CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA ĐỨC GIÊSU (Máccô 14,01-15,47 CN Lễ Lá – B)
Tình yêu mạnh hơn sự chết. Tình yêu đã cứu thoát loài người và đem đến cho con người sự sống vĩnh cửu.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
1.- Bố cục
Bài Thương Khó tự nó đã là một khối chất liệu phong phú giúp cá nhân cũng như cộng đoàn suy niệm. Để có điểm tựa cho việc suy ngẫm này, chúng ta có thể tìm hiểu cấu trúc bản văn.
Đôi khi người ta cho rằng Mc là tác giả viết không hay mấy. Thật ra không phải thế. Ở đây chỉ nguyên việc nghiên cứu cấu trúc của bài Thương Khó, chúng ta đã nhận ra một nền thần học sâu sắc nằm chìm trong đó. Bản văn có thể chia thành hai phân đoạn:
Bài Thương Khó tự nó đã là một khối chất liệu phong phú giúp cá nhân cũng như cộng đoàn suy niệm. Để có điểm tựa cho việc suy ngẫm này, chúng ta có thể tìm hiểu cấu trúc bản văn.
Đôi khi người ta cho rằng Mc là tác giả viết không hay mấy. Thật ra không phải thế. Ở đây chỉ nguyên việc nghiên cứu cấu trúc của bài Thương Khó, chúng ta đã nhận ra một nền thần học sâu sắc nằm chìm trong đó. Bản văn có thể chia thành hai phân đoạn:
1. Mc 14,1-21. Phân đoạn này có cấu trúc đồng tâm như sau:
A cc. 1-2: Giới lãnh đạo âm mưu giết Đức Giêsu
B cc. 3-9: Xức dầu tại Bêtania
C cc. 10-11: Giuđa phản bội
B’ cc. 12-16: Chuẩn bị ăn Lễ Vượt Qua
A’ cc. 17-21: Đức Giêsu báo trước Giuda sẽ phản bội
B cc. 3-9: Xức dầu tại Bêtania
C cc. 10-11: Giuđa phản bội
B’ cc. 12-16: Chuẩn bị ăn Lễ Vượt Qua
A’ cc. 17-21: Đức Giêsu báo trước Giuda sẽ phản bội
Cấu trúc này nhắm vào hành vi phản bội của Giuđa (C), đã được chuẩn bị bởi cuộc âm mưu của giới chức tôn giáo (A) và được Đức Giêsu loan báo (A’). Ở bên trong cái khung này, có việc xức dầu ở Bêtania, được coi như lời báo trước cái chết của Đức Giêsu (B), còn các việc chuẩn bị cho bữa tiệc Vượt Qua là như những lời tiên báo về cuộc phục sinh của Đức Kitô (B’). Nằm ngay trọng tâm việc Đức Giêsu cứu độ chúng ta nhờ cái chết và sự sống lại của Người, là hành vi phản bội của Giuđa.
2. Mc 14,22-16,8. Phân đoạn thứ hai này cũng có cấu trúc đồng tâm như sau:
A 14,22-25: Lập Bí tích Thánh Thể
B 14,26-31: Phêrô sẽ chối Thầy
C 14,32-52: Tất cả các môn đệ chạy trốn
D 14,53-65: Đức Giêsu tự xưng là Con Thiên Chúa, còn thầy thượng tế thì xé áo
E 14,66-72: Đáp lại Đức Giêsu tuyên xưng niềm tin, Phêrô chối ba lần
F 15,1-15: Kết án vua dân Do Thái
G 15,16-20a: Tôn vương vua dân Do Thái
F’ 15,20b-27: Thi hành án tử cho vua dân Do Thái
E’ 15,19-32: Ba lần Đức Giêsu bị chế nhạo
D’15,33-39: Đáp lại sự chế nhạo, một người ngoại tuyên bố Người là Con Thiên Chúa. Màn Đền thờ xé ra
C’15,40-41: Các phụ nữ đứng đó (họ đã đi theo và phục vụ Đức Giêsu: đây là tư cách của người môn đệ)
B’ 15,42-47: Cái chết của Đức Giêsu làm phát sinh các môn đệ mới
A’ 16,1-8: Đức Giêsu phục sinh là Đấng đang sống.
Bản văn đúng là một khảo luận thần học về Đức Kitô, về các môn đệ, Bí Tích Thánh Thể, tương quan giữa Đức Giêsu và các cơ cấu phượng tự Israel, sự mở rộng ơn cứu độ cho Dân ngoại. Chúng ta có thể nêu vài nhận xét:
Nhiều-Nhiều’ cho thấy Bí Tích Thánh Thể như là nơi Đức Giêsu đang sống hôm nay trong Họi Thánh. C-C’ cho thấy người môn đệ đích thực không những là người đã bước theo Đức Kitô, nhưng còn là người đã “phục vụ” (giúp đỡ) Người. Đấng Chịu đóng đinh, Đấng vừa được tôn vương, theo kiểu khôi hài nhưng có thật (G) không là ai khác mà là chính Con Thiên Chúa (D-D’), nghĩa là Đấng làm trọn niềm chờ mong của Cựu Ước, là Đấng Mêsia, vua dân Do Thái (F-G-F’)(như thế đã kết thúc dự phóng của Mc là nhắm cho thấy rằng quả thật Đức Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”, Mc 1,1). Các phân đoạn D và D’ còn cho thấy rằng nếu người ngoại giáo có thể tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa là bởi vì với cuộc Thương Khó của Người, Người đã chấm dứt chế độ tư tế Lêvi (theo Luật, cấm thầy thượng tế xé áo, x. Lv 21,10) và việc phục dịch Đền Thờ là việc bị cấm đối với người ngoại (điều này được cho thấy qua việc màn trường Đền Thờ xé ra).
Tất cả mọi điều này đã có thể xảy ra bởi vì Đức Kitô đã bị đóng đinh và, như phân đoạn thứ nhất 14,1-21 nhắc nhớ, cũng là vì Giuđa đã phản bội…
+ Kết luận
B 14,26-31: Phêrô sẽ chối Thầy
C 14,32-52: Tất cả các môn đệ chạy trốn
D 14,53-65: Đức Giêsu tự xưng là Con Thiên Chúa, còn thầy thượng tế thì xé áo
E 14,66-72: Đáp lại Đức Giêsu tuyên xưng niềm tin, Phêrô chối ba lần
F 15,1-15: Kết án vua dân Do Thái
G 15,16-20a: Tôn vương vua dân Do Thái
F’ 15,20b-27: Thi hành án tử cho vua dân Do Thái
E’ 15,19-32: Ba lần Đức Giêsu bị chế nhạo
D’15,33-39: Đáp lại sự chế nhạo, một người ngoại tuyên bố Người là Con Thiên Chúa. Màn Đền thờ xé ra
C’15,40-41: Các phụ nữ đứng đó (họ đã đi theo và phục vụ Đức Giêsu: đây là tư cách của người môn đệ)
B’ 15,42-47: Cái chết của Đức Giêsu làm phát sinh các môn đệ mới
A’ 16,1-8: Đức Giêsu phục sinh là Đấng đang sống.
Bản văn đúng là một khảo luận thần học về Đức Kitô, về các môn đệ, Bí Tích Thánh Thể, tương quan giữa Đức Giêsu và các cơ cấu phượng tự Israel, sự mở rộng ơn cứu độ cho Dân ngoại. Chúng ta có thể nêu vài nhận xét:
Nhiều-Nhiều’ cho thấy Bí Tích Thánh Thể như là nơi Đức Giêsu đang sống hôm nay trong Họi Thánh. C-C’ cho thấy người môn đệ đích thực không những là người đã bước theo Đức Kitô, nhưng còn là người đã “phục vụ” (giúp đỡ) Người. Đấng Chịu đóng đinh, Đấng vừa được tôn vương, theo kiểu khôi hài nhưng có thật (G) không là ai khác mà là chính Con Thiên Chúa (D-D’), nghĩa là Đấng làm trọn niềm chờ mong của Cựu Ước, là Đấng Mêsia, vua dân Do Thái (F-G-F’)(như thế đã kết thúc dự phóng của Mc là nhắm cho thấy rằng quả thật Đức Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”, Mc 1,1). Các phân đoạn D và D’ còn cho thấy rằng nếu người ngoại giáo có thể tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa là bởi vì với cuộc Thương Khó của Người, Người đã chấm dứt chế độ tư tế Lêvi (theo Luật, cấm thầy thượng tế xé áo, x. Lv 21,10) và việc phục dịch Đền Thờ là việc bị cấm đối với người ngoại (điều này được cho thấy qua việc màn trường Đền Thờ xé ra).
Tất cả mọi điều này đã có thể xảy ra bởi vì Đức Kitô đã bị đóng đinh và, như phân đoạn thứ nhất 14,1-21 nhắc nhớ, cũng là vì Giuđa đã phản bội…
+ Kết luận
Trọng tâm của cuộc Thương Khó là Đức Giêsu. Người đã khởi đầu cuộc sống công khai bằng việc loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa và kêu gọi những môn đệ hợp tác với Người. Thế là “con đường” đã thành hình do các lời nói và cách sống của Người. Tuy nhiên, Đức Giêsu liên tục gặp phải sự ngu dốt và trì trệ của các môn đệ. Người cũng đã bị dân Nadarét loại trừ và đám đông không hiểu. Ngược lại có những tín hiệu cho thấy dân ngoại sẵn sàng đón tiếp Người hơn: truyện người phụ nữ xứ Xyri và việc bánh hóa nhiều còn dư bảy giỏ (để dành cho người vắng mặt!). Đức Giêsu đã kết thúc sứ vụ Galilê trong tình trạng tranh tối tranh sáng của các môn đệ.
Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu là cơ hội để vạch rõ gương mặt thật của tất cả mọi con người đã từng có cơ hội tiếp xúc với Đức Giêsu, và cũng là khoảng thời gian chứng minh cao độ nhất tư cách của Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế và ơn cứu độ viên mãn Thiên Chúa muốn ban cho loài người qua Con của Ngài. Cần chiêm ngắm những chọn lựa của Đức Giêsu. Người có thể tránh khỏi cái chết, nhưng Người là sẵn sàng nạp mình. Người có thể lợi dụng đám đông để gây ra một cuộc đảo lộn để gây thanh thế, nhưng Người lại im lặng, chịu cảnh cô đơn. Người có thể vận dụng quyền lực của “Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng” để tự giải thoát, nhưng Người đã chịu hành hạ, sỉ nhục, đánh đòn và bị đóng đinh.
Đức Giêsu giống như một con người quá yếu, yếu một cách thảm hại. Người như một kẻ bị thua, thua một cách nhục nhã. Tuy nhiên, Người lại rất mạnh trong chính tình trạng yếu thua đó, khi Người thắng vượt mọi thử thách đau đớn để trung thành với Chúa Cha. Dù như bị Thiên Chúa bỏ rơi, Người vẫn yêu mến, vẫn tin tưởng phó thác. Dù bị chế nhạo, nguyền rủa, Người vẫn một lòng yêu thương tha thứ. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Tình yêu đã cứu thoát loài người và đem đến cho con người sự sống vĩnh cửu.
Đức Giêsu giống như một con người quá yếu, yếu một cách thảm hại. Người như một kẻ bị thua, thua một cách nhục nhã. Tuy nhiên, Người lại rất mạnh trong chính tình trạng yếu thua đó, khi Người thắng vượt mọi thử thách đau đớn để trung thành với Chúa Cha. Dù như bị Thiên Chúa bỏ rơi, Người vẫn yêu mến, vẫn tin tưởng phó thác. Dù bị chế nhạo, nguyền rủa, Người vẫn một lòng yêu thương tha thứ. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Tình yêu đã cứu thoát loài người và đem đến cho con người sự sống vĩnh cửu.
2.- Gợi ý suy niệm
1. Hai cám dỗ
Khi đọc bài Thương Khó, chúng ta dễ có một trong hai thái độ, thật ra là những cám dỗ nặng nề: hoặc cảm động khi thấy Đức Giêsu đáng thương bị sỉ nhục, bị đánh đòn và bị đóng đinh; hoặc nổi giận với các thượng tế đã kết án Người phải chết và với toán lính đã giết chết Người khi hành hạ và đóng đinh Người. Các tâm tình này đúng là các cám dỗ bởi vì chúng thỏa mãn một thứ linh đạo cảm xúc, nhờ đó chúng ta cảm thấy mình có lương tâm đúng đắn, không có chút gì đáng trách cả, nhưng trong thực tế, chúng ta chẳng hề thấy mình bị liên lụy gì trong bản thân và trong cuộc sống chúng ta với cuộc Thương Khó của Đức Kitô. Chúng ta cảm thấy mình có “đôi bàn tay sạch”!
2. Một kinh nghiệm
Chúng ta cần phải đi sâu hơn vào ý nghĩa của cuộc Thương Khó của Đức Kitô. Chúng ta có thể dựa vào một kinh nghiệm. Chẳng hạn, chúng ta nghĩ đến một người mắc chứng bệnh nan y, đã đến giai đoạn cuối cùng, giai đoạn đau đớn nhất, giai đoạn bi đát nhất trên “đàng Thánh Giá”. Bên cạnh người ấy, là một người vợ đơn sơ, chất phác, đã mệt mỏi kiệt quệ vì bao tháng ngay săn sóc người thân yêu. Đức tin của người vợ này có đơn sơ thật, có theo truyền thống thật, nhưng cũng là một đức tin mạnh mẽ, có thể chuyển núi dời non. Làm thế nào để làm vơi nhẹ nỗi đau kia? Phải nói gì đây? Bà ấy nói: “Con phải làm gì đây? Con ký thác cho Chúa và Đức Mẹ. Chỉ có các Đấng mới có thể giúp đỡ con”.
3. Con người đau khổ
Quả thật, chúng ta cần chia sẻ với nhau xác tín này: Chỉ có nơi Chúa, ta mói có thể tìm ra sức mạnh mà sống cái hiện tại khó khăn và hy vọng vào một tương lai ở bên kia trái đất mà Thiên Chúa đã bảo đảm cho ta. Suy ngẫm cuộc Thương Khó của Đức Kitô, bằng cách nhận ra rằng cuộc Thương Khó này đang xảy ra nơi một con người đang đau khổ ở kề bên ta, giúp ta tránh được việc sống cuộc Thương Khó như một cuộn phim hết sức cảm động hoặc như một quyển tiểu thuyết khiến rơi nước mắt, nhưng thúc bách ta suy nghĩ về đau khổ của Người. Một đau khổ có thể chạm tới được, khi mà Người bị nỗi lo sợ khắc khoải đè bẹp, Người xin Chúa Cha nếu có thể được thì cất xa thử thách này, hoặc hơn nữa, khi hoàn toàn là một con người, trên thập giá, Người kêu lên: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”. Chính con người trên thập giá, con người của đau thương ấy, thật sự đang là hiện thân của đời sống chúng ta, một cuộc sống thường bị mờ tối đi vì những thử thách và khắc khoải. Tuy nhiên, đây là một đau khổ có thể đưa lại một ý nghĩa tuyệt đối mới mẻ theo viễn tượng của Đức Kitô, Đấng vừa là người vừa là Thiên Chúa, Đấng đã sống lại sau khi chết. Như phụng vụ phép Rửa nhắc nhớ, qua Con của Ngài, Thiên Chúa đã ban cho loài người chúng ta “niềm hy vọng vui tươi là được sống đời đời”.
Hôm nay, chúng ta cần phải thấy rõ: chúng ta có được sự sống chân thật ở nơi nào? Nơi các sứ mạnh của trần gian hay là nơi Thiên Chúa? Cần phải thấy rõ, và chọn lựa dứt khoát. Lời mời gọi của Đức Giêsu vẫn còn vang vọng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
Nguồn: kinhthanh.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét