2,23 ở đây đã không dùng chữ zakar (nam) và neqebâ (nữ) như ở St 1,27 là hai từ ngữ chỉ dùng để chỉ hai giống, mà dùng chữ 'îš và 'iššâh. Ý nghĩa là “chồng” và “vợ” mà hai từ này được xác định vị trí đặc thù và tương thích giữa hai người. By thế, nói “ iššâh m' îš” (  được rút ra từ người đàn ông”) tác giả sách Thánh như muốn nhấn mạnh bởi sự tương tự rõ ràng của hai từ ngữ rằng người đàn ông và đàn bà, dẫu khác đặc biệt, nhưng có cùng một bản tính và cùng một giá sản phẩm”. [14]                                       

Như chúng ta đã xác định trước đây, dù người đàn bà còn chưa xuất hiện trong cuộc sống người đàn ông thì căn tính của adam vẫn còn mơ hồ chung, ơn gọi của adam chỉ giới hạn trong thế giới vật lí Bụi đất – ha'adamah – đây, nhắm hệ thống giá trị nó và cuối cùng để trở về với nó (là Bụi đất sẽ trở về với đất bụi). Khi gặp gỡ người đàn bà- iššâh của mình adam mới trở thành thành îš và mọi sự thay đổi. Đổi tên hoặc liệt kê có ý nghĩa căn hộ và được gọi thay đổi độ sâu xa hơn. [15] Chính nhờ gặp gỡ người đàn bà, là “Em”, một ngã vị đối tác, mà người đàn ông, là “Tôi”, khám phá ra bản thân mình mới mẻ và có thể cảm thấy thân xác mình có ý nghĩa hoàn toàn. By thế, cuộc gặp gỡ này đã khai sinh con người một lần nữa, bằng cách chuyển con người từ tình trạng “đơn độc nguyên thủy” sang tình trạng “hợp nhất nguyên thủy”. Đó là cuộc sáng tạo con người dứt khoát.            

Người đàn bà mà Chúa dẫn đến bw) giao diện và giới thiệu với người là ai? Bản văn Kinh thánh Yahvit giới thiệu nàng là “trợ tá tương xứng” của người đàn ông ( St 2,18). Chữ “trợ tá” có ý nghĩa rất phong phú và đáng chú ý. Nó được dịch từ bản gốc tiếng Hipri 'ēzer có nghĩa là trợ giúp người dùng. “Động từ 'zr' tương ứng có nghĩa trợ giúp, cứu trợ, mẹo ý tưởng bảo vệ như danh từ 'azarânghĩa là rào chắn, cái khung . Động từ này thường được sử dụng với chủ từ là Thiên Chúa, đối tượng là người tín hữu hay Dân Chúa”. [16] Như vậy, 'ēzer có nghĩa là người “trợ giúp” như một người “bảo vệ”, là “rào chắn” và “khiiên kiên cố”, nhưng vẫn có nghĩa là “cứu giúp trước mặt hiểm nguy”, “ liên minh chống lại kẻ thù” và “cùng tận ích làm việc thiện”. Ai là 'ēzer thật sự của con người, như Thánh vịnh 121,1: “Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, / ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao? /Cảm ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa, / là tích lũy nên cả đất trời”. hay như trong Thánh vịnh 34,20: “Tâm hồn chúng trông đợi Chúa, bởi Chúa luôn che chắn phù trì”. Trong St 2,18.20 người đàn ông chính là 'ēzer của người đàn ông; nàng được giới thiệu như được Chúa ban tặng để giúp đỡ đàn ông. Sức mạnh để có thể giúp ban cho nàng là từ selâ (chiếc sườn sườn) của 'ad am , vốn là một chất liệu chắc chắn và thánh thiêng như những thanh xà, xà xây thánh thần Jerusalem. Từ 'ēzer mang một thông điệp rất mạnh và xác định ơn gọi của phụ nữ đối nam giới, Sách Huấn luyện ca - phản chiếu ý tưởng của St 2,18 - nhắc đến ơn gọi này: “Cưới vợ là khởi đầu sự nghiệp , / là có một lực tương xứng xứng đáng, / và một cột trụ để tựa nương” ( Hc 36,24). By thế, người phụ nữ ở sát mép đàn ông để giúp đỡ và cứu giúp mọi lúc trong cuộc sống của chàng và cũng còn để khuyến khích vượt qua mọi giới hạn hay nhác, để chàng có thể chắc chắn nhận được phúc ân gọi cao trách nhiệm hữu ích tiện ích. Có thể thấy đôi khi chỉ cần một ánh mắt hay một lời nói của người đàn bà, người đàn ông có thể biến thành một con người “vĩ đại”. [17] Nếu người đàn bà có thể rút ra được điều tốt lành từ người đàn ông thì nàng cũng có thể làm ông ổn định vì làm điều tệ hại khi nàng thiếu vắng ơn gọi 'ēzer.                                 

Người đàn bà không phải là một “trợ tá” bất kỳ cuối cùng được lựa chọn ra trong số các loài vật, nhưng phải là một kẻ “tương xứng” ( kenegdo ) theo nghĩa là thích hợp với chàng ( St  2,18). Từ “tương xứng” này rất đặc biệt vì nó lại chỉ về trung tâm điểm dị biệt tính giáo dục. Từ này, một mặt nói lên sự đồng nhất mà sách Sáng thế diễn tả (người đàn bà) là “thịt bởi thịt tôi”, mặt khác cũng nói lên sự dị đặc được diễn tả bởi (chiếc xương sườn) “được rút ra từ đàn ông”. Quả thực như vậy, từ Hipri kenegdo mà ta dịch là “tương xứng” được cấu hình bởi những chữ ke (như), negd (đứng trước mặt), ô (ông ấy). Đây là một từ diễn tả hai ý tưởng trên sáng tạo nên mối quan hệ dị biệt tính giáo dục. Đầu tiên là chữ “như” nói lên sự cả hai có cùng bản tính người, rồi đến chữ “đứng trước mặt” biểu hiện sự dị biệt của hai chủ thể:              

“Động từ ngd do danh từ phủ định , có nghĩa là cái “mặt”, được dùng như trạng thái từ hay giới từ “trước mặt”, “đối diện”. Đoạn St 2,18-20 nhanh chóng đến kenegdô với ý nghĩa “như kẻ đối diện với ông”, “như kẻ phù hợp với ông”, nghĩa là “tương xứng với ông”. Ý nghĩa đầu tiên và căn bản của ngd là “đứng đối diện với ai đó”. Từ nghĩa chung này, còn rút ra nghĩa “loan báo”, “truyền tin”, “cho thấy”, “giải thích”, “mạc khải”. Ngd thường thấy trong các liên hệ với các diễn ngôn như “mở miệng…” ( Tv 51,17), “vào lỗi của …” ( Gr 36,29). Sự thông truyền này bao hàm một nội dung (sứ điệp), một người nói (sứ giả) và một người nghe […]. Nói chung, ngd có nghĩa là nói cho một ai đó biết một điều gì đó trước đó người đó chưa biết: đó là một khải tượng”. [18]               

Từ kenegdo giúp chúng ta hiểu rõ hơn người đàn bà hiện ra ở chân trời cuộc sống của 'ad am là ai? Sau khi được Thiên Chúa xây dựng nên ( banâ ) dẫn đến và trao đổi cho ( bw ) con người, người đàn bà trình diện trong cuộc gặp gỡ ấy như là “người tá ( 'ēzer ) “tương xứng” hay “thích” hợp” ( kenegdo ) với người đàn ông, như một 'đối tác' của chàng (vì cùng bản tính) “đứng trước mặt” hay 'đối diện' với chàng, như “đối lại” với chàng [19] (vì khác đặc biệt).       

Đối đầu với huyền thoại androgino, xoay cho hai “nửa” ấy đối mặt với nhau là dấu chỉ của một hình phạt của thần linh vì sớm cấm đầu khi còn là một họ nhìn theo hai chiều ngược chiều. Đối với Sáng thế kí, sự kiện người đàn bà đến đứng trước mặt người đàn ông là một món quà, là phúc lành cho chàng. Vị trí đối diện có tầm quan trọng có tính nền tảng đối với quan hệ dị biệt tính giáo dục vì đó là điều kiện lý tưởng cho người đàn ông và người đàn bà có thể thông giao, nói chuyện, lắng nghe và sống mối quan hệ hướng họ mở ra để trao tặng bổ sung cho nhau, tương hỗ, giao thoa, trao tặng hoàn toàn cho nhau trong quan hệ phu thêm, đến trình nên một thịt. Vị thế đối diện với người đàn bà trước người đàn ông thuận lợi cho cuộc sống quan hệ phu thêm lợi ích, đó là giúp tạo dựng người đàn bà với cấu trúc cơ sở có cơ quan sinh dục theo một định hướng giúp thực hiện được mối quan hệ kết hợp với người đàn ông theo kiểu họ nhìn nhau, chứ không theo kiểu loài vật con đực thống trị trên con cái. Bằng cách nào đó, nhờ tạo người ( banâ ) đàn bà mà quan hệ tính giáo dục thân mật có tính nhân bản và tâm linh hơn vì nó biểu thị quà tặng-tình yêu và quà tặng sản phẩm- sự sống. [20] Sự thân mật vợ thể hiện qua thân xác người nam và người nữ còn mang một chiều kích tiên tri là sa mạc khải và loan báo một “Thực tại” rất cao cả hơn đôi vợ chồng nhiều, đó là mối quan hệ Dị biệt Đức Kitô-Phu quân với Hội thánh-Hiền thêm. [21] By thế, hàm chứa những nghĩa này, từ kenegdo có tầm quan trọng chính yếu trong số nhiều từ ngữ ngữ làm nền tảng cho nhân học Kinh thánh: sự khác biệt bình tính có lí do và nền tảng cấu trúc của nó nằm ở nơi từ ngữ ấy.      

Chúng tôi vừa mới phân tích từ ngữ kenegdô, bây giờ nhờ soi sáng đó ta thử tìm câu trả lời cho câu hỏi: trong cuộc hạnh phúc của Ađam và Evà tại sao Ađam lên tiếng còn Evà lại Yên tĩnh? Đứng trước người giúp đỡ “tương xứng” trước mặt mình, con người phục vụ thoát khỏi cõi yên tĩnh và trải lòng ra trong mối liên hệ lũ lũ những điều kỳ diệu. Tặng sản phẩm người đàn bà mang lại cho chàng niềm vui không mô tả được làm đàn ông. Cảm nhận một niềm vui kinh ngạc tuyệt đối cùng chàng phải nói lên: “Phen này, đây là…”. Người đàn bà đứng trước chàng đáp lại thế nào? Cả chị cũng đã tìm thấy người đàn ông của mình và lòng đầy ngưỡng mộ. Nhưng niềm vui của chị không bộc lộ ra thành tiếng để tỏ tình mà lắng nghe: trong bản văn Kinh thánh nàng không trả lời người đàn ông. Sở thú nàng không nói vì nàng đang yêu, và vì yêu nên tin tưởng và, trong tin cậy phó thác nàng tiếp nhận lời chàng đi vào dòng sông tâm hồn. Như vậy, đặc tính trung tâm của người hỗ trợ “tương xứng” ( kenegdô ) là khả năng “ thông giao ” mạc khải cho ta điều trước đó nhưng chưa biết: chính người đàn ông, được tình yêu hoàn thiện, cửa hàng tiếng vang bộc lộ con người mình ra cho người đàn bà; và chính đàn bà, cũng vì yêu thích, vui thích nghe tiếng ồn và đón nhận con người tinh lọc. Hiển nhiên, trong nhiều hoàn cảnh khác, người phụ nữ nói, đúng hơn đặc thù của họ là nói nhiều. Ở đây ta chỉ cần nhận người đàn ông thích thú xem người phụ nữ và nói, còn người phụ nữ thì vui mừng khi nghe giọng nói của người đàn ông của mình, nghe để đón nhận sự hiện diện của chàng. [22]  

Chúng tôi nhớ rằng thuật toán tạo web thứ hai trong sách Sáng tạo vì tìm kiếm sự thật về con người nên có xu hướng diễn đàn theo đường chủ quan, như có tính tâm lí học, còn trình thuật thứ nhất chủ yếu yếu tính khách hàng quan và thần học. Truyền thống Yahvit bởi thế đón nhận các từ îš và iššâh trong lời tán tụng của người đàn ông; còn lại truyền thống sử dụng từ “nam” và “nữ”. “Thiên Chúa tạo dựng con người có nam ( zakar ) có nữ ( neqebâ )” ( St 1,27) . Chữ zakar trong tiếng Hipri chỉ giống đực chung cho loài và loài vật, nghĩa là đen chỉ “vật hậu”, liên quan đến “dương vật”. Dịch chữ zakar trong “đặt tên” và “nhắc nhớ” như là một “phục vụ tự động” con người, còn tối tăm và không chắc chắn. Chữ neqebâ chỉ giống cái cũng chung cho loài và loài vật, có nghĩa là “chọc cá”, “khoan”, “khoét”. [23] Như thế, “Trong đoạn Sáng thế 1,27, Thiên Chúa tạo dựng con người có nam ( zakar ) có nữ ( neqebâ ) không thể hiểu được định nghĩa con người được tạo dựng thủy thủy như một người hữu thể lưỡng tính, nhưng theo nghĩa người nam và người nữ cả hai cùng làm nên nhân tính”. [24] If îš và iššâh nói lên sự dị biệt tính giáo dục của người chồng và người vợ vốn được tạo ra là để kết hợp thành một thân xác (“By thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” – St 2,24), thì zakar và neqebâ chỉ sự dị biệt mở ra với Phúc lành sự sống phong nhiều (“Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc” lành cho họ và phán với họ: 'Hãy sinh sôi thật nhiều'” – St 1,27-28). Trình thuật tư tế chương một sách Sáng thế còn đưa ra hai từ ngữ quan trọng nền tảng của nhân học Thánh kinh, giá rất nhanh cho chủ đề phân tích của chúng ta, đó là “hình ảnh và hình ảnh” ( St 1, 26). [25] Chúng tôi đã dịch từ chữ zèlem và demut tiếng Hipri. Câu này cần được bổ túc bằng câu sau: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ ” ( St 1,27 ). Thông điệp Sách Thánh nói rõ: con người chỉ có thể tạo dựng “theo hình ảnh Thiên Chúa, giống Thiên Chúa” một cách hoàn toàn khi trong tư cách là người nam là người nữ. [26]                                         

Dị giới tính là một giới hạn của loài người. Giới hạn đó, ngoài việc nó ghi dấu một “khác biệt” giữa người và người nữ vốn phản ánh sự phân biệt giữa các Ngôi vị trong Ba ngôi thần linh, nhưng được phép bắt đầu một quan hệ kì diệu của đôi diều sau cùng kết hợp thành “ một  thân xác” ( basar ehad ), biểu hiện như hình ảnh và hình ảnh, các mối tương quan Ba ​​ngôi của Một Chúa duy nhất ( Adonai ehad ). Lí thuyết về giới (lý thuyết về giới) – là một ý thức hệ làm đảo lộn tất cả và biến thành đồng nhất –Phủ nhận bỏ quan hệ dị biệt tính giáo dục này, giải cấu trúc hình ảnh Thiên Chúa đến làm cho hình ảnh đó không nhưng có thể hiểu được, liệu giá bán sản phẩm có vẻ đẹp đẽ đã được phản chiếu trên dung mạo người nam và người nữ và trong mối quan hệ chính của họ. Hơn nữa, hãy bỏ tương quan dị biệt này, vốn là một sắc thái phản chiếu hình ảnh và họa tiết của Thiên Chúa, càng làm cho khó nhận ra Thiên Chúa “Tình yêu” ( 1Ga 4,8) khởi đi từ tình yêu phàm nhân giữa nam và nữ.     

“By thế người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” ( St  2,24)

Trong những kinh nghiệm nguyên thủy mà cặp vợ chồng đầu tiên sống trong thời tiền sử thần học, [27]  có kinh nghiệm “trao hiến nguyên thủy”. Trao hiến cũng như những kinh nghiệm nguyên thủy khác, đã vượt qua phong cách nguyên thủy mà bước vào lịch sử hiện nay của con người mà không hoàn toàn mất đi đặc tính kỳ diệu và độc đáo của nó. Nếu tội nguyên tổ đã làm suy yếu đi kinh nghiệm tặng nó cũng không trừ trừ kinh nghiệm được. [28]  Suy tư về hữu thể học của tặng sản phẩm trao tặng, đức Gioan bách II viết: “khái niệm 'trao hiến' (donare) không thể nói đến cái không không (nulla) . Trao hiến muốn chỉ được người trao và nhận một sản phẩm quà tặng, và mối quan hệ tương quan được thiết lập giữa họ với nhau”. [29] Kẻ trao hiến luôn là người có kiến ​​trúc muốn trao ban cái gì đó cho người nhận lãnh làm phong phú thêm cho người đó. Nhưng chỉ khi người kia đón nhận quà tặng thì “hành động trao tặng” mới hoàn thành, và rồi chính người trao tặng cũng được làm cho thêm phong phú. “Hành động đón nhận” quà tặng của người được nhận cũng thuộc về nền tảng của hữu ích về kinh nghiệm trao tặng của người tặng quà. Nếu như quà tặng của người trao tặng mà bị từ chối thì quà tặng cũng như ân nhân cũng không còn. By thế, trao ban và đón nhận quà tặng tạo nên mối quan hệ tương hỗ trao đổi và nhận xoay vòng làm phong phú người trao, nhận và tặng sản phẩm chính. Hữu ích học về dâng hiến này có thể được áp dụng cho trao hiến trong hôn nhân của người cho người nữ và ngược lại:    

“Sự trao tặng cho nhau, với toàn thể nhân tính tức là với đặc biệt-hồn và giới tính khác biệt của họ, được thực hiện qua hành vi tự hiến và đón nhận tha nhân như quà tặng sản phẩm trao ban. Hai chức năng này của sự trao đổi tương thích kết nối với nhau sâu xa: Hành động trao ban và đón nhận Thuốc độc sâu vào nhau đến độ chính xác khi cho là nhận, và nhận trở thành là cho đi”. [30]

By thế, chính khi tự hiến và đón nhận lẫn nhau giữa người và người nữ tìm lại chính mình và bước vào ơn gọi hôn nhân cao quan trọng của họ. Ngược lại, nếu một lí do bất kỳ thế nào ngăn chặn sự trao hiến này họ sẽ đánh mất chính mình và rơi vào vực sâu vô nghĩa, chống lại ơn gọi người.

Sự trao hiến và đón nhận nhau tạo nên “Cánh hiệp thông giữa các ngôi vị” hoàn thành hình ảnh Thiên Chúa thảo thảo ban đầu nơi ' một đam mê  đơn độc. Như chúng ta đã thấy, “đơn độc nguyên thủy” chưa đủ để phản ánh Thiên Chúa, nhưng cần được bổ sung bởi sự “trao hiến nguyên thủy” của người đàn bà để biến đổi nỗi đau “cô đơn” thành sự “hợp nhất” nhất nguyên thủy”, đúng hơn phải nói là thành hiệp thông đời sống của hai nhân vị. [31]  Để diễn tả ý niệm “hiệp thông các ngôi vị”, bản văn Thánh kinh Yahvit nói đến “một xương một thịt” ( St  2,24) dịch từ tiếng Hípri basar ehad . [32] Đâu là ý nghĩa chính yếu của câu nói này? Có ba ý nghĩa nhưng chúng bổ sung túc cho nhau: nghĩa thứ nhất diễn tả hành động thân mật phu thêm, [33] nghĩa thứ hai xem đó như là sự tình thông các ngôi vị, [34] và nghĩa thứ ba hiểu là quà tặng con cái. [35] Thật ra ba nghĩa này đan chặt chẽ với nhau. Thực sự như vậy, nếu một xương thịt có nghĩa là sự kết hợp tính dục phu thê thì đó là kết quả bình thường của tình yêu chồng dành cho vợ mình và ngược lại. Một xương một thịt thành ra là một hành vi phản ánh một thiện ích tốt đẹp đôi vợ chồng, kết hợp và đổi mới họ trong tình hiệp thông các ngôi nhà, và sau đó cùng mở ra với sự sống là con cái, và hơn Lại nó còn trở thành một “kiểu cách” của lòng quảng đại ôm lấy đôi vợ chồng và cả gia đình. Thế nên, một xương một thịt luôn là một thực tại phong phú, dòng trề và bao li.           

Một xương một thịt  kết hợp thân mật vợ với chồng, nghĩa là kết hợp hai cái “Tôi” thành một cái “Chúng ta” duy nhất. Nhưng ở ngay giữa cái “Chúng ta ta” vẫn tồn tại một khoảng không bản thể ngăn chặn không để cho các căn tính hòa tan nhờ một sự dị biệt tính dục không cân đối (bất đối xứng) . Câu không hòa bình hòa tan này mở ra một tương lai tươi sáng, là quà tặng sự sống. Một xương một thịt không bao giờ là một “nhất thể” hòa tan theo kiểu thần thoại androgyno , trong đó các trạng thái bị tan chảy trộn lẫn vào nhau trong tình yêu đến độ mất hút thành hư không. Đó là một sự tan hòa chết của một thứ ái tình ( eros ) biến thành Tử thần ( thnatos ). Như thế, ta có thể khẳng định rằng một xương một thịt là đoạn cuối của một tình huống bạn giữa hai người, một tình huống bạn hết sức đặc biệt vì được xây dựng bắt đầu từ hai người khác giới tính, một đàn ông và một đàn bà. Có những loại tình bạn khác, như tình bạn giữa hai người đồng giới. Nhưng loại tình bạn này thuộc quan hệ đồng dạng, vốn làm tắc đường bổ sung túc, giao thoa, tương thích trong hành động thân mật và cản trở sản phẩm con cái cái. Từ tính phi-dị-biệt của mối quan hệ đồng tính ái không bao giờ sinh ra cái gì cả. [36] Từ quan hệ một xương một thịt lời hứa của Thiên Chúa ban Phúc lành “hãy sinh sôi sục cho cho đầy mặt đất” ( St 1,28) sẽ được thực hiện.          

“Người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình” ( St 2,24). Chữ 'gắn bó' dịch từ chữ dabacq tiếng Hipri diễn tả ý tưởng về một quan hệ liên vị phong phú và sâu xa. “Con người kết hợp với Eva, vợ mình. Bà thụ thai và sinh ra Cain. Bà nói: 'Nhờ Đức Chúa, tôi đã là một người'” ( St 4,1). Chữ 'kết hợp' ở đây được dịch từ chữ jadà có nghĩa là đã biết, một cái được biết bởi đi qua kinh nghiệm kết hợp tính dục.          

Như vậy, chữ jadà không có ý nghĩa duy nhất là một cái biết về mặt tri thức nhưng lại là một trải nghiệm cụ thể của một người về mặt hiện sinh, cả qua sự kết hợp vợ chồng. Nghĩa của cái biết jadà rất mạnh: đó là cái biết của một trái tim và tình yêu trải qua đụng chạm da thịt, vuốt ve, âu yếm, ôm ấp, giao hoan, hơi thở, nồng nàn, vv… nghĩa là gặp gỡ trực tiếp, hiện diện, đạt tới chính con người tha nhân ngay trong cuộc sống của người ấy. [37] Tình yêu là sức mạnh giúp người ta nắm bắt được sự thật biểu hiện ra nơi tha nhân. Không có thông tin chi tiết hơn tình yêu vì trí hiểu và tình yêu không thể phân biệt được. Chính khi hiến thân đôi bạn bộc lộ bản thân mình cho nhau, và khi bộc lộ họ biết nhau ở chiều sâu của cuộc sống bình diện. Chồng và vợ được bao bọc trong ngôn ngữ của Thịnh Yên, nhưng thực sự ra họ “nói” với nhau qua sự đụng chạm đụng lí, âu yếm, vuốt ve, ôm hôn và hành vi thân mật 'vợ chồng', tất cả càng hiển thị và biết nhiều hơn.     

Tuy nhiên, jadà dù là biết sâu xa ở kinh nghiệm cụ thể, nó vẫn luôn là một cái biết “tối tăm” như thế nào đó. Có thể chỉ định biểu tượng cụ thể này cho người nữ chăng? Không phải hướng dẫn phụ nữ là vốn nhạy cảm hơn về trực giác tình yêu qua chạm chạm, một thứ trực giác làm nàng hiểu con người ở bên kia dấu hiệu và ngôn ngữ hay sao?  

Một cái biết khác, đối đầu với jadà , là cái biết của tri thức, như một hoạt động cạn kiệt của lí trí, vốn khởi động đi từ thực tại từ đó rút ra một ý tưởng rồi diễn tả bằng lời, kết chủ hợp nhất có thể nhận biểu thức với các đối tượng được nhận lại cùng với nhau. Cái biết này là biết thật khi ý niệm và từ ngữ diễn tả phù hợp với thực tại. Cái biết điều này có lợi điểm rõ ràng và giúp tư duy biện luận, nhưng có lượng điểm vẫn giữ cách đặc biệt về hiện sinh giữa chủ thể nhận thức và đối tượng được nhận thức. Thực tế giữa hai bên vẫn phải có khoảng trống về ý tưởng và lời nói. Tính chất rõ ràng của cái biết này không bao giờ cho phép cuộc sống chung được hợp lý nhất hoàn toàn như cái biết jadà. [38] Phải giảm cái biết jadà là thiên đường về của nữ giới, còn cái biết lí trí bộc lộ nhiều hơn nơi nam giới?       

Kết luận

Để kết luận, chúng tôi đối chiếu con người trong Thánh kinh với quan niệm androgyno . 

Quan niệm androgyno có hai đầu mối trung tâm: Bỏ biệt dị tính giáo dục, xem đó như một hình phạt; và mong muốn quay về với hiện hữu nguyên thủy để sở hữu lại sức mạnh ban đầu. Về điểm thứ nhất, khao khát một tình yêu đầy cảm xúc được hiện không nhờ đến sự dị biệt giáo dục, vì dựa trên nền tảng phi-dị-biệt và thay vì mở ra thì sẽ kín lại. Lacroix viết:  

“Theo quy trình Aristophane , khi các tình huống gặp gỡ và kết hợp lại với nhau thì họ không còn gì để mong muốn nữa ngoài việc kéo dài mãi mãi sự kết hợp này. Ham muốn của họ đã được thỏa mãn, đã mãn nguyện, thỏa mãn . Ở đây xuất hiện một khối tiền về giáo dục hy vọng, nơi dục vọng được tạo ra là để thỏa mãn và đạt đến tình trạng không còn ham muốn nữa, giáo dục chết đi, nghĩa là diệt giáo dục […]. Từ đó có luận đề (không vui mừng lắm) nổi tiếng: 'Nguyên lí của khoái lạc là để phục vụ cho bản năng chết chết'” [39]  

Về điểm thứ hai, sau cuộc tìm kiếm để hòa trộn làm một hữu thể duy nhất, ẩn tàng một cảm hứng đua tranh sử dụng lại quyền năng như các thánh thánh.

Huyền thoại androgyno cho một quan niệm nhân học rải rác không phù hợp với thực tế vì cái chết của nó sau kết thúc bi thảm. Dẫu vậy, tư tưởng đó là ngọn lửa xâm nhập khắp nơi trong cuộc sống nhân loại hôm nay: một văn hóa bất phân biệt giới tính hay chỉ có một giới tính duy nhất thôi. Ẩn đằng sau cuộc “cách mạng” nhân học này là cám dỗ tham vọng Promêtê, tức là ước muốn trở thành thành một “toàn thể” toàn năng “như” Thiên Chúa và cạnh tranh với Người, như androgyno cạnh tranh với các vị thần . Trong nền văn hóa đồng hóa, tất cả là như nhau, tất cả các giới đều như nhau và như thế tất cả là nguồn gốc của mình để không phụ thuộc vào ai cả, tức là, để mình trở nên nên “như” Thiên Chúa ơi.    

Ngược lại, quan niệm nhân học của Thánh kinh có năng động sâu sắc: tặng sản phẩm trao hiến.

Mỗi thụ tạo khi bước vào hiện hữu mang một dấu ấn của sự quyền biểu hiện Tặng phẩm nguyên thủy và bản thân mang ý nghĩa của sản phẩm hiến tặng, họ chỉ tìm lại được mình khi thành tâm hiến. Con người được tạo ra theo hình ảnh của Thiên Chúa, dấu chỉ tuyệt vời của quà tặng trao tặng, đúng hơn phải nói là, con người là bí tích biểu hiện hữu hình sự sống vô hình là chính Thiên Chúa – Tặng Phẩm. Con người mang sản phẩm tặng trong toàn thể ngã vị mình, khám phá sản phẩm quà tặng trong ý nghĩa của cơ thể tính giáo dục nam-nữ khác biệt của mình và nơi chủ thể tính của nó. Con người thực hiện trao tặng ân theo hai cách thức. Trước đó là sự đảm nhận trách nhiệm của mình trước thụ tạo, nhưng trên hết là trao tặng toàn bộ và trung tín đối với người nữ, hỗ trợ tá “tương xứng” đứng “trước mặt” ông. Kinh Thánh nhìn thấy nơi thân phận thụ tạo giới hạn bởi tính dục dị biệt, tức là hai hình thức nhập thể của bản tính duy nhất nơi con người nam-nữ, là cơ hội cho một cuộc hạnh phúc ngộ, một mối quan hệ, một cơ hội để đào sâu căn tính và ơn gọi, một sự tự hiến để nên  một xương một thịt  và mở ra với sự sống con cái, một tương lai hẹn hẹn chiến thắng.

Phân biệt để hòa hợp, thể hiện Tình yêu và sự sống thần linh vô hình ngay trong tình yêu phàm nhân hữu hình. Ý tưởng hiểu được tính đúng đắn của chức năng của phụ nữ phải là bài hát hành động cũng như hiểu được thiên chức của con người trong chương trình tạo dựng của Thiên Chúa, họ mới hiểu được đúng vai trò của người phụ nữ trong cộng đồng xã hội và Giáo hội được.

Người dịch: Luy Nguyễn Anh Tuấn

Trích  Bản tin Hiệp Thông  / HĐGMVN,  Số 143 (Tháng 9 & 10 năm 2024)

______

[1]  Etienne Roze, Verità e splendore della Differentenza sessuale , Cantagalli, Siena 2014, 151-169. 

[2]  M. Oeming, “tardemâ”, trong G.-J. Botterweck– H. Ringgren (a cura di), Grande Lessico dell'Antico Testamento, op.cit. , tập. 7 (VII, trang 359-362), tr. 360: “Lí do giải thích về giấc ngủ sâu được cho là có liên quan mối tương quan nam-nữ tới, như thể chứng minh hai bình bình đẳng. Quả thật, người đàn ông hoàn toàn thụ động trong cuộc tạo dựng của mình cũng như trong cuộc tạo dựng đàn bà. Chính Thiên Chúa mới là Tạo dựng cả hai người”. 

[3]  H.-J. Fabry, “sela”, ”, trong G.-J. Botterweck – H. Ringgren (a cura di), Grande Lessico dell'Antico Testamento, op. trích dẫn, tập. 6 (VI, trang 1060-1065), tr. 1063.   

[4]  “Phần bên hông” của ađam, từ đó rút ra khỏi người đàn bà, không chỉ mang ý nghĩa nhân học, mà vẫn có ý nghĩa tiên tri và thần học. Nếu như bờ sườn của ađam , Eva mẹ của chúng sinh được tạo thành, thì bờ sườn của Ađam mới, Đức Kitô, sinh ra Hội thánh, Mẹ của chúng sinh được cứu độ: “Khi đến gần bên Đức Chúa Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng là một người lính lấy cào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước ca ra” ( Ga 19,33-34). Công đồng Vaticanô II xác nhận: “Chính từ rìa của Đức Kitô đang trong giấc ngủ trên Thập giá, đã phát sinh nhiệm tích kỳ diệu là Hội thánh” [CĐ. Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium (ngày 12/4/1963), 5].      

[5]  Sách huấn ca nói: “Cưới vợ là khởi đầu nghiệp, / là có một lực tương xứng, và một cột trụ tựa nương” ( Hc  36,24). Sách Tôbia: “Chính Chúa đã xây dựng nên ông Ađam, xây dựng nên cho ông một người hỗ trợ thủ thuật và nâng đỡ là bà Evà ” ( Tb 8,6).    

[6]  S. Wagner, “banâ”, trong G.-J. Botterweck – H. Ringgren (a cura di), Grande Lessico dell'Antico Testamento, op.cit., (I, trang 689-706), p. 691: “ 'Xây dựng' luôn có liên quan tới 'làm ra' và 'làm cho hiện hữu', tức là luôn chỉ một hoạt động trong đó có vận dụng sức mạnh sáng tạo”  

[7]  S. Wagner, “banâ”, trong G.-J. Botterweck – H. Ringgren (a cura di), Grande Lessico dell'Antico Testamento, op.cit., (I, trang 689-706), p. 697.  

[8]  X. N.-P. Bratsiotis, “îš và 'iššâh” trong G.-J. Botterweck – H. Ringgren. (a cura di), Grande Lessico dell'Antico Testamento, op.cit., (I, trang 239-252), p. 242.  

[9]  Gioan Bậc II, Thần học về thân xác, Nxb Tôn giáo, Tp. Hcm 2024, 142. Người dịch: Luy Nguyễn Anh Tuấn. Từ Giovanni Paolo II, Uomo e Donna lo creò , Città Nuova Editrice, Libreria Vaticana, Città del Vaticano 2001. Tham khảo và hiệu đính từ Ibid. , L'Amore Umano nel Piano Divino , Libreria Vaticana, Città del Vaticano 2009.     

[10]  A. De Saint-Exupery, Il Piccolo Principe, Tascabili Bompiani, Milano 1992, 39. Thật kỳ diệu nếu ở đây ta so sánh cái nhìn kinh ngạc của adam trước người phụ nữ chàng gặp với lời giải cảm điều không Kiềm được của Hoàng tử Bé trước Bông Hoa của chàng: “Ôi, em mới đẹp làm sao!”.    

[11]  Gioan Phaolô II, Thần học về thân xác, op. cit. ,82. 

[12] Ibid., 81 : “Người được tạo dựng cách 'dứt mục' trong cuộc tạo dựng nên sự hợp lý nhất của hai hữu thể. Họ hợp nhất nên một (thống nhất) qua công việc có cùng nhân tính; còn khác biệt nhau (lưỡng tính) thì lại biểu hiện qua sự khác biệt giới tính, là nam và là nữ, của người được tạo dựng trên cơ sở đồng nhất nhân tính đó”.      

[13]  “Rabbi Aqiba Ben Yosef có giải thích trong sách Talmud (Talmud, sota 17b) nguồn gốc của sự khác biệt giới tính giữa 'jš và 'iššhâ ở nơi Danh dự bất khả thi đạt được YHWH của Thiên Chúa. Một lần nữa, nếu ta lấy chữ jod của 'jš và chữ  của 'iššhâ và kết hợp chúng lại với nhau, chúng ta sẽ có hai chữ đầu của YHWH, điều đó như muốn nói rằng Danh thánh Thiên Chúa bao gồm tên của người đàn ông và người đàn bà như hai người khác nhau. Nhưng if ta get j od đi từ chữ 'jš ta sẽ có 'esh , và if get  ra khỏi 'iššhâ ta cũng sẽ có 'esh , trong tiếng Hípri có nghĩa là “lửa thiêu hủy”, điều đó như muốn nói rằng Nếu bỏ qua dị biệt không còn gì khác ngoài đồng tiền thì chỉ là “ngọn lửa thiêu” tất cả. Và sách Talmud kết luận: “Đàn ông mà không có đàn bà sẽ làm giảm hình ảnh tối thiểu của Thiên Chúa đi trong thế giới”. Nhưng cũng cần thận trọng khi giải thích tầm vóc quá cao như thế” (Cf. Lacroix, Il corpo di carne, op. cit. , 261).                        

[14]  X. NP Bratsiotis, “îš và 'iššâh” trong G.-J. Botterweck – H. Ringgren. (a cura di), Grande Lessico dell'Antico Testamento, op.cit., (I, trang 239-252), p. 242.  

[15]  Tương tự như ơn gọi của Simon: một khi đã gặp Đức Giêsu Người đổi tên ông thành phản, tức là người thay đổi và xác định ơn gọi của ông: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha (tức là rồng)” ( Ga  1,42).

[16]  HJ. Fabry, “ ' ēzer”, trong G.-J. Botterweck – H. Ringgren. (a cura di), Grande Lessico dell'Antico Testamento, op.cit., (VI, trang 14-21, trang 16), trang. 618.  

[17]  Gioan Bậc II, Mulieris dignitatem, op. cit. , s. 7. Nếu người nữ được Thiên Chúa ban cho để trở thành thành viên hỗ trợ thủ – 'ēzer – cho người nam, thì sự giúp đỡ này là tương hỗ: người phụ nữ trong khi khải nam tính của người đàn ông thì người đàn ông lại xác nhận tính nữ của người phụ nữ. Đó là điều thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II muốn nhấn mạnh: “Ý nghĩa của chữ 'trợ tá' mà sách Sáng thế 2,18-25 nói tới được hiểu như thế. Cảnh của Kinh thánh cho phép hiểu ngầm định nghĩa rằng người nữ phải 'giúp' người nam và ngược lại người nam cũng phải giúp nàng […]. Dễ dàng hiểu được 'trợ giúp' này là từ cả hai phía, tức là hỗ trợ”.  

[18]  F. Garcìa Lòpez, “kenegdô”, trong G.-J. Botterweck – H. Ringgren (a cura di), Grande Lessico dell'Antico Testamento, op. cit. , (V, trang 189-201), tr. 189. 

[19]  “Đối tác” ở đây có thể là đối nghịch mà cũng có thể phản đối. Khi bước vào cơn khủng hoảng, chiến đấu có thể trở thành đối nghịch và xảy ra cuộc chiến chiến đấu hủy diệt. Vì hai người là “trợ tá” của nhau hỗ trợ nhau để cùng trưởng thành và lớn lên trong cuộc gọi hôn nhân, nên họ có thể trở thành thành bão phạm cho nhau cả hai sa ngã và cùng bị hủy diệt.    

[20]  Thánh Giá II, Thần học về thân xác, op. cit., 123: “Do loại suy, 'tự nhiên' (bao gồm thế giới loài vật) qua thân xác con người và tính giáo dục con người, ở trong cả hai quá trình kỹ thuật, được nâng cấp lên tới cường độ 'hình ảnh Thiên Chúa', lên tới bình diện ngôi vị và hiệp thông giữa các ngôi vị”. 

[21]  Tình thân mật giáo dục đặt mối quan hệ nam-nữ vào trong một tương quan vợ-chồng, nghĩa là quan hệ trao tặng tương tương và chung thủy, sống với một nhân vị trước mặt mình, mặt đối diện. Từ quan hệ trao hiến phu thê hữu hình này, có tạo ra một loại suy về hôn thể phối: linh mục trước cộng đồng đoàn thể của mình, hay người tu sĩ sống thánh hiến trước Chúa Kitô, đó là những buổi diễn mô tả chiều hôn phối sự tự hiến của họ. Nhưng “Thực tại” cuối cùng của sản phẩm hôn phối được cử hành trong Hôn phối của Đức Kitô-Phú Quân với Hội thánh-Hôn thêm: đó là “Mầu nhiệm cao cả” ( Tập  5,32). By thế, theo một nghĩa nào đó, hôn phối của người nam và người nữ, vốn được nhờ “thực tại mới mẻ của tính giáo” do người nữ mang đến (chứng cứ của sự dị biệt), là “bí tích ” của những “kết hợp” khác được mô tả ở mức tối đa và tối ưu ở Đức Kitô và trong Hội thánh.

[22]  Sách Diễm ca có lại cảm giác xúc động của đôi bạn nguyên thủy trong lần gặp gỡ đầu tiên, tình yêu của chàng trai: “ Nàng em gái của anh, người yêu anh sắp cưới, trái tim anh, em đã sử dụng mất rồi ! Mắt em, chỉ một giá nhìn thôi, cổ em, chỉ một vòng kiềng trang điểm, đã đủ sử dụng trái tim anh” ( Dc 4,9). Nghe những lời nồng nàn nồng nàn ra từ miệng chàng, người con gái e ấp đáp: “Nào cho em nghe tiếng, vì tiếng anh ngọt ngọt và mặt anh duyên phong cách” ( Dc 2,14).    

[23]  J. Croissant, La femme ou le sacerdoce du coeur , Các mối phúc, Nouan-Le-Fuzelire 1992, p. 22: “Từ neqebâ có nghĩa là 'chỗ sâu vào', 'đồ canh', 'tạo một khoảng trống bên trong'. Cơ thể người đàn bà thì mềm mại và dịu dàng, được tạo dựng để đón nhận, nuôi dưỡng và để sinh sản. Người phụ nữ đón nhận trước hết bằng cách lắng nghe và suy nghĩ trong lòng. Đoạn Diễm ca 7,3 xác nhận ý tưởng 'chỗ sâu sâu vào', 'đồ bảo': “rốn em tựa chung rượu tròn” có thể hiểu là âm đạo, phòng trũng, nhưng ở đó không thiếu rượu cay” .     

[24]  RE. Clements, “zakar - neqebâ ”, trong G.-J. Botterweck – H. Ringgren (a cura di), Grande Lessico dell'Antico Testamento, op. cit. , (II, trang 594-599), tr. 596.   

[25]  X. Irénée de Lyon, Contre les hérésies , V, 16, 2, trong “Sources Chrétiennes”, n. 153, 217. Chú giải về “hình ảnh và đồ họa” sau đây được cho là thánh Irénée. Ngài phân biệt “hình ảnh” ( methexis ) với “họa ảnh” ( mimesis ): hình ảnh nói lên một sự tham dự hữu thể, nhưng hình ảnh cho thấy một sự biến đổi về mặt luân thạch và thiêng. “Trong thời gian quá khứ người ta nói con người đã được tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa nhưng hình ảnh đó không được thể hiện ra vì Ngôi Lời còn ẩn vô hình, vì con người vốn đã được tạo dựng nên theo hình ảnh đã có Ngài , và chính bởi con người cũng không hiển thị hình ảnh rõ nét. Nhưng khi Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, Ngài đã xác nhận cả hình ảnh và hình ảnh ngài: Ngài thực sự cho thấy hình ảnh ấy khi Ngài trở thành hình ảnh Thiên Chúa, và cố gắng lại chắc chắn hình ảnh ấy , bằng cách làm con người nên giống Chúa Cha vô hình giúp Ngôi Lời hữu hình”. 

[26]  Commissione Teologica Internazionale (Ủy Ban Thần học Quốc tế), Comunione e servizio, La Persona umana creata a immagine di Dio, “La Civiltà Cattolica”, IV (2004), 254-286, đặc biệt x. 264 và 265: “Được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, loài người được kêu gọi sống yêu thương và Hiệp thông. Vì cảm ơn cuộc gọi này được thực hiện bằng cách đặc biệt trong sự kết hợp vợ chồng mở ra với công việc truyền sinh, nên sự khác biệt giữa người nam và người nữ là một yếu tố cốt lõi yếu tạo nên con người, kẻ nguy hiểm được tạo ra theo hình hình ảnh Thiên Chúa. By thế, theo Kinh thánh image Dei biểu hiện, ngay từ ban đầu, nơi khác biệt bình tính. Chúng tôi có thể nói rằng con người hiện hữu duy nhất trong tư cách là người nam hoặc người nữ […]. Chiều kích này không hề ưu phụ hay thứ yếu, trái lại đó là một yếu tố nền tảng của căn tính ngã vị”.    

[27]  Thánh Giá II, Thần học về thân xác, op. thành phố., 48-49. “Tiền sử thần học” có nghĩa là gì? Đức Gioan Phaolô II xác định như sau: “Khi Đức Giết nói đến 'thuở ban đầu', Người Đòi những kẻ đang nói với Người phải vượt qua ranh giới giữa tình trạng vô tội nguyên thủy và tình trạng phạm tội, khởi đi từ sự sa ngã đầu tiên […]. Tình trạng 'lịch sử' nơi mỗi người, không trừ ai, rễ sâu vào trong 'thời tiền sử' thần học, tức là tình trạng vô tội nguyên thủy”.  

[28] Như trên.., 154: “Sau khi người nam và người nữ đầu tiên phạm tội, họ mất ân sủng vô kiện nguyên thủy. Việc khám phá ý nghĩa hôn nhân xác thực đối với họ sẽ không còn là một thực tế đơn giản của khảm và Ân sủng. Thế nhưng, ý nghĩa ấy sẽ vẫn như một cam kết mà nền đạo đức đức tin của sản phẩm tặng trao ban cho con người , thủ công được viết khắc sâu xa trong tâm hồn con người, như tiếng vọng lại xa xôi của sự vô tội nguyên thủy”.   

[29] Như trên, 115.  

[30] Như trên. , 142. 

[31] Ibid., 84-85: “Con người trở nên nên hình ảnh và họa tiết của Thiên Chúa không chỉ qua nhân tính của mình, mà còn qua sự Hiệp thông các ngôi vị, mà người nam và người nữ đã hợp thành ngay từ ban đầu […]. Con người trở nên hình ảnh của Thiên Chúa không chủ yếu tại yếu tố đơn độc cho bằng là ở tại sự Hiệp thông ”.     

[32] Ibid., 92. Cần phân biệt hai từ ngữ “hợp nhất lưỡng cực” (unità-duale) và “ một xương một thịt - una caro ”, để tránh nhầm lẫn. Hợp nhất lưỡng cực là sự kiện sở hữu thể học tiên thiên để chuẩn bị cho nam tính của người đàn ông được hoàn thiện trong tính nữ của người đàn bà, và ngược lại. Còn “một xương một thịt” là sự lựa chọn loại nhau tự làm của người đàn ông và người đàn bà: “Theo St 2,24 người nam và người nữ được tạo dựng để hợp nhất. Chính sự hợp nhất lưỡng cực này, nhờ đó họ trở nên 'một xương một thịt', ngay tự đầu có một đặc tính là họ gắn kết với nhau bằng lựa chọn thuốc”.        

[33]  X. P. Grelot, Le Couple humain dans l'Ecriture, “Lectio divina”, 31, Paris 1962, 33.  

[34]  Giuntoli, Genesis 1-11, op.cit., 99: “Động từ tiếng Hipri trong St 2,24 không phải là jadà có nghĩa là sự kết hợp tính giáo dục, mà là dabacq diễn tả ý tưởng một quan hệ liên vị trí. Thật vậy, từ ngữ này thường được dùng để chỉ một kết hợp mật thiết người cần phải có với Thiên Chúa của mình, như trong Đnl 11,22: 'If anh em giữ tất cả những mệnh lệnh này mà đưa ra thực hành , anh em sẽ gắn bó với Người'. Vì một xương sống mô tả sự sống hợp nhất của hai người khác, vốn được xây dựng trên sự kết hợp tính giáo dục”.                

[35]  Lacroix, Le corps retrouvé, op.cit., 108: “Chính nơi con con mà xương thịt trở thành một”.  

[36]  R. Spaemann, Nhân vật. Sulla Differentenza tra “qualcosa” e “qualcuno” , (a cura di) Leonardo Allodi, Laterza, Bari 2007, 39: “Cộng đồng rất thân mật giả định tiên thiên phải có quan hệ dị biệt tính giáo dục. Những người đồng giới có thể tạo ra các loại cộng đồng khác nhau, nhưng không thể trở thành 'một xương một thịt', như điều thánh có ý nói về sự kết hợp tính giáo dục. Không phải ngẫu nhiên thần thoại androgyno đã giải quyết cộng đồng này bắt đầu từ một đồng nhất thể nguyên thủy”.   

[37]  Chúng tôi vẫn thấy ý tưởng jadà này trong Tân ước, nghĩa là, về một cái được biết bởi tình yêu cho phép ta nắm được chính xác chiều sâu “Thực tại”. Thánh Gioan trong Thư thứ nhất nhấn mạnh đến cái biết này, một cái biết có thể huyền bí Thiên Chúa không mô tả: “Anh em thân mến, chúng ta ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” ( 1Ga 4,7-8). Thánh thánh cũng nói như thế: “…nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá mọi sự hiểu biết” ( Tập 3,19).    

[38]  Lacroix, Miraggi dell'amore, op. cit., 163: “Như thế ta có một ngôn ngữ thân xác và một ngôn ngữ bằng lời . Ngôn ngữ thứ nhất cho phép một người chạm tới cuộc sống của nhân vật và ngược lại. Có một sự tiếp xúc trực tiếp , một sự bao trùm nắm bắt nhau mà chỉ có các cử tri cụ thể và cảm giác sảng khoái mới có thể diễn đạt được. Ngôn ngữ thứ hai sẽ rõ ràng hơn, giải phóng những giấc mơ và làm cho rõ ràng hạn chế hơn, nghĩa là diễn tả tốt hơn tham vọng của chủ thể”.        

[39] Như trên, 24-25.