Đối thoại với các tôn giáo phương đông
Hoành Sơn, S.J.
Những lý do và nguyên tắc làm cơ sở thần học cho Đối thoại tôn giáo nói chung, tôi đã có dịp trình bày trong tập sách nhỏ Đối thoại tôn giáo[1] và rải rác sau đó trong một số bài báo. Gần đây, trong CGvàDT nguyệt san, tôi đã có dịp áp dụng cụ thể vào tương quan với đạo Hồi.
Thật ra, Hồi giáo đến từ Trung Đông, nên hướng đi và cấu trúc Sê-mít của họ rất khác với các tôn giáo Đông Á và Nam Á. Nên nếu do tính thời sự của vấn đề Hồi giáo mà hôm nay, dù trên đất nước ít Hồi hữu này, chúng ta vẫn phải quan tâm đến họ, thì lại do tính bản địa của Phật giáo, Cao dài, mà chúng ta không thể không tập trung chú ý vào những tôn giáo này.
Có điều tại Việt Nam chúng ta, Cao đài thì còn non trẻ, mà Khổng giáo lại suy vi rồi, nên tôn giáo ta phải coi trọng nhất không chi khác ngoài Phật giáo. Để hiểu hơn về Phật giáo, đôi lúc chúng tôi nói cả đến Ấn giáo nữa, khi mà Phật giáo đã từ Ấn giáo xuất thân, và chính Ấn giáo cũng có mặt từ lâu đời nơi đồng bào Chăm Thuận Hải.
Một số điểm dị đồng giữa KTG với các tôn giáo Phương Đông
Đức Kitô, tuy là Thiên Chúa nhập thể, đã không thể thành người nếu không vào khuôn người trong một văn hóa, và đây là văn hóa Do Thái. Kế đó, vì những nhà truyền giáo đầu tiên là người Do Thái, nên Phaolô và Bácnabê phải đấu tranh vất vả lắm mới rũ bỏ được tấm vải choàng Do Thái ấy, hầu các dân có thể gia nhập KTG dễ dàng. Sau này, vì KTG ổn định ở Âu Châu mười mấy thế kỷ trước khi từ đó được mang tới Việt Nam, nên KTG ấy không thể không mang bộ “veste” Tây trên vùng đất khăn đóng áo dài của chúng ta. Vâng, cần có những Phaolô-Bácnabê Việt Nam để rũ bỏ Đạo Trời khỏi cách suy nghĩ và ứng xử Âu Mỹ, hầu chúng ta có thể sống đạo sâu xa hơn từ chính con người (văn hóa) Việt của mình, đằng khác để KTG gần lại với các tôn giáo bản địa.
Điểm thứ nhất nó chia cách KTG với Thích-Đạo-Nho là tính kỳ thị mà KTG mang từ Trung Đông và Âu Châu đến. Quả thế, người Do Thái gọi người ngoại đạo là Yogim (Tây phương dịch là Pagani, paien), tức quê mùa, cục mịch. Có lẽ vì bên Phương Tây vào thời ấy, ngoài Do Thái giáo ra, chỉ có những tín ngưỡng đa thần và thờ ngẫu tượng rất bán khai, nên người Do Thái vừa khinh, vừa muốn tiêu diệt vì sợ lây sang dân mình[2]. Thừa hưởng cách nhìn Do Thái này, Hồi giáo thì chủ trương đánh giết người ngoại, còn Ki tô giáo thì coi rẻ họ. Ngoài ra, tuy “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc.19.10), nhưng đôi khi không theo kịp tinh thần bao dung ấy, đệ tử của Ngài muốn lửa trời thiêu rụi kẻ địch đi (Lc.9.54), do đó mới xảy ra chiến tranh như giữa Tin Lành và Công giáo xưa.
Trái lại, chiến tranh tôn giáo không phải sở trường của Phương Đông. Không ai phủ nhận từng đã xảy ra chiến tranh giữa Ấn giáo với Hồi giáo và đạo Sikh. Thật ra chiến tranh với đạo Sikh không phải vì lý do tôn giáo, nhưng lý do chủng tộc và xã hội. Vâng, Ấn giáo phân chia giống người thành những tập cấp (castes), với người ngoài Ấn giáo được coi là ngoại tập cấp, đồ dơ bẩn không thể tiếp xúc với. Do đó các dân tộc ít người, vì rheo tín ngưỡng khác mà bị gạt ra ngoài, nên chống lại hệ thống tập cấp này cùng với thứ tôn giáo đã bao che cho nó. Còn Hồi giáo là những kẻ xâm lăng xưa đã đến phá nát Ấn giáo và triệt hạ những nơi thờ tự của người Ấn khắp nơi trên miền Bắc, nên xung đột dễ xảy ra ngày nay do mối thâm thù ấy[3]. Chứ Phật giáo và Jaina-giáo, từ ngay trong Ấn giáo do chống lại Veda và các thần Ấn giáo mà thành hình, đã không hề gậy chiến với các thấy bà la môn. Vâng, suốt nhiều thế kỷ, đôi bên chỉ cạnh tranh với nhau trên mặt trận tư tưởng thôi.
Thật ra trong bản chất, KTG cũng rất bao dung. Khi quở trách sứ đồ vì muốn xin lửa trời đến thiêu rụi kẻ không tiếp đón mình, Chúa Kitô đã xướng xuất tinh thần bao dung tôn giáo ấy: bao dung tới độ cao nhất khi mà Ngài chỉ muốn cứu vớt chúng ta bằng tình thương, bằng cách hi sinh chính mình đi. Và như thế, Kitô giáo rất gần gũi với Phật giáo vốn chủ trương Từ bi hỉ xả.
Có điều Phật giáo đã duy trì được thái độ hiền hòa ấy nhờ môi trường hiếu hòa Đông phương. Như chúng ta đã thấy, Phật giáo đến với các nước Khổng, Đạo mà không hề bài bác Khổng, Đạo, cũng không bị các đạo này truy cản. Trái lại, cùng với Khổng giáo và Lão giáo, họ đã sáng tạo những nền tư tưởng thâm sâu mới cho Trung Quốc với sự phối hợp của cả ba hương đi, nhất là vào thời nhà Tống. Đấy là nơi tầng lớp trí thức. Còn ở giữa dân gian, tam giáo đã lẫn sang nhau và dung hợp với nhau trong niềm tin, cảm nghĩ và lối sống : niềm tin và lối sống Tam giáo đồng nguyên, mà từ đó mọc lên những tác phẩm văn học lớn như Tây du ký.
*
Giữa các tôn giáo lớn, chỉ Bà la môn giáo[4], Phật giáo, Jaina giáo và Ki tô giáo là có một đời sống nội tâm phong phú và tu hành cao, từ đó vọt lên những kinh nghiệm huyền bí, siêu kỳ, mà Phương Đông gọi là Đại định (samâdhi), satori, mà KTG gọi là Chiêm thiên phú (contemplation infuse).
Chính vì Phương Đông rất hướng nội, và cũng vì họ hay chỉ trích chúng ta sống hời hợt, chỉ biết có hoạt động xã hội, nghi lễ và cầu kinh thôi, nên Đức Gioan-Phaolô Ii, cùng với Thượng Hội đồng giám mục Á châu năm 1998, đã kêu gọi Công giáo tại đây hãy làm chứng bằng một đời sống chiêm niệm sâu xa, mà chúng ta có sẵn ngay từ những thế kỷ đầu tiên, với những vùng tu ẩn và đơn tu nổi tiếng ở Syri, Sinai, Thêbáit (Ai Cập), Athos (Hy Lạp). Tại vùng núi Athos này, còn di tích của những đan viện lớn rộng như thành phố, chứa cả mấy trăm, một ngàn tu sĩ vào thời xưa.
Thánh Augustin nói :”Thiên Chúa cao vượt chỗ cao nhất của tôi và sâu vượt chỗ sâu nhất của tôi”, nên chúng ta vừa phải ngẩng lên trong cầu nguyện, vừa phải đi sâu vào tâm hồn mình để gặp gỡ Chúa ở đấy. Có điều Tây phương quá nhấn vào sự cao xa của Chúa nên dễ quên nội tại tính của Ngài. Trái lại, Đông phương vì quá nhấn vào tính nội tại này mà dễ rơi vào chủ nghĩa nhất nguyên : Thiên địa vạn vật nhất thể! Vâng, cần giữ cân bằng giữa hai chiều kích, để dù nhìn Thiên Chúa như Đấng siêu việt, cũng phải hiểu rằng Ngài chỉ vượt tôi từ chính bề sâu của tôi.
Chính vì nhìn Thiên Chúa như Đấng ở trên tôi, nên Tây phương luôn vẽ các thánh với ánh mắt rực lửa, với mặt ngửa lên cao, trong khi đó thì Phật giáo lại tạc tượng Phật với cặp mắt lim dim nhìn xuống, như chìm sâu vào trong mình.
Sở dĩ phương Tây nhìn Thiên Chúa bên trên, nên ngoài tôi, vì họ thiên về lý tính (rationality), mà lý trí thì hướng về đối tượng (object) nên bên ngoài, và biết bằng ý tưởng, nên cái Hữu mà nó thấy luôn “rõ ràng và sáng sủa”. Trong khi ấy, phương Đông lại ưa trực giác, nên “chủ quan” (subjective) hơn, nhất là ưa thứ trực giác huyền nhiệm ở đó Siêu việt xuất hiện như một cái gì không thể hiểu bằng lý trí, không thể tả nên lời, nên xem như Vô sánh với cái Hữu lý tính, trong khi cái Hữu của kinh nghiệm và lý trí này cũng xem như Vô đối với những ai đã trải qua huyền thị. Do đó, nếu KTG (từ Tây đến) cứ hiểu và nói bằng ngôn ngữ lý tính, còn tôn giáo bên Đông lại chỉ nói bằng ngôn ngữ huyền nhiệm thôi, thì giữa hai bên chỉ còn sự đối thoại của những người điếc không hơn không kém. Do đó, mỗi bên phải bớt của mình và thêm của người, lại tự đặt mình vào vị trí của đối phương để cố hiểu đối phương qua ngôn ngữ và cách nhìn của họ.
*
Một điều nữa nên lưu ý : mỗi tôn giáo phương Đông thường phân đôi thành hai đạo rất khác nhau: đạo xuất thế của tỳ khưu đi tìm giải thoát, và đạo thờ tự của cư sỹ chỉ lo cầu lộc cầu tài cho cuộc sống này, đồng thời làm thiện để được thưởng mai sau ở một thiên đường không vĩnh cửu. Do đó để đối thoại, phải tùy thành phần mà đối thoại. Người đi vào đối thoại thường là tu sỹ của đôi bên, và đối thoại ấy thường diễn ra trên bình diện triết lý, tu hành hay luân lý. Thật ra thì cư sỹ Phật giáo cũng có người thông thạo Phật học và tu tại gia, trong khi tín đồ KTG hôm nay cũng có người thi đậu thần học và tu cạn giữa đời, nên những người như thế dễ dàng tham gia đối thoại bề sâu cùng với nhà tu.
*
Điều khác biệt kế tiếp, là KTG theo con đường nóng của trái tim, còn Phật giáo theo con đường lạnh của cái đầu. Vâng, Phật giáo cũng như Ấn giáo chủ trương đạt giác ngộ hay giải thoát tự mình, nhờ thứ trực giác huyền kỳ nó khiến nhìn ra sự thật về mình cũng như về tất cả. May thay, từ nhiều thế kỷ nay, không thỏa mãn với thứ tri thức lạnh lẽo ấy, ít là phân nửa Ấn giáo và Phật giáo đã quay sang con đường sùng mộ, hướng về Đức Phật hay Siêu việt như một Đấng Tối cao cứu nạn cứu khổ.
Quả thế, chi phái thờ Visnu trong Ấn Độ giáo đã biến Siêu việt thể lạnh lùng thành Đức Chúa từ bi, ban ân sủng (prasâda) cho kẻ thương Ngài và được Ngài thương, để rồi sau kiếp sống này cũng được về hưởng phúc chốn cực lạc với Ngài, chứ không biến mất trong Ngài. Việc của tín đồ cũng trở nên rất đơn giản : chỉ việc yêu Ngài, phó thác hết cho Ngài, và có làm gì cũng chỉ làm vì bổn phận, chứ không vì cái lợi cho mình nữa. Và đây là hành động vô cầu (karma-yoga)[5]. Với tông phái Đại thừa trong Phật giáo cũng thế, Phật tính hay Phật thể cũng biến thành một Chúa từ bi vô lượng (maitreya), dù giác ngộ rồi vẫn nguyện ở lại cùng chúng sinh khốn khổ trong một thể xác phiêu hốt, và đây là các bồ tát (bodhi-sattva)[6]. Phật tính đã thành Bồ tát và Chúa, nên dù tỳ khưu cũng cầu kinh, tụng niệm A di đà và lần chuỗi. Và như thế, đạo của tăng đã nhích gần đạo của tục. Và cũng vì thế, Phật giáo đã gặp KTG ít là ở hướng đi Yêu thương và Từ bi hỉ xả này. Nhất là khi hướng đi luân lý ấy còn là phương thế đạt giác ngộ cho họ nữạ, chứ không chỉ là sự chuẩn bị đi vào con đường giác ngộ như trước đây[7]. Vâng, nhiều người trong Đại thừa coi Từ bi hỉ xả như là cách để diệt vị kỷ và giới hạn, cũng là để vong ngã luôn, nhờ đó trực tiếp đạt Niết bàn.
*
Sau khi đã trình bày những dị biệt và cách vượt qua những cản trở ấy, bây giờ thử xem thái độ đôi bên đã sẵn sàng cho tiếp xúc và đối thoại hay chưa. Trước hết, hãy thử xem bên Việt Nam này, Phật giáo nghĩ gì về Công giáo, và ngược lại.
Vì không có khả năng làm một cuộc điều tra cẩn thận về vấn đề nói trên, nên tôi đành dựa vào kinh nghiệm riêng, cũng như dựa gián tiếp vào nghiên cứu của một số học giả về suy nghĩ của Phật giáo ở các nước xung quanh, suy nghĩ của cả Ấn giáo nữa khi mà Ấn giáo rất giống với Phật giáo về tôn giáo quan nói chung.
Ấn giáo với các tôn giáo khác
Như đã nói trên kia, từ nhất nguyên chủ nghĩa (Tôi với Thượng Thần là một), một nửa Ấn giáo đã chuyển sang đa nguyên (Tôi khác với Thượng Thần), nhưng dù đa nguyên, Visnu-giáo vẫn chấp nhận phe chủ trương nhất nguyên và sống thân cận với Siva-giáo. Ở chương IX tập kinh gối đầu giường của họ, kinh Bhagavad-gitâ, Đức Chúa Krsna (Thượng Thần nhập thể thành người) dạy đệ tử Arjuna như sau: Dù ai thờ cúng bất cứ thần nào, thì sự thờ cúng ấy cũng đi về phía Ngài, dù họ không biết Ngài cũng thế (c.23-25). Có điều kẻ nhờ Ngài sủng ái mà biết Ngài để phó thác hết cho Ngài trong thoát tục và mến yêu thâm sâu, thì rồi chỉ người ấy mới được Ngài thương và cho đạt hạnh phúc vĩnh cửu nơi Ngài (ch.XII). Và đây là chủ trương Thâu tóm hay Thôn tính (inclusivism), gom hết mọi đạo và thờ tự vào bên trong mình, nhưng cho họ một vai trò phụ thuộc và thiếu sót. Dù sao, đây cũng là một thái độ bao dung, và con đường sùng mộ, phó thác, cùng với học thuyết về ân sủng (prasâda) ấy cũng rất hợp với KTG chúng ta.
Có lẽ vì sự bao dung đã có sẵn trong tập kinh BhG, nên các nhà tư tưởng và thi nhân của họ như Râmânuja, Tukârâm và Satakopan luôn có thái độ cởi mở với các tôn giáo khác. Họ nghĩ rằng dù thần nào cũng do Đức Chúa Nârâyana (Krsna) của họ tạo nên, còn Đấng Tối cao mà những tôn giáo ấy thờ chẳng qua chỉ là những tên gọi khác của Đức Chúa đó thôi. Cho nên theo họ, các tôn giáo không hề mâu thuẫn nhau, mà bù trừ cho nhau[8]. Có điều, cũng theo các học giả ấy, con đường của các tôn giáo khác không giải thoát khỏi luân hồi và sự chết.
*
Kể từ lúc Tây phương xâm lăng đất Ấn Độ và các thừa sai KTG theo chân họ sang truyền giáo, thì do phản ứng tự nhiên của ác cảm và mặc cảm tự ti, các học giả Ấn giáo thường đề cao những nét đẹp của đạo Hindu, như tính nội tâm (itteriority), mở rộng, so với tính loại trừ và hời hợt bên ngoài của KTG. So sánh Đông Tây kiểu ấy, phải kể trước hết đến ba nhân vật có tên tuổi: Vivekânanda, Mahâtma Gandhi và Ram Svarup.
Vivekânanda (1863-1902), đệ tử của nhà huyền thị nổi tiếng Ramakrishna, dựa vào uy thế của Thầy đã lập nên tân giáo phái Ramakrishna Mission có mặt hiện nay ở nhiều nước Âu Mỹ. Theo ông, các tôn giáo quen cãi lộn nhau một cách vô bổ chỉ vì một cuốn kinh thư hay một vị thần. Thế mà chân lý thực sự lại nằm sâu trong nội tâm mỗi người, và chính triết lý Vedânta đã tiết lộ cho biết như thế. Vâng, chỉ có thể bắt gặp chân lý trong nội tâm, và phải “lấy tinh thần mà thờ tinh thần”.
Riêng Mahâtma Gandhi (tên đầy đủ : Mohandas K. Gandhi: 1869-1948) thi biết rất rõ KTG bởi ông say mê đọc Phúc âm và liên lạc mật thiết với Lev Tolstoi, tác giả của Chiến tranh và Hòa bình. Chính ông đã lấy tinh thần của Bài giảng trên núi mà phổ vào luật Ahimsâ (giới sát) Ấn giáo, biến luật này thành nguyên tắc “Đấu tranh bất bạo động”. Đây là đấu tranh xã hội-chính trị mà ông theo đuổi để giành lại tự do cho Ấn Độ. Tuy đấu tranh chống người Anh, nhưng ông vẫn là bạn của toàn quyền Anh. Vâng, Ahimsâ trong lòng ông đã trở thành Tình yêu không biên giới, dù đây là biên giới quốc gia, màu da hay tôn giáo. Chính phong trào Ahimsâ này đã sinh ra các phong trào phản chiến bên Âu Mỹ và phong trào dòi quyền bình đẳng cho người da đen do Matin Luther King lãnh đạo.[9]
Với Ahimsâ hay nguyên tắc Tình yêu không biên giới ấy, Gandhi đã cố hòa giải Ấn giáo với Hồi giáo, do đó bị một Ấn hữu cực đoan đâm chết[10]. Ông cũng mong muốn Ấn giáo và KTG gần lại với nhau. Để đạt mục riêu này, ông tránh đi vào giáo lý, mà vào thực hành luân lý. Và đây là Yêu thương trong đường hướng Ahimsâ. Theo ông, Thiên Chúa với Chân lý chỉ là một, thế mà thước đo chân lý ở mỗi tôn giáo là thực hành Yêu thương. Ngược lại, cũng chỉ Yêu thương mới giúp chúng ta, dù trong tôn giáo nào cũng thế, thực hiện được Chân lý. Hướng về các bạn Kitô hữu, ông nói như sau:
-“Tôi không muốn bạn thành người Ấn giáo. Trái lại, tôi muốn bạn hoàn hảo lên như một Kitô hữu bằng cách thâu nạp những gì là tốt trong Ấn giáo, những cái rất có thể không có hay bạn không thấy trong KTG.”[11]
Ram Svarup (1920-1998), học giả và ký giả, đã viết rất nhiều để so sánh Ấn giáo với KTG và Hồi giáo. Về tôn giáo, ông có xu hướng loại trừ (exclusivist). Ông chỉ trích KTG quá hướng ngoại, với một Thiên Chúa ở cao trên Trời, chứ không ở sâu trong lòng chúng ta. Theo ông, đây là do truyền thống Sê mít[12] nó đã sản sinh ra cả Do Thái giáo lẫn KTG và Hồi giáo. Trái với hướng suy nghĩ ấy, Ấn Độ giáo tìm giải thoát ở bề sâu bằng nhập định, tham thiền. Lại theo ông, do quá lý tính và hướng ngoại, tôn giáo phương Tây đầy ắp những tín điều nó đi đôi với phân rẽ, chiến tranh và tinh thần chinh phục hăng say.[13]
Phật giáo với các tôn giáo khác
Nói chung, thì Ấn Độ giàu tinh thần bao dung tôn giáo. Chẳng những hai giáo phái Visnu giáo và Siva giáo thờ lẫn thần của nhau, mà hai tôn giáo khác từ Ấn giáo thoát thai, dù chối bỏ Veda và các thần Ấn giáo, cũng vẫn sống chung hòa bình được với hai tôn giáo trên. Đúng là giữa đôi bên tân cựu từng có đấu tranh đấy, nhưng đấu tranh trên mặt trận tư tưởng thôi.
Ngay hồi đầu, dù Đức Sakya Gautama phủ định các thần Veda như thế, nhưng khi một thầy bà la môn (tế sư trong Ấn giáo) thiện chí đến hỏi về con đường giải thoát, Ngài đã không khuyên ông rời bỏ Siêu việt thể Ấn giáo là Brahma (Bà la môn), nhưng khuyên đến với Brahma bằng tâm hồn không vướng bận, khi mà chính Siêu việt Brahma cũng không vướng bận (hình thức) do bản chất. Có điều, để đạt tới tình trạng không vướng bận như thế, Đức Phật dạy ông phương pháp Tứ diệu đế, dạy coi chúng sinh “bình đẳng”, đối xử với tất cả bằng tấm lòng từ bi.
Phật giáo đại thừa càng nhấn mạnh hơn vào sự từ bi hỉ xả nói trên, mà mẫu mực họ đề ra là các bồ tát. Có điều, một khi đi vào con đường tình thương như vậy, người ta cũng tiến sang một thứ tôn giáo tình cảm : Đức Phật đã trở thành như một vị Thần Chúa từ ái, sẵn sàng cứu khổ cứu nạn; còn tăng ni thì cũng luôn miệng Na mô cùng với tín đồ, phó thác tất cả trong tay Đức Thích ca. Phật giáo đại thừa đã gần lại với Bhakti Ấn giáo và Sùng mộ KTG.
Nhất nữa khi bên Trung Quốc, một ngành của Đại thừa tiến sang chủ trương Đốn ngộ. Đốn ngộ, nghĩa là không cần những bước đi chuẩn bị cùng với những bậc thang đi lên, mà chỉ cốt ngộ tính cao, để khi gặp duyên, một cái gì đập mạnh vào người chả hạn, giác ngộ sẽ vọt ra liền. Và như thế bất chấp cả Tam bảo, bất chấp cả tôn giáo luôn, có lẽ.
Thật ra, một vài kinh thư Phật giáo còn coi một số tôn sư tôn giáo khác như những bồ tát chính cống. Ngay Khổng giáo và Đạo giáo cũng được xem như những con đường hay phương pháp chúng biểu hiện Tứ diệu đế theo đường lối riêng.[14]
Thật ra, ngay khi Phật giáo xâm nhập Trung Quốc, Việt Nam,v.v., họ đã sống chung một cách hài hòa rất tự nhiên với Nho và Đạo, cả trên bình diện tư tưởng cao lẫn trong niềm tin đơn giản của dân chúng, như được thể hiện rất rõ trong những tiểu thuyết như Tây du ký. Vâng, trong niềm tin Tam giáo đồng nguyên ấy, đương sự không còn phân biệt rõ chổ nào là Đạo, chỗ nào là Thích hay Nho nữa.
*
Nếu Phật giáo đại thừa cởi mở nhất, thì Phật giáo nói chung cũng tiếp tục truyền thống bao dung của hồi đầu. Nếu có một hai người như Dharrmasiri của Sri Lanka chỉ trích học thuyết KTG về một vị thần vĩnh cửu và các linh hồn bất tử, thì phần đông học giả Phật giáo không thiết đề cập đến các vấn đề thuộc niềm tin mà họ coi là vô bổ. Riêng đức Đạt Lai Lạt Ma thì chơi thân với cả Công giáo và Tin Lành, lại hay bàn đến những vấn đề đạo đức mà các bên quan tâm, nhất là lòng từ bi hỉ xả. Theo ngài, các tôn giáo phải đứng riêng để đáp ứng những nhu cầu thiêng liêng rất khác nhau của những loại người khác nhau. Theo ngài, KTG cứ việc đi sâu vào con đường của mình, đồng thời học hỏi ở các tôn giáo khác những gì giúp họ hoàn thiện chính mình họ. Vâng, mỗi tôn giáo là một con đường, và cứ đi đúng con đường ấy sẽ tới Thiên đường đối với KThữu và Niết bàn đối với Phật hữu.[15]
Nhà sư Buddhadasa thuộc Phật giáo tiểu thừa còn đi xa hơn nữa khi so sánh các tôn giáo như những dòng nước tuy mang theo chất khoáng khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn là nước. Có điều nước ở nền tảng của nó lại chỉ là H và O, nghĩa là Không-Nước. Điều ấy có nghĩa : Các tôn giáo gọi Chân lý bằng những tên khác nhau, có vậy thôi[16]. Và như thế, chủ trương của Buddhadasa là Đa nguyên (pluralism), cũng là Duy tương đối chủ nghĩa tôn giáo (religious relativism). Có điều đây lại là thứ cực đoan ngược lại với Loại trừ chủ nghĩa, và nó khiến cho tín đồ KTG chưa nắm vững giáo lý sẽ mất phương hướng khi nghe thuyết pháp như vậy. Nói chung, thì Phật giáo rất bao dung. Phật giáo đại thừa lại không mấy quan tâm đến lý thuyết, mà chỉ cần thực hành (phương pháp và tu luyện) thôi. Theo một số người, không phải lý thuyết, mà kinh nghiệm huyền bí mới khiến ta gặp gỡ Sự Thực. Vâng, theo họ, người ta thường lẫn biểu trình (représentation) về Sự thực với chính Sự thực, y như lầm ngón tay chỉ mặt trăng với chính mặt trăng. Có điều về phương pháp, tức thực hành, phần đông lại nghĩ rằng chỉ Tứ diệu đế Phật giáo mới giúp người ta đạt tới Sự thực đầy đủ. Và đây là chủ trương Thôn tính hay Thâu tóm (inclusivism).
Thái độ các tôn giáo tại Việt Nam
Xưa kia, tôi có dịp làm quen với nhiều nho gia chân chính, như cụ Nhất Thanh, cụ Đỗ Bằng Đoàn. Tuy họ quý tôi, nhưng thường không ưa cả Công giáo lẫn Phật giáo. Có lẽ vì trong lịch sử các triều đại, có vua thân Phật giáo, lại có vua thân Khổng giáo, do đó mà giữa hai phe thường có cạnh tranh về ảnh hưởng. Còn đối với Công giáo, một số nhà nho chia sẻ thái độ của nhóm Văn thân, đó là ghét Tây nên cũng ghét các cố vì họ là người Tây, ghét lây Công giáo vì nghĩ Công giáo cũng chống Văn thân với Tây[17]. Riêng Công giáo, do ảnh hưởng Do Thái, luôn khép kín đối với người ngoài đạo, nên giữa Công giáo với Phật giáo và Cao đài, Hòa hảo, thường ít có trao đổi về mặt tôn giáo, còn giáo chúng đôi bên vẫn giao thiệp với nhau bình thường trong tình nghĩa xóm làng hay trên bình diện nghề nghiệp,v.v.
Dẫu sao, càng ngày những tiếp xúc tôn giáo càng năng xảy ra, nhưng thường chỉ có tính cách cá nhân hay nhóm hội. Có những nhà sư làm thơ tán tụng Đức Trinh nữ Maria, có những người Công giáo thích đi nghe thuyết pháp, có những tu sĩ hoặc nhóm tu sinh Công giáo đi học thiền ở Trúc Lâm thiền viện, và có rất đông người thuộc các tôn giáo bạn đến khấn khứa ở các trung tâm hành hương Công giáo.
Sau công đồng Vatican II, Công giáo thế giới ngày càng thân thiện với các tôn giáo bạn. Người ta mời các guru[18] hay thiền sư tới dạy thiền cho tu sinh, dạy về Ấn Độ giáo hay Phật giáo cho chủng sinh. Có những nhóm tu sinh nhân kỳ nghỉ hè đến sống chung với các nhà sư trong một ngôi chùa, có những tu sĩ như Henri Le Saux đến thọ giáo với guru và tu am với họ trong một thời gian khá lâu. Ở Việt Nam, thì một đan sĩ kia cũng từng đã thọ giáo sâu xa với hòa thượng Thích Thanh Từ như vậy. Hi vọng về lâu về dài, các nhà sư cũng sẽ đến tu chung với chúng ta trong các tu viện Công giáo và học hỏi về KTG một cách nghiêm túc hơn. Cố nhiên là hai bên chỉ có thể nhập định chung với nhau, chứ cầu nguyện hay tụng kinh thì mỗi bên phải làm theo cách riêng của mình.
Mở lối vào Đối thoại liên tôn
Những cánh cửa đã được mở ra cho đối thoại liên tôn dù ở chính Việt Nam. Nhưng đây chưa phải là cổng lớn, vì đại bộ phận các chức sắc tôn giáo còn thờ ơ với việc này, lại nhiều người tỏ ra nghi ngại khi thấy một số tu sinh trẻ đi vào giao tiếp bề sâu với phía bên kia. Cho nên đôi bên cần phải làm những cố gắng lớn để phá đi các rào cản và xóa tan những mặc cảm.
Mặc cảm về phía Công giáo : cho rằng chỉ có mình nắm được chân lý, và con đường của mình là đường duy nhất dẫn tới đích. Dù sao thì chúng ta cũng đã nhìn nhận rằng : chân lý thành phần (partielle) có thể tiềm ẩn trong các tôn giáo khác; riêng những thần học gia tiến bộ thì chấp nhận có cứu độ (KTG) dù không đầy đủ cho những ai sống thuận với lương tri trong những tôn giáo nói trên, và rất có thể, nhờ những tôn giáo nói trên. Vâng, dù bao dung, chúng ta không thể trung thành với niềm tin mà không có chủ trương thâu tóm (inchusivism) như vậy.
Về phía Phật giáo, các nhà sư cũng cần xóa bỏ mặc cảm, cho rằng chỉ trong Ấn giáo và Phật giáo mới có huyền nghiệm (đại định), và huyền nghiệm bậc cao. Một lần kia, khi thuyết trình cho một cử tọa gồm nhiều chức sắc Cao đài, Phật giáo và Nho gia, tôi đã dựa vào các tác phẩm của Tiên sa Avila và Gioan Thánh giá mà trình bày về huyền nghiệm và huyền thị trong KTG. Nghe xong, tất cả đều ngỡ ngàng, không ngờ trong KTG cũng có huyền nghiệm, và huyền nghiệm cao như vậy. Vâng, chúng ta không nên hãnh diện về các hoạt dộng giáo dục, y tế, xã hội của Công giáo, cũng như việc đi nhà thờ đông đảo của giáo dân. Người Phật giáo và Cao đài giáo chỉ có thể kính ngưỡng chúng ta như một tôn giáo nhờ chiều sâu huyền nhiệm, chứ không phải ở cầu kinh và các hoạt động bên ngoài như thế đâu.
Công giáo không thiếu huyền nhiệm, nhưng kỹ thuật đi vào chiều sâu thì chúng ta có thể học hỏi thêm ở các tăng ni. Chúng ta cũng mong muốn các tăng ni đi vào lý tính nhiều hơn, khi mà để hiểu họ và để họ hiểu mình, chúng ta cũng dùng đến trực giác và thứ ngôn ngữ huyền nhiệm nữa.
Vâng, thưa các đại đức, tuy Siêu việt không bị lẫn với ngón tay lý tính trỏ về phía Ngài, nhưng ít ra Ngài vẫn ở về phía mà ngón tay trỏ ấy trỏ về, chứ không phải ở phía khác. Và thưa các linh mục, tuy chúng ta vẫn nhìn nhận cái biết lý tính không tương bằng (thích đáng, inadéquat) với thực tại siêu nhiên và siêu việt, nhưng chúng ta lại ít chú tâm đến chữ Không trong In-adéquat ấy khi tưởng như mình nắm trọn được chân lý, nghĩa là nắm được nó một cách “rõ ràng và sáng sủa”, như 2 với 2 là 4 vậy.
Quả thật trong KTG, những ai đã đạt tới huyền thị tuệ trí, như Tiên sa Avila và I Nhã Loyola đều chẳng thể diễn tả gì về cái họ kinh nghiệm cả, chỉ vì khi ấy lý trí bị ngưng, không hiểu gì để có thể nói gì. Đối với lý trí, thì Cái ấy (Tad) có gì như Vô vậy. Vâng, có lẽ chỉ trong huyền nghiệm, chúng ta mới tạm hiểu được ý nghĩa chữ Vô của Đức Phật, của các rsi[19] Ấn giáo!
*
Một khó khăn nữa cho đối thoại, đó là cử chỉ tôn kính đối với đối tượng thờ kính của nhau. Một lần kia khi tôi cùng với mấy đồng đạo vào vãng cảnh chùa, một nhà sư tới trao hương cho chúng tôi lễ Phật. Các bạn tôi thì khựng lại, còn tôi thì nghĩ : Tại sao không thể coi Đức Phật như một vị thánh, ít là một tiên tri như những tiên tri Cựu Ước? Và thế là tôi cứ vái hương. Chỉ cần không có xì căng đan, thế thôi. Xì căng đan là khi ai đó tưởng tôi thờ Phật như thờ Chúa vậy. Riêng đối với các tông phái Phật giáo đã coi Đức Phật như một vị Tối thượng rồi, thì chúng ta cũng có thể coi Buddha ấy như một thứ tên khác mà người ta dùng để gọi Đấng Tối cao, như Yaveh của người Do Thái và Allâh của đạo Hồi. Vâng, đúng Thiên Chúa thì Ngài đâu có tên, và ai có thể gói gọn Ngài trong một cái tên được nhỉ?
*
Giữa Công giáo Việt chúng ta và Phật giáo, đối thoại diễn ra không phải như giữa những người khách suông. Cùng dòng dõi con Rồng cháu Tiên, chúng ta đã chẳng là anh em với nhau đấy ư? Chẳng những là anh em do huyết thống cách nào đó, mà còn anh em do văn hóa nữa. Chẳng những do văn hóa thường, mà còn do văn hóa-tôn giáo. Vâng, gia tiên của tôi đã từ trong Khổng, Phật mà quy thuận Chúa, cho nên đời sống đức tin của tôi đã được xây vững trên hệ gen của Trung hiếu nhà Nho, trên Từ bi hỉ xả và đức Nhẫn Phật giáo. Vậy, vừa phải nhớ ơn Khổng giáo và Phật giáo, tôi vừa phải nguyện cầu cho anh em trong hai đạo ấy được chia sẻ với tôi hạnh phúc trở thành con em đầy đủ hơn của Cha và Chúa chúng tôi.
Tôi cũng vui lòng đến với Phật giáo như những người học trò, học ở họ các kỹ thuật tu luyện mà KTG từ Tây phương truyền đến còn thiếu. Chẳng có gì phải mặc cảm cả : Thiên Chúa chẳng đến ăn mày ở loài ngườ nhân tính của họ trước khi chia sẻ cho họ thiên tính của mình đó sao? Đứng trước họ, tôi cũng không có mặc cảm tự tôn, vì cái mà tôi nhận được từ Chúa đâu phải do công của tôi mà do ân của Chúa. Vâng, tôi chỉ may mắn hơn nhiều người Việt khác, -nói cho rõ hơn-, may mắn được Chúa gọi trước họ, thế thôi.
Một điều nữa nên học ở Phật giáo, đó là mở đạo ra, chứ đừng khép đạo lại trong bốn bức vách nhà thờ. Vâng, chúng ta chỉ lo “dạy dỗ con chiên” của mình thôi, chứ không cố đưa Tin mừng và tinh thần Tin mừng phổ ra bên ngoài trong thơ, tiểu thuyết, phim ảnh, sách báo và các nghệ thuật “đời” khác. Vâng, hãy thuyết đạo ra ngoài hơn là chỉ kéo người vào đạo!
[1] Ra khơi xuất bản năm 1972.
[2] Nhị luật, 20.17-18.
[3] Nên nhớ, cả Pakistan va Bangla desh xưa kia cũng là đất Ấn Độ với tôn giáo chung là Ấn giáo.
[4] Ngành chính thống và cao thâm có trước Ấn giáo và nay lồng trong Ấn giáo cụ thể.
[5] Xx. Bhagavad-gitâ, ch.XIII và ch.VIII.
[6] Xx. Hoành Sơn, Đối thoại tôn giáo, tr. 74tt.
[7] Cũng như Ấn giáo coi hành động cúng tế giúp thanh tẩy tâm trí để di vào con đường tím giải thoát, thì Phật giáo cũng coi hành động luân lý có cùng giá trị thanh tẩy ấy.
[8] Xx. Francis X. Clooney s.j., Hindu views of religious others…,trong Theological studies, June 2003, tr.315,322.
[9] Xx. bài của Hoành Sơn năm 1969 trong tạp chí Bách Khoa nhân dịp bách chu niên ngày sinh của ông.
[10] Trong tinh thần Bài giảng trên núi, trước khi chết, như Đức Giêsu, ông đã xin tha cho kẻ làm hại mình.
[11] Gandhi, Collected works, 37.224.
[12] Dòng giống người Trung Đông, được cho là thuộc dòng dõi ông Sem, con của Noe.
[13] Xx. Clooney, sđd., tr.319, 320, 323tt.
[14] Xx. John Makransky, Buddhistm perspectives on truth in other religions, trong Theological studies, June 2003, tr. 349, 351-354.
[15] Xx. Makransky, sđd., tr.355; Le Dalai-Latma parle de Jésus, do D. Labalanche dịch từ tác phẩm tiếng Anh của J-P.Ribes, tr.124-126.
[16] X. Makransky, sđd., tr.356.
[17] Phải công nhận rằng, nhiều nhóm Công giáo, vì bị Văn thân đẩy đến đường cùng, nên tạm dựa vào Tây để tự vệ.
[18] Tôn sư trong Ấn giáo.
[19] Các nhà huyền thị trong Bà la môn giáo cổ thời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét