Trang

Thứ Tư, 21 tháng 3, 2012

NHỮNG SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY B




NHỮNG SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY B
Lời Chúa: Gr 31,31-34; Dt 5,7-9; Ga 12,20-33
1. Hạt lúa mục nát – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn lên những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến… Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa”. Và nó đã mọc lên xanh tốt.
Hạt giống thứ hai tự nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn… Làm sao mình có thể cho búp non xòe lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn”. Và nó tiếp tục đợi chờ… Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng với đời sống cây cỏ. Muốn có thóc lúa trong mùa gặt, ta phải ném hết lúa giống xuống ruộng trong mùa gieo. Muốn có rau xanh trong bữa ăn, ta phải đổ hết hạt giống xuống vườn. Cứ khư khư hạt giống trong kho, ta sẽ chẳng có rau, cũng chẳng có thóc. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng đối với đời sống tự nhiên của con người. Mục nát ở đây có nghĩa là phải chịu vất vả khó nhọc. Người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cầy bừa. Người học sinh muốn đỗ đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn miệt mài kinh sử.
Mục nát ở đây cũng có nghĩa là phải chịu đau đớn với những từ bỏ. Bào thai muốn phát triển thành một con người, phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó được cưu mang an toàn. Em bé muốn nên người phải từ bỏ cha mẹ và những người thân để vào trường học tập. Học sinh muốn phát triển cao phải từ bỏ trường làng đầy kỷ niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh, lên đại học. Thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành cũng phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mái ấm gia đình để sống tự lập trong đời sống tu trì hoặc trong đời sống hôn nhân. Đời sống con người là một chuỗi dài những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn đau. Nhưng chính nhờ những từ bỏ đau đớn ấy mà người ta lớn lên thành người. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà gia đình và xã hội luôn phát triển. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà cuộc sống trở nên tươi đẹp, phong phú và ý nghĩa hơn.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này tuyệt đối đúng với đời sống thiêng liêng. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình.
Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những con người, những đồ vật, những nơi chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy như gắn chặt vào ta, như là một phần đời sống của ta. Dứt bỏ những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy khiến ta đau đớn như chết đi một phần đời mình. Đó là những mất mát to lớn. Nhưng nếu ta chấp nhận những “cái mất” hiện tại, ta sẽ có những “cái được” trong tương lại. Nếu ta dám chấp nhận những “cái mất” chóng qua, ta sẽ có những “cái được” vĩnh cửu.
Đời sống thiêng liêng hệ tại việc kết hợp với Chúa. Ta chỉ kết hợp trọn vẹn với Chúa khi ta từ bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa. từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Hãy nhìn Đức Giêsu trong vườn Giệt-si-ma-ni. Cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha khiến Người đau đớn đến đổ mồ hôi máu ra. Nhưng chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa. Bấy giờ ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Chúa sống trong tôi”. Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được thiên đàng.
“Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng, chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu nát tan, để trao cho đời cây lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay, là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, của các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc. Đã có những người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người, chúng con được làm hạt lúa. Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm Vượt Qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt đối và tha nhân. Amen. (Manna 85).
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào nơi vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào khó hơn cả.
2- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống cây có?
3- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống thiêng liêng?
4- Chúa Giêsu đã là hạt giống chịu mục nát đi. Bạn hiểu điều này thế nào?
2. Hạt lúa trơ trọi.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Nếu hạt lúa rơi vào lòng đất, mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt"
Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên khi nghe câu trên. Đó là luật tự nhiên chi phối cây cỏ, nhưng lắm khi tôi thấy khó áp dụng cho mình.
Tại sao tôi phải chết để người khác được sống? Chết để sinh nhiều bông hạt ư? Nhưng nhiều bông hạt có ích gì, khi chính tôi bị tan vỡ? Chính vì thế tôi không muốn chết như hạt lúa.
Tôi chấp nhận trơ trọi một mình. Tôi cô đơn với tôi, để được yên ổn. Tôi sợ mất mát, vì mất mát đem lại đớn đau, nên tôi tìm đủ cách để giữ lại những gì tôi có, những gì tôi là. Tiếc thay, lúc giữ được tất cả tôi lại thấy mình mất tất cả, vì mất ý nghĩa của cuộc sống. Tôi như con thú chỉ biết chăm lo cho bộ lông của mình.
Dần dần qua những kinh nghiệm đau thương, tôi mới nhận ra rằng: chỉ có một cách giữ chặt, đó là buông ra và trao hiến. Tôi bắt đầu được khi chấp nhận mất. Sự sống đời đời đã bắt đầu, hạnh phúc đã hé nụ ngay lúc này, ngay ở đây, cho tôi.
Như con ốc sên, chỉ bò được khi chui ra khỏi vỏ, tôi chỉ giàu có và triển nở mọi mặt khi quảng đại ra khỏi lớp vỏ của mình, ra khỏi những bận tâm, tính toán, xây đắp cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Lời kinh Hòa Bình lại vang vọng trong tôi: "Vì chính khi hiến thân, là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân..."
Nhưng hiến thân, quên mình, hy sinh, từ bỏ, đón lấy cái chết như hạt lúa vùi sâu, những điều đó đã làm chính Đức Giêsu dao động.
"Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này chăng? Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến." (c. 27)
Đã có những giây phút giằng co, ngần ngại, đã có những cuộc chiến Vườn Dầu ở trong tôi. Nếu tôi kiên trì tỉnh thức và cầu nguyện, tôi sẽ thắng được nỗi sợ bị thua thiệt, mất mát. Sau nhiều lần dám liều mất tất cả để rồi ngỡ ngàng thấy mình được lại quá nhiều, tôi sẽ dễ dàng chọn cái mất trước mắt như con đường dẫn đến cái được vĩnh hằng.
Xin Đức Giêsu bị đóng đinh kéo tôi lên với Ngài, kéo tôi lên khỏi đất, kéo tôi ra khỏi tôi.
Gợi Ý Chia Sẻ
• Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời bỏ nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào là khó hơn cả?

• Tưởng mình được, hóa ra lại mất. Vui lòng mất, hóa ra lại được. Bạn có kinh nghiệm cụ thể nào về điều đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng chúng con ít khi nghĩ đến những hại giống đã âm thầm chịu nát tan để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc.
Đã có những con người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân.
Nhờ công ơn bao người, chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.
Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân. Amen.
2. Tôi sẽ lôi kéo mọi người – Yvon Daigneaut.
Mở đầu.
Trong khi bài Tin Mừng được tuyên bố, chúng ta đã nghe Chúa Giêsu nói một lời khó hiểu: “Khi tôi được nâng lên khỏi mặt đất, tôi sẽ lôi kéo mọi người đến với tôi”. Lời này ám chỉ hai điều: việc Ngài sắp bị đóng đinh thập giá và tầm ảnh hưởng vô biên từ cái chết của Ngài trên thập giá. Vì không có thói quen nhắc đến những nguyên nhân trừu tượng và những ý niệm tổng quát không thể kiểm chứng được, Chúa Giêsu mời chúng ta lưu ý đến một biến cố sắp xảy ra liên quan đến Ngài cách tuyệt đối –bởi Ngài là người độc nhất bị nâng lên khỏi mặt đất- và sẽ liên quan đến chúng ta một cách cũng tuyệt đối như thế bởi vì hết thảy mọi người sẽ được lôi cuốn bởi biến cố này và sẽ dấn thân vào đó.
Biến cố thập giá.
Thập giá không phải là một biến cố anh hùng mà Chúa Kitô ao ước đương đầu bằng tất cả bầu nhiệt huyết cách mạng. Đây là một biến cố khá nhỏ nhen, bần tiện, với một hậu cảnh tôn giáo chính trị khó hiểu, mà Chúa Giêsu đã tìm cách tránh trong một thời gian dài, nhưng vẫn không trốn thoát nó. Khi Ngài thấy biến cố này đang đến và Ngài không thể hoãn lại lâu hơn nữa, Ngài đã đón nhận nó bằng tác động vâng phục hoàn toàn tự do của một người con, sẵn sàng tự hiến như Chúa Cha đã yêu cầu Ngài.
Vì trong cơ bản thập giá là cuộc tự hiến hoàn toàn mà Chúa Con dâng lên Cha Ngài bằng hành vi vâng phục được thể hiện trong một vụ án bất công, kèm theo sự ruồng bỏ của những kẻ thuộc về Ngài, trong một cái chết gây ra bởi nỗi đau đớn tột cùng do việc bị đóng đinh thập giá. Qua hành vi vâng phục này Chúa Giêsu hiến mình trong một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Cha Đấng có thể cứu Người khỏi chết và khỏi quyền lực tối tăm đang tấn công Ngài.
Chúa Giêsu không chấp nhận thập giá vì Ngài, Ngài chấp nhận nó vì chúng ta. Chính thập giá của thế giới mà Ngài đã mang, thập giá mà sự bất tuân của chúng ta và việc chúng ta từ chối Chúa Cha đã áp đặt cho chúng ta, nó là công trình tay chúng ta làm ra, hoa quả trổ sinh từ những bất chính của chúng ta. Khi chấp nhận thập giá chung của loài người, khi mang nó như thể nó thuộc về bản thân Ngài, Chúa Giêsu đã sống nó trong một tiếng kêu hy vọng và tin tưởng mà Chúa Cha sẽ đón nhận. Sự hiến dâng và lời khẩn cầu của Ngài đã cứu Ngài và cứu chúng ta nữa cùng với Ngài.
Thập giá là nguồn mạch sự sống.
Sự cứu độ của chúng ta, với tư cách là cộng đồng nhân loại và với tư cách cá nhân, chỉ nằm trong việc trở về với Thiên Chúa, trong ý muốn vâng phục của con cái, hoa quả của một Giao Ước Mới. Và chúng ta không thể thực hiện được điều này bằng sức riêng mình, vì việc từ chối ban đầu chống lại tình yêu Thiên Chúa tiếp tục đè nặng trên chúng ta và áp đặt cho chúng ta một gánh nặng ngày càng khiến chúng ta tê liệt.
Trái lại, nếu Ai Đó có thể giao hòa chúng ta lại với Thiên Chúa, vì Ngài và vì chúng ta hết thảy, bằng việc đón nhận trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, dù là trong một biến cố đầy thử thách như biến cố thập giá, lúc đó ta sẽ tìm lại được tình thân hữu với Thiên Chúa. Lòng chúng ta sẽ có khả năng thương yêu và giao hòa, có khả năng vui vẻ đón nhận ơn sự sống. Sự sống sẽ tuôn trào từ thập giá cách tràn trề đến nỗi làm cho chúng ta phải ngỡ ngàng. Nhờ chấp nhận thập giá của loài người, Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta sự sống mà Chúa Cha đổ tràn trên Ngài trong cuộc Phục Sinh: thông ban Thánh Thần; ân sủng; sự hiệp thông đời đời với Thiên Chúa; qui tụ loài người thành một cộng đoàn mới; hoàn tất việc tạo dựng trong công chính, bình an và tự do.
Kết luận.
Chúa Giêsu nói: “Ta sẽ lôi cuốn hết thảy mọi người!”. Ảnh hưởng của thập giá luôn luôn lan rộng. Không nỗi đau khổ nào của loài người được tách rời ra khỏi thập giá, không niềm hy vọng nào nảy sinh trong lòng lại bị chối bỏ. Thập giá của Chúa Giêsu làm cho thế giới này được sống. Như từ một nguồn suối, sự sống đang tuôn trào từ thập giá, đang thấm nhuần và biến đổi thế giới này.
4 . Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu.
(Suy niệm của Noel Quesson)
“Phần tôi, một khi được nâng lên khỏi mặt đất. Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi”.
Năm 1941, một tù nhân đã trốn khỏi nhà tù Auschwits của Đức quốc xã. Đó là một nhà tù nổi tiếng khủng khiếp, và đã có quy định là nếu một người trốn trại thì sẽ có mười người khác thế mạng. Giám thị trại giam tập họp tù nhân lại và đếm ra 10 người. Một trong đám mười người bị tử thần điểm danh này bỗng òa khóc: “Trời ơi, vợ tôi, con tôi! Tôi sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa!”. Cha Maximilianô Kônbê (Maximiliano Kolbe) cũng là tù nhân ở trại lúc đó, nghe tiếng than của người tù. Cha động lòng thương, Ngài tiến lại kéo anh tù ra, và đứng vào chỗ anh cho đủ mười người. Cha Kônbê và 9 bạn tù bị bỏ đói hai tuần lễ và kết thúc cuộc sống bằng một mũi tiêm thuốc độc. Xác họ được hỏa táng và sử dụng như phân bón.
Người tù thoát chết tên là Francis Gap Wniczek kể lại chuyện này. Anh nói sau cái chết của Cha Kônbê, tinh thần trại giam thay đổi hẳn. Mọi người đối xử với nhau rất thân ái, chia sẻ từng mẩu bánh, từng muỗng canh, ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị Linh mục dòng Phanxicô, đã hy sinh mạng sống để cứu một người anh em.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong Thánh cho Cha Kônbê vào tháng 10 năm 1983, và đặt Ngài làm bổn mạng của thời đại khó khăn. Giáo Hội mong ước các tín hữu noi gương Cha Kônbê, và cũng là noi gương Chúa Giêsu, sẵn sàng hy sinh cho anh em đồng loại.
Chúa Giêsu đã chọn cái chết trên thập giá vì chúng ta. Chúng ta là những tội nhân đáng phải chết, mà Chúa đã chết thay cho chúng ta. Chúa chết để biểu lộ tình yêu tột đỉnh của Người đối với ta như Người đã nói: Không có tình yêu nào lớn lao bằng hy sinh mạng sống vì người mình yêu.
Chúa Giêsu cũng có nhân tính, cũng là người như chúng ta, cũng biết đau khổ và cái chết là tận cùng của đau thương. Chúa cũng thấy ngại ngùng lo sợ, cơn hấp hối đã bắt đầu: “Tâm hồn Ta xao xuyến”, “Xin Cha cứu con khỏi giờ này”. Nhưng Chúa can đảm trở lại ngay. Nhưng không, “Con tới chính vì giờ này. Lạy Cha xin làm vinh quang Cha”.
Đường khổ giá không phải chỉ dành cho Chúa. Các Môn đệ Chúa phải hy sinh vì anh em, để chứng tỏ mình yêu thương mọi người, có vậy mới chứng tỏ được rằng mình yêu Chúa.
Can đảm bước theo Chúa trên đường Thánh giá là xây dựng vinh quang cho mình mai sau. Lời Chúa và cuộc sống của Chúa đã bảo đảm điều đó.
Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con trên đường theo Chúa hôm nay, biết sẵn sàng chia sẽ cuộc sống với những người anh chị em đau khổ.
5. Suy niệm của JKN.
Đức Giêsu loan báo Người sẽ được tôn vinh nhờ cái chết của Người
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong việc buôn bán, muốn thu tiền vào, trước hết người ta phải bỏ tiền ra để đầu tư (mua hàng). Tại sao phải làm điều trái ngược như vậy? Đó là chuyện lạ hay là lẽ thường tình? Muốn hạnh phúc, có cần phải chịu đau khổ trước không? Có hạnh phúc nào không đòi hỏi phải đau khổ không?
2. Bạn có rút được qui luật gì về sự sống và sự chết, hạnh phúc và đau khổ không? Giữa hai thái cực ngược nhau ấy, có sự liên hệ mật thiết nào không?
3. Lời Đức Giêsu: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» có mâu thuẫn hay phi lý không? Bạn có kinh nghiệm nào về chân lý này không?
Suy tư gợi ý:
1. Định luật đời sống: muốn thu vào phải biết bỏ ra, muốn hạnh phúc phải chấp nhận đau khổ
Trên đời, ta thấy sự vật luôn luôn biến đổi và có chiều hướng tiến hóa. Nhưng tiến hóa không phải theo kiểu thẳng một đường, mà theo kiểu hình «sin» hay hình lưỡi cưa, nghĩa là vẫn có tiến có lùi, nhưng tiến nhiều lùi ít, để rồi nhìn chung là luôn luôn có tiến hóa. Do đó, muốn tiếp tục tiến, nhiều khi cần thiết phải biết lùi: lùi một để tiến hai, hoặc lùi hai để tiến ba, v. v... Cũng như muốn đóng đinh, không thể chỉ đập búa xuống, mà còn phải nhấc búa lên. Nếu không nhấc búa lên thì tuyệt đối không thể tiếp tục đập xuống. Nâng búa lên tuy chẳng làm đinh lún thêm chút nào, nhưng cũng cần thiết và quan trọng không kém gì đập búa xuống, mặc dù chỉ động tác đập xuống mới có tác dụng hữu ích. Nâng búa lên tuy vô ích nhưng lại rất cần thiết!
Tương tự, một người buôn bán cứ phải bỏ tiền ra để mua hàng hóa khiến tiền bạc bị hao hụt đi, nhưng nhờ vậy mà có hàng bán ra để thu tiền vào và có lời, khiến tiền bạc ngày càng gia tăng và trở nên giàu có. Nếu người ấy không chịu bỏ tiền ra để đầu tư, cứ giữ khư khư số tiền mình có, thì làm sao gia tăng số tiền ấy lên được? Vậy, điều cần thiết để có thêm là phải cho ra hay cho đi. Nhưng đời thường, hễ thu vào thì vui, còn cho ra thì buồn. Vì thế, kẻ thiểu trí chỉ muốn thu vào mà không muốn bỏ ra, nên thu vào chẳng được bao nhiêu. Người ngu chỉ muốn hưởng sướng mà không chấp nhận chịu khổ nên chẳng sướng được nhiều. Còn người khôn thì sẵn sàng bỏ ra để thu vào cho nhiều, sẵn sàng chấp nhận đau khổ để được hạnh phúc hơn. Bỏ ra càng nhiều thì thu vào cũng càng nhiều. Cũng vậy, càng chấp nhận đau khổ thì càng có khả năng hưởng thụ hạnh phúc. Những người thiểu trí thường không nhận ra qui luật này.
2. Đau khổ và hạnh phúc luôn gắn liền và đi đôi với nhau
Bài Tin Mừng hôm nay giúp ta áp dụng định luật ấy vào đời sống, vào cuộc hành trình đi đến hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của ta. Đức Giêsu cho biết: «Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!» Và Ngài cho ta biết lý do nào khiến Ngài được tôn vinh, hay nói cách khác, Ngài phải sống hay làm thế nào mới được tôn vinh: «Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác». Ngài còn diễn tả chân lý ấy theo kiểu khác: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời».
Qua những lời ấy, Đức Giêsu cho thấy sự song đôi tất yếu của từng cặp yếu tố trái ngược nhau: chết đi và sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt lúa có chết đi mới sinh ra những hạt khác. Con người có đau khổ mới làm cho mình và người khác hạnh phúc. Thật vậy, nếu người ta cứ sống mãi không chết, làm sao thế giới có đủ chỗ và tài nguyên cho các thế hệ con cháu sinh ra sau? Đời sống kinh tế mới khó khăn lên một chút là người ta đã lo hạn chế sinh sản, lo ngừa thai phá thai rồi! Do đó, chết là điều kiện tối yếu của sống, và đau khổ là điều kiện tối yếu của hạnh phúc. Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà không được xây dựng trên đau khổ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác? Đúng thế, hạnh phúc và sự no ấm của con cái chính là thành quả của những vất vả, cực nhọc của cha mẹ. Sự yên vui của người dân là do sự hy sinh xương máu của những chiến sĩ xả thân bảo vệ quê hương. Vinh quang của một học sinh thi đậu xây dựng trên những ngày vất vả cắp sách đến trường, những đêm thức khuya cặm cụi với bài vở. Ngược lại, có biết bao đau khổ phát sinh vì những hạnh phúc mà chính mình hay người khác đã hưởng quá sớm, hoặc đã hưởng một cách trái đạo. Thật vậy, dân chúng nghèo đói là do các quan trên tham nhũng. Gia đình túng thiếu, vợ con cảm thấy cay đắng là vì người chồng đàng điếm, rượu chè. Biết bao thanh thiếu niên làm hỏng cả một cuộc đời chỉ vì sa đà vào nghiện hút, vì biếng học ham vui.
Vì thế, Đức Giêsu nói: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời». Trên thương trường, người buôn bán muốn thu thêm tiền vào thì lại phải chấp nhận bỏ tiền ra đầu tư. Cũng vậy, trong đời sống, người muốn được hạnh phúc thì phải chấp nhận đau khổ. Người buôn bán muốn thu tiền vào mà lại không chịu bỏ tiền ra đầu tư thì chẳng thu được đồng nào, mà còn bị mất tiền vì phải tiêu dùng cho những nhu cầu cần thiết của đời sống. Cũng vậy, tìm hạnh phúc mà không muốn trải qua đau khổ, thì cuối cùng chẳng những không đạt được hạnh phúc mà nhiều khi phải chuốc lấy những đau khổ nặng nề. Chẳng hạn những người muốn giàu có mà không chịu lao tâm khổ trí, không muốn làm lụng vất vả, bèn dùng những cách bất chính như trộm cướp, tham nhũng… thì thường đi đến những hậu quả hết sức bi đát (như tù tội, bị trả thù, sạt nghiệp...).
Còn rất nhiều câu Kinh Thánh khác nói lên sự đi đôi giữa sống và chết, giữa đau khổ và hạnh phúc, trong đó một vài câu ta thường nghe như: «Người đi trong nước mắt, đem hạt giống gieo trên ruộng đồng. Người về miệng vui ca, tay ôm bó lúa ngào ngạt hương» (Tv 126,6). «Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài» (2Tm 2,11-12; x. Rm 6,8; 8,17).
3. Giải thoát khỏi nỗi sợ chết, sợ đau khổ, sẵn sàng chấp nhận đau khổ hoặc chết (vì Chúa, vì lương tâm) là bí quyết để sống thanh thản, bình an và hạnh phúc
Về câu nói của Đức Giêsu: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời», tôi có kinh nghiệm sau đây, xin chia sẻ với mọi người. Tôi cũng như mọi người, rất ham sống sợ chết. Trong mọi trường hợp, tôi luôn luôn nghĩ đến sự an toàn của bản thân tôi trước tiên. Vì thế, mỗi khi thấy chuyện gì nguy hiểm xảy đến cho tôi là tôi run sợ, lo lắng, bất an. Tình trạng lo lắng ấy có thể kéo dài nhiều ngày tháng, khiến tôi không còn cảm thấy hạnh phúc nữa. Nhưng cách đây vài năm có xảy ra một trường hợp: tôi phải chọn lựa dứt khoát giữa sự an toàn bản thân và tiếng lương tâm. Phải dứt khoát, vì chọn làm theo sự thúc đẩy của lương tâm thì thật là nguy hiểm cho bản thân, và chắc chắn còn liên lụy đến gia đình: cha mẹ, anh em, vợ con; còn chọn an toàn cho bản thân thì bị lương tâm cắn rứt, chịu không nổi. Sau khi bị lương tâm dằn vặt nhiều ngày chịu không nổi vì chưa làm theo sự đòi hỏi của nó, tôi quyết định làm theo tiếng lương tâm, bất chấp mọi sự. Thà chấp nhận nguy hiểm còn hơn để lương tâm bất an! Thế rồi những khó khăn xảy đến... trong nhiều ngày tháng… Như một phản ứng tự vệ, tôi phó thác mạng sống và sự an nguy của tôi trong tay Chúa. Khi hồi hộp lo âu, tôi lẩm nhẩm hát trong trí: «Chúa khoan nhân là mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì, tôi không còn e sợ nỗi gì (...) Dầu tôi đi qua trong thung lũng tối đen hiểm nguy, lòng tôi không lo ngại tai họa gì: vì Chúa ở cùng tôi, cây trượng và cây gậy Chúa khiến tôi an lòng» (Tv 23). Thế rồi mọi khó khăn đều qua!
Nhiều lần phải chọn lựa tương tự như vậy, lần nào tôi cũng làm theo sự đòi hỏi của lương tâm. Dần dần tôi cảm thấy nhu cầu đòi hỏi an toàn cho bản thân giảm đi, khiến hiện nay, khi gặp nguy hiểm cho bản thân, tôi cảm thấy an tâm hơn trước rất nhiều. Giữa những nguy hiểm, tôi tập sẵn sàng chấp nhận mất tất cả, kể cả mạng sống. Lạ lùng thay, dần dần tôi cảm nghiệm được một sự thanh thản, bình an sâu thẳm trong tâm hồn. Và tôi khám phá ra thật sự có bàn tay quan phòng của Thiên Chúa luôn bảo vệ tôi, luôn lo lắng cho tôi tất cả những nhu cầu cần thiết.
Qua kinh nghiệm trên, tôi khám phá ra rằng: lúc nào cũng nghĩ trước hết đến sự an toàn bản thân chỉ tạo cho ta một thói quen sợ sệt, lo lắng, mất bình an. Còn tập buông bỏ tất cả những gì mình vẫn thường bám víu như: sự sống, sự an toàn, các tham vọng, tiền bạc, nhà cửa, danh dự... sẵn sàng chấp nhận mất tất cả, chỉ bám víu vào một mình Thiên Chúa, thì sự bình an và hạnh phúc sẽ đến. Hiện nay, tôi cảm thấy tâm hồn bình an và hạnh phúc hơn trước rất nhiều: một thứ bình an hạnh phúc thường hằng và bền vững, khác với thứ bình an trước đó. Bình an và hạnh phúc của tôi bây giờ phát xuất từ bên trong, từ Thiên Chúa, không bị chao đảo khi những điều kiện bên ngoài thay đổi nữa. Qua kinh nghiệm này, tôi thấy chính lúc mình chấp nhận đau khổ, thì đau khổ không còn ảnh hưởng tới mình nhiều như trước nữa. Chính lúc mình sẵn sàng chấp nhận chết bất kỳ lúc nào, thì mình lại sống thanh thản và trọn vẹn hơn bao giờ hết. Điều Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay quả là đúng!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu cho con thấy tương quan mật thiết giữa sống và chết, giữa hạnh phúc và đau khổ. Xin cho con đủ tình thương để chấp nhận đau khổ hầu làm cho những người chung quanh con hạnh phúc. Con biết rằng nếu con làm được điều ấy, con sẽ thấy cuộc đời này tràn đầy ý nghĩa và hạnh phúc. Xin cho con đủ dũng cảm để làm điều ấy.
6. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
GIỜ CỦA CHÚA GIÊSU (12,20-36)
Đoạn này kéo dài điều đã được nói về Chúa Giêsu từ chương 11. Giờ tôn vinh của Chúa Con được loan báo trong 11, 4 đang trở thành hiện thực. Trong 11,51-52 Gioan tuyên bố rằng cái chết của Chúa Giêsu sẽ dẫn tới việc mở rộng sứ vụ của Chúa đến với mọi người. Đó là ý nghĩa sự kiện mấy người Hy Lạp đến gặp Chúa Giêsu.
Phần dẫn: Những Người Hy Lạp (12, 20-22)
Những người Hy Lạp ở đây không phải là những người Do Thái sinh sống ở Hy Lạp hay nói tiếng Hy Lạp. Từ ngữ này chỉ những người ngoại giáo mới theo đạo (những người thiện cảm với đạo Do Thái nhưng không muốn chịu phép rửa). Lần đầu tiên những người không phải Do Thái này tiếp cận Chúa Giêsu được khéo léo sắp xếp như là dấu hiệu loan báo giờ đã đến. Những người xuất thân từ đa thần giáo này trước hết đã chọn Thiên Chúa của Israel. Họ chuẩn bị cho một bước chuyển tiếp mà theo thánh sử là đi từ Do Thái giáo đến Chúa Giêsu là đích điểm. Họ muốn “gặp” Chúa Giêsu, chắc chắn theo nghĩa mạnh của việc “tin vào Người” (12,45; 14,9). Ông Philipphê, một môn đệ thường được Gioan nhắc đến (12 lần), làm người trung gian (như trong 1,45; 6,5). Sự môi giới của ông có liên quan gì đến tên Hy Lạp của ông không? Xuất thân từ một miền đất đa phần còn ngoại giáo, ông có khả năng nói tiếng Hy Lạp. Việc ông đi nói với ông Anrê (người cùng làng Betsaiđa với ông) càng tăng thêm tầm quan trọng của sự môi giới để đến gặp Chúa Giêsu.
Theo thói quen của mình, Gioan tăng nhiều chi tiết kể chuyện ở phần đầu bài trần thuật, như là để níu chân độc giả. Sau đó tất cả đều dừng lại: còn kết quả việc mấy người Hy Lạp gặp Chúa Giêsu như thế nào, chúng ta không biết gì hết. Từ nay thánh sử tập trung bài trần thuật của mình vào Chúa Giêsu.
Giờ (12, 23-26)
Giờ, còn trì trệ cho đến lúc này, cuối cùng đã đến. Việc anh Ladarô sống lại biểu hiện trước giờ này: việc mấy người Hy Lạp tìm đến tỏ rõ giờ được thực hiện. Các người Hy Lạp không được Chúa Giêsu trả lời trực tiếp. Người nói với các môn đệ và điều Người nói bao gồm trước hết các môn đệ được gọi sau này nên truyền đạt cho người ngoại giáo hiểu rằng trong cái chết của Chúa Giêsu, ơn cứu độ được mở rộng cho tất cả mọi người.
Sự mặc khải được long trọng nhấn mạnh bằng hai lần: “Thật, Thầy bảo thật anh em”. Giờ, vừa là sự chết vừa là sự tôn vinh. Để diễn tả từ sự phong phú từ cái chết của mình được mời gọi tiến đến vinh quang, Chúa Giêsu đi từ một dụ ngôn ngắn gọn, quen thuộc ở nơi thôn dã về hạt lúa cần phải mục nát đi để mang lại nhiều hoa trái. Sự tương phản mà Chúa Giêsu đưa ra, ở giữa chết hoặc sống ít hơn là ở giữa chết hay mang lại nhiều hoa trái. Cũng như hạt giống, Chúa Giêsu cần phải được gieo vào lòng đất, chết đi, nhờ đó mang lại hoa trái cho mọi người.
Cái chết của Chúa Giêsu không chỉ là một sự bắt buộc phải kinh qua để tiến đến vinh quang, mà còn là điều kiện để khai sinh và phát triển Giáo Hội. Cái chết của Chúa Giêsu quả là thời điểm kiến tạo con người Kitô hữu, bởi vì “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (12,26). Quả vậy các câu 25-26 nối kết cộng đoàn tín hữu vào với thân phận của Chúa Giêsu. Ai yêu quý mạng sống mình, theo ngôn ngữ của Gioan, là kẻ ưa thích sự tối tăm, thế gian này, sự vinh quang riêng mình.
Ở đây nữa vẫn là vấn đề đức tin, dù nó không rõ ràng như trong Nhất Lãm, ở đó nhấn mạnh mối tương quan với Chúa Giêsu: “Ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35). Tương quan với Chúa Giêsu được nêu rõ qua câu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy”. Môn đệ cần phải đi bất cứ nơi nào Chúa Giêsu đi, nghĩa là cũng như Người đi vào cái chết để dự phần vinh quang. Trong trường hợp này, Chúa Giêsu đã nói: “Cha Ta sẽ tôn vinh nó”.

GIỜ
Từ “giờ” được sử dụng 26 lần trong Tin Mừng của Gioan, thường thường ám chỉ một thời điểm đặc biệt thuận tiện trong đó ơn cứu độ được thực hiện. Xuyên suốt phần thứ nhất của Tin Mừng, giờ này còn chưa đến. Thân mẫu của Chúa Giêsu, khi muốn cậy nhờ đến con mình, được nghe trả lời rằng “Giờ của con chưa đến” (2,4). Việc tìm bắt Chúa Giêsu không thực hiện được cũng vì lý do đó (7,30; 8,20). Nhiều lần Chúa Giêsu tiên báo tình trạng sắp xảy ra vào một giờ mà từ đó mọi sự sẽ trở nên rõ ràng hơn (16,25). Việc thờ phượng sẽ ở trong Thần Khí (4,21-23), sự sống sẽ chiến thắng sự chết (5,25).
Sự hồi hộp được khéo léo khơi dậy khi, đối diện với những người ngoại giáo muốn gặp Người. Chúa Giêsu loan báo rằng cuối cùng giờ đã đến (12,23). Bước vào cuộc Thương Khó, Chúa Giêsu tuyên bố rằng cuối cùng giờ tôn vinh đã đến (13,1; 17,1). Dụng ngữ này cũng xuất hiện trong các Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 14,35.41). chỉ có mình Gioan đã gieo vãi xuyên suốt Tin Mừng của mình những quy chiếu vào một biến cố của lịch sử. Chúa Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá. Thời điểm này không thuộc vào niên đại kỷ. Một lần xảy ra, nó luôn luôn hiện thực và kéo dài hiệu quả nhằm lợi ích của tất cả những ai gắn bó với Lời.

Tâm trạng xao xuyến, tiếng từ trời và lời mặc khải (12, 27-36)
Giờ đang xảy đến cùng với sự chôn vùi trong cái chết, tất phải có sự kinh qua đau thương mà nỗi xao xuyến và sầu não không thể không có. Trong khi trình thuật cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, Gioan loại bỏ những gì quá chú ý của Người, như cơn hấp hối. Thế nhưng ông lưu giữ lại một vài yếu tố và phân tán chúng đây đó trong Tin Mừng của mình. Ở đây ông trích dẫn những từ ngữ và những dụng ngữ như nhắc lại sự xao xuyến của Chúa Giêsu, hoặc lời Người nói về Giờ: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”, cần xuất phát từ đó (ta có thể so sánh đoạn này với Mc 14,33-36). Việc Chúa Giêsu vâng phục Chúa Cha được đặc biệt nhấn mạnh và lời Người: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” vang dội như lời tóm tắt “kinh Lạy Cha” (không có trong Gioan). Chúa Giêsu là người đầu tiên, từ bỏ mình để lắng nghe Chúa Cha.
“Có tiếng từ trời vang xuống” (c. 28). Lần đầu tiên trong Gioan (trái với hai lần trong Nhất Lãm, vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa và biến hình, x. Lc 9,28-36), Chúa Cha lên tiếng nói cùng Chúa Con. Hơn nữa đoạn của Gioan không có liên quan gì đến biến cố biến hình ở đó sự biểu lộ vinh quang của Chúa Giêsu đi kèm với cuộc đối thoại về cuộc Xuất hành của Chúa Giêsu (nghĩa là cái chết của Người). Luca cũng nghĩ đến sự tiếp gần cơn hấp hối khi “một thiên sứ từ trời hiện đến tăng sức cho Người” (Lc 22,43). Trong cả hai trường hợp, có thể có những điểm giống nhau giữa hai truyền thống Tin Mừng. Thế nhưng Gioan hành xử cách sáng tạo, tuyển chọn và tái tạo các dữ kiện của truyền thống cho mục tiêu thần học của mình.
Do đặc tính duy nhất và vị trí ở vào cuối năm phần thứ nhất của Tin Mừng, sự can thiệp này của Chúa Cha xuất hiện như sự long trọng chứng thực của Chúa Cha về Chúa Giêsu như là Chúa Con và là Đấng Thiên Sai. Đó là cách phê chuẩn đầy vinh quang, được ban cho một phần ngay từ lúc này đây còn một phần nữa được hứa trong tương lai. Cuộc Thương Khó đối với Người quả là một thử thách đầy vinh quang.
7. Chú giải của Noel Quesson
Cũng như Chúa nhật trước, thánh Gioan đề nghị chúng ta suy niệm về thập giá.
Trong số những người lên Giêrusalem thờ phụng Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philipphê, người Bétsaiđa, miền Galilê, và thưa rằng: “Thưa ông chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu” .
Đây là Lễ Vượt Qua cuối cùng Đức Giêsu tham dự. Xét theo bản văn thánh Gioan, trang Tin Mừng mà ta đọc hôm nay, đi liền sau trình thuật tiến vào thành Giêrusalem vinh hiển của Đức Giêsu, ngày Lễ Lá. Sau sự thành công trước quần chúng trên đây, các người Pharisêu đã nói với nhau. "Các ông thấy không, các ông sẽ chẳng làm được gì hết . Hãy coi đó, thiên hạ bắt đầu theo hắn cả rồi!". Nhận xét của nhóm Pharisêu được minh chứng ngay, qua sự kiện những người "Hy Lạp”, xa lạ nhưng lại có thiện cảm với dân tộc Do Thái, đến xin "gặp" Đức Giêsu. Như thế, đang khi những người quyết định giết hại Người, cố gắng xiết gọng kìm và bầu khí chống đối của nhóm Pharisêu đang trở nên nặng nề, thì đột nhiên, vào đầu tuần lễ cuối cùng của Người tại dương thế, Đức Giêsu có thể nhìn thấy sứ vụ cứu độ của Người đang bành trướng rộng khắp.
Những người "Hy Lạp" này đang báo trước, các dân ngoại sẽ gia nhập Giáo Hội, và thực ra công cuộc cứu độ đang lan rộng, vượt qua ranh giới của Israel: Đức Giêsu sắp nói, Người nhìn thấy cái chết của Người sẽ mang lại sự phong phú phi thường như thế nào! "nó mang lại nhiều hoa trái"; "Nó lôi cuốn mọi người". Chúng ta lưu ý thêm, những người nước ngoài đang trao đổi với Philipphê. Ong này mang một tên gọi Hy Lạp ông xuất thân từ Bétsaiđa (miền vãng lai, có nhiều người nước ngoài cư trú!). Ong Philipphê này hẳn là biết được một ít tiếng Hy Lạp đủ để ông tiếp xúc trao đổi. Chúng ta có chú ý đến những người xa lạ, để hướng dẫn họ đến với Đức Giêsu không?
Đức Giêsu trả lời: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh".
Chúng ta có thể chấp nhận lời mạc khải đó không?
“Giờ của Đức Giêsu”, đó là giờ thập giá của Người: Và cũng chính là giờ vinh quang của Người? Thật là đáng tiếc, chúng ta vẫn tiếp tục chờ đợi một giờ khác, một biểu lộ khác của Thiên Chúa. Ta cần phải thú nhận rằng, chúng ta thường mơ tưởng một thứ vinh quang khác cho Thiên Chúa cũng như cho chúng ta. Thế mà, Đức Giêsu cứ lập lại cho ta: "Này đây, giờ đã đến" (Ga 12,23.27-31). Cho tới lúc này, giờ đó chưa đến, nhưng Đức Giêsu thường nói về giờ đó (Ga 2,4; 4,21-23; 5,25; 7,30; 8,20). Giờ "ưu việt" đó chính là giờ thập giá: Giờ "tôn vinh" Chúa Cha và Chúa Con (Ga 23-28); giờ "xét xử và cứu độ" thế gian (Ga 13, 1-2). Một vài ngày nữa, Đức Giêsu sẽ bước vào Cuộc Thụ Khổ của Người.
Bề ngoài, hình như Đức Giêsu không lạ việc các người “Hy Lạp" đến xin "gặp" Người. Nhưng thật sự, Người đã thỏa mãn ước muốn của họ: "Đã đến giờ Con Người sắp được tôn vinh"; ‘giờ cho tôi gặp Người’ tới gần; giờ giúp ta nhận ra Thiên Chúa. Ta không thể gặp được Thiên Chúa, Đức Giêsu, dưới ánh sáng nào khác, ngoài ánh sáng của thập giá: Đó là giờ của tình yêu tuyệt đối. Lạy Chúa, xin giúp con biết nhìn lên thập giá, luôn chiêm ngắm thập giá: Đó là giờ mạc khải quan trọng nhất về Thiên Chúa. Tất cả những gì triết gia bàn đến, tất cả những gì các tôn giáo dò dẫm kiếm tìm, thì không đáng kể gì và chưa đủ: "Và đây xuất hiện thập giá". Vượt qua những lời nói, những suy luận, tôi hãy chiêm ngắm những hình ảnh đó, "hình tướng" về Thiên Chúa.
Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.
Vâng, giờ của Đức Giêsu, chính là giờ "chết” của Người, nhưng cũng đồng thời là giờ sự sống của Người, được nhân thừa lên. Đức Giêsu sắp ở một mình trên thập giá. Nhưng trên đó, một cách vô hình Người đang được bao quanh bởi hàng tỷ người nam nữ được cứu độ, nhờ sự hy sinh của Người. Con người thuộc mọi thời đại, thuộc mọi nền văn hoá minh tinh màn bạc về cái chết và cố khám phá ra mầu nhiệm của nó. Còn Đức Giêsu, qua một câu nói hoàn toàn đơn giản trên đây, Người đã nói cho ta niềm xác tín riêng của Người. Người không lý luận. Một cách đầy hiện thực. Người nói, Người đương đầu trước cái chết như thế nào: Đó là cách gieo hạt giống. Suốt mùa đông dài hạt giống bị vùi sâu trong lòng đất tưởng như chết mục, bỗng đâu mùa xuân đến nó đã mọc cao và trở thành bông lúa trĩu hạt trong một vài tuần sau, hứa hẹn một mùa gặt phong phú. Đức Giêsu đã nhìn thấy mùa gặt.
Ai quý trọng mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống đời đời.
Như thế theo Đức Giêsu, cần phải chết đi để có sự sống đích thực! Và Người không nói điều gì, chỉ vì thích diễn tả nghịch lý. Nhưng trong một kiểu nói bí ẩn, Người cố gắng gợi lên cho ta một chân lý không tất nhiên rõ ràng, nhưng hiển nhiên cho mọi tâm hồn yêu mến: Cái chết thật không phải là cái chết thể lý, nhưng là sự từ chối hiến thân, là tự đóng kín nơi mình không mở rộng đến kẻ khác! Để bước vào sự sống đích thực, cần phải chết đi. Đó là điều Thiên Chúa thể hiện vì chúng ta; bởi vì Người là “Tình yêu tuyệt đối”. Người mất mạng sống vì chúng ta! Luật của đời sống, là tình yêu; một hạt lúa nhỏ nhất cũng nhắc cho ta điều đó.
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi tính vị kỷ khô cằn mà có khi chúng con đã gọi là “sống” cuộc đời mình. Xin dạy chúng con biết hiến mạng sống như Chúa.
Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy và Thầy ở đâu, kẻ phục Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy.
Cuộc phiêu lưu của hạt lúa mì, lúc đầu không đáng kể gì nhưng tới mùa gặt mang kết quả dồi dào phong phú: Đó là cuộc phiêu lưu của nước Thiên Chúa (Mc 4,1-20).
Nhưng đối với thánh Gioan, tất cả mầu nhiệm của nước Thiên Chúa đều tâp trung nơi con người Đức Giêsu: Cuộc phiêu lưu của hạt lúa chìm ẩn dưới lòng đất, để lại mọc lên thành cây, cũng là cuộc phiêu lưu của Đức Giêsu, chịu chết để sinh sản ra nhiều hoa trái.
Nhưng cuộc phiêu lưu đó không chỉ có Đức Giêsu thực hiện, nó còn được trao ủy cho chúng ta. Chính trong cuộc sống mạo hiểm này, Đức Giêsu đã được vinh quang của Người, vinh quang của tình yêu “phục vụ” đến cùng, thì chúng ta cũng có thể sống cuộc mạo hiểm đó. Số phận của “hạt lúa” cũng trở nên số phận của chúng ta: Chết đi để mang lại hoa trái: “Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ ban cho họ vinh quang”.
Rồi Đức Giêsu thưa cùng với Chúa Cha: “Bây giờ tâm hồn con xao xuyến. Con biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”.
Niềm xác tín vào hiệu quả phong phú nhờ sự hy sinh của mình, không tránh cho Đức Giêsu khỏi phải cảm nghiệm sự lo âu trước cái chết. Tư tưởng về số phận hạt lúa chết đi để sống lại, đã làm Đức Giêsu thổn thức không nguôi. Vào những thời điểm khác, ba thánh sử kia đều nói cho ta biết rằng Đức Giêsu bị “thử thách” muốn sử dụng thần tính của mình để khỏi phải chấp nhận thân phận con người: Đó là cơn cám dỗ lúc đầu đời công khai của Chúa. Tại hoang địa (Mt 4,11), đó là cơn cám dỗ lúc Chúa hấp hối ở vườn cây Dầu (Mc 14,32). Nhưng trước mỗi cơn thử thách, Đức Giêsu đều kiên quyết thoát khỏi để luôn trung thành với Chúa Cha trọn tình con thảo. Cũng như Đức Giêsu, chúng ta có thể phải giao động trước nỗi khổ đau.
Nhưng không, chính vì giờ này mà Con đã đến đây, lạy Cha, xin tôn vinh Cha.
Đối với chúng ta cũng vậy, việc tuân phục đức tin hệ tại thái hộ chấp nhận thân phận con người phải chết của chúng ta, và gán cho nó một ý nghĩa dưới ánh sáng Cuộc Thụ Khổ và vinh quang của Đức Giêsu: Chết đi để trao ban hoa trái. Thư gửi tín hữu Do Thái, mà ta đọc Chúa nhật hôm nay, cũng cho rằng thái độ vâng phục của Đức Giêsu đã tạo cho cái chết của Người có một ý nghĩa sâu sắc: ”Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà vâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Thiên Chúa đã nhận lời Người, vì Người đã tôn kính Thiên Chúa. Dầu là con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, và khi chính bản thân tới lúc thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho những ai tùng phục Người (Dt 5, 7-9).
Cái chết vẫn là một sự dữ. Đau khổ vẫn còn là một sự dữ. Và Đức Giêsu không phải mất công trả lời những vấn nạn thuộc phạm vi triết học mà là vấn đề về sự ác đặt ra. Một cách đơn giản, Người đón nhận cái chết như một sự vâng phục thân phận làm người, vì tình yêu. Và như thế, Người đã thay đổi ý nghĩa của cái chết.
Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”.
Thánh Gioan không thuận lại cuộc Biến Hình, cũng như bất cứ một cuộc Thần hiện vinh quang nào. Đối với ông, như ta đã thấy Chúa Nhật vừa qua, thì “Giờ của thập giá” là giờ Vinh Quang. Trên Thập Giá Người được “giương cao”, nghĩa là vừa “bị đóng đinh”, vừa “được tôn dương”: Loài người làm việc thứ nhất, còn Thiên Chúa thực hiện thứ hai.
Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài .
Đó là hai mặt của cùng một thực tại: “Phán xét” và “Cứu độ”.
Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi. Đức Giêsu nói thế để ám chỉ Người phải chết cách nào.
Đó là lúc sự dữ bị đánh bại, “thủ lãnh của thế gian này” bị tống ra ngoài, và con người được cứu độ! Phải, chính thập giá đã tạo nên một sự hấp dẫn mới, lôi cuốn mọi người! Đó là lời nói mầu nhiệm, cần phải đón nhận trong đức tin và chúng ta phải tạ ơn vì lời nói đó. Cuối cùng đó cũng là cách trả lời đích thực cho những người “Hy Lạp” đã xin “gặp gỡ “ Đức Giêsu. Lời nói này là một trong những lời nói cuồi cùng mà Đức Giêsu đã thốt ra trong thời gian thử thách sứ vụ cách công khai của Người. Và không ai đã hiểu lời đó (Ga 12,34). Thánh Gioan tường thuật tiếp: Lúc đó “Đức Giêsu lánh đi, không cho họ thấy” (Ga 12,36). Người không còn gì để nói nữa.
8. Chú giải của Fiches Dominicales
CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊSU
SINH NHIỀU HOA TRÁI TỐT ĐẸP…
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Dân ngoại tiến đến
Bài Phúc âm Chúng ta đọc hôm nay nằm trong chương bản nối hai chủ đề lớn của Sách Tin Mừng Gioan: chủ đề "những dấu chỉ” (từ phép lạ Cana cho đến phép lạ Lagiarô sống lại) và chủ đề "Giờ của Chúa" (tức là cuộc khổ nạn, chết và sống lại).
Đức Giêsu đã long trọng tiến vào thành đô Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua lần cuối cùng mà cũng sẽ là chuyến từ giã thế gian này mà về cùng Cha Người.
Trong khuôn viền Đền thờ, "có mấy người Hy lạp" muốn tìm gặp Chúa. Họ không phải là những người Do thái nói tiếng Hy Lạp nhưng là dân ngoại có cảm tình với Do Thái giáo. Họ lên Giêrusalem thờ phụng Thiên Chúa dịp lễ Vượt Qua? Việc họ tìm đến với Chúa mang giá trị biểu tượng: là dấu chỉ báo trước sự lên đường của những người thuộc muôn dân sẽ đến với Đức Kitô sau này, là dấu chỉ loan báo giờ ơn cứu độ ban tặng cho hết thảy mọi người đã điểm.
Họ tìm "gặp Đức Giêsu”, không phải chỉ để trông thấy Người mà thôi, muốn vậy họ đâu cần nhờ đến ai. Nhưng họ muốn gặp để chuyện trò với Người, để đàm đạo với Người. Họ đang trên con đường đức tin rồi đấy.
Họ "lại gần ông Philipphê”, chắc bụng vì ông này với cái tên Hy Lạp, sinh trưởng ở một vùng đông dân ngoại nói tiếng Hy Lạp có thể giúp làm môi giới cho họ được.
"Ông Philipphê đi nói với ông Anrê" cùng sinh trưởng như ở ông Bétsaiđa và cũng mang tên Hy lạp như ông.
”Và hai Ông đến thưa với Đức Giêsu”. Như vậy, cũng giống như ở 1, 35-51 (Phúc âm Chủ nhật 2 Thường niên) Gioan, một lần nữa, nêu bật tầm quan trọng trong vai trò môi giới của con người giúp đi đến với Đức Giêsu.
2) Dấu chỉ loan báo giờ của Chúa
Thay cho câu trả lời, Đức Giêsu tuyên bố: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh? Giờ mà việc hồi sinh của Ladarô đã báo trước Giờ báo hiệu những người Hy lạp tìm đến đã gần kề: đó là giờ Chết-Sống Lại của Đức Giêsu sẽ mở ra cho mọi người ơn cứu độ.
Để diễn tả cái chết sắp tới của mình là nguồn ơn phong phú đem lại muôn vàn hoa trái, Đức Giêsu nhập đề cách trịnh trọng: “Thật Thầy bảo thật anh em" cho một dụ ngôn nhỏ mà giới nhà nông hiểu dễ dàng: dụ ngôn hạt lúa mì với hai ý đối chọi nhau "trơ trọi một mình" và "sinh được nhiều hạt". Để có thể sinh nhiều bông hạt, hạt lúa mì nhất thiết phải chết đi: đó là quy luật của sự sống. Đối với Đức Giêsu cũng vậy: cái chết của Người là quá trình bắt buộc để Người tiến vào vinh quang, là điều kiện để Hội Thánh được sinh ra, nhân lên gấp bội. Với các môn đệ Chúa cũng sẽ như vậy thôi: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất, Chúa Giêsu nói tiếp, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”.
X. Léon-Dufour quảng giải thêm: "Cuộc sống có thể được coi như là "của tôi”, và tôi có thể dập tắt đi hay giữ nó lại như thể sự tồn tại hay tàn lụi của nó là tuỳ ở tôi, cái báu vật duy nhất cần phải bảo vệ bằng mọi giá ấy, cái tài sản chỉ tuỳ thuộc vào tôi ấy. Nếu thế cuộc sống sẽ như giòng nước đang chảy xiết sẽ vuột khỏi tay tôi, khi tôi cố giữ nó lại mà không chế ngự được dòng chảy của nó. Ngược lại nếu tôi không cố bám víu vào cuộc sống này, nếu tôi chấp nhận mở ra với AI đó, cũng là chết đi cho những gì khiến tôi co cụm lại, thì này đây sự "chết" ấy không có gì khác là một sự “xuất thần”, và một khi cuộc sống tôi mở ra như thế sẽ giữ lại được như lời Chúa nói, cho sự sống đời đời". Như ta biết theo thánh Gioan, sự sống đời đời là sự hiệp thông với chính Thiên Chúa vậy" (Lecture de l'evangile selon Jean", quyển II, Seuil, trang 464).
3) Giờ chôn vùi xuống cũng là giờ nâng cao lên.
Vẻ nghịch lý mà từ đầu trình thuật vốn nối kết giờ chết với giờ vinh hiển, còn diễn ra ở phần hai. Trong phần này, Gioan chỉ mượn và sử dụng theo chủ đích của mình một số yếu tố trong những câu chuyện kể lại trong Phúc âm nhất lãm như: một bên là cảnh Chúa hấp hối trong vướng Giếtsêmani, và bên kia là sự kiện Chúa Hiển dung trên núi Taborê.
Thực vậy, Gioan sẽ không tường thuật lại cơn hấp hối của Đức Giêsu, nhưng ở đấy Gioan có ý báo trước rằng Giờ bị chôn vùi trong sự chết đang đến, giờ ấy sẽ phải là một quá trình đau thương mà nỗi xao xuyến và buồn sầu sẽ choán hết. Thế nên lời "Thầy xao xuyến" cũng như lời nguyện cùng Cha "Lạy Chúa, xin cứu con khỏi giờ này" được tiếp theo ngay bằng tâm tình hoàn toàn phó thác nơi Cha của Người: "Nhưng không, chính vì Giờ này mà Con đã đến! Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha!”. Một kinh nguyện, như A. Marchadour nhận xét: vùng lên như một bản tóm lược "kinh Lạy Cha" vậy (kinh này không có trong Tin Mừng Gioan). Đức Giêsu quả là người đầu tiên từ bỏ chính mình để vâng nghe lời Chúa Cha" (O.C. trang 169) .
Gioan cũng chẳng kể lại câu chuyện ‘Chúa Hiển Dung’, nhưng ở đây ngài nhắc đến "có tiếng phán từ trời”. Một tiếng nói mà những người chứng kiến giải thích khác nhau: Người thì cho rằng "đó là tiếng sấm”, người khác lại bảo: “Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy”. Tiếng nói đó tuyên bố cho mọi người biết rằng lời Đức Giêsu cầu xin cũng như việc dâng hiến mạng sống Người đã được Chúa Cha đoái nghe và đón nhận, sẽ sinh nhiều hoa trái. Tác giả kết luận: "Bởi tính chất độc đáo của sự việc, lại nằm cuối phần thứ nhất của sách Tin Mừng, nên sự can thiệp này của Chúa Cha coi như Đức Giêsu được Cha Người long trọng xác nhận là Con và là đang được sai đi. Đó là một sự phê chuẩn có tính tôn vinh một phần cho lúc này, một phần hứa cho tương lai. Cuộc khổ nạn đối với Đức Giêsu đúng là một thử thách vinh quang vậy" (idem).
Buổi đầu khi thi hành sứ vụ, ở Cana, Đức Giêsu đã nói với Mẹ Người rằng: "Giờ Con chưa đến", thế mà Người cũng "đã tỏ vinh quang" Người cho các môn đệ. Giờ đây, "Giờ đã đến" lúc vinh quang này sẽ được tỏ ra trên khắp thế giới. "Khi làm những dấu lạ đầu tiên” ở Cana, các môn đệ "đã tin vào Người? Từ nay khi được “giương cao lên khỏi đất”, một kiểu nói ám chỉ cùng một trật, Người sẽ phải chết cách nào và được Chúa Cha đem lên vinh quang, Đức Giêsu sẽ "kéo mọi người lên theo với Người" và sẽ mở cho họ con đường đến với Chúa Cha.
X. Léon Dufour hỏi để kết luận Đức Giêsu có đã đáp ứng lòng mong đợi của những người Hy lạp muốn "gặp" Người không?
Không có lời đối đáp nào được kể lại, ông trả lời, thế nhưng bài diễn từ đã cho thấy rằng muốn gặp Đức Giêsu, thì ta phải hướng mắt nhìn lên Đấng-bị-đóng-đinh-được-tôn-vinh. Nói một cách tổng quát, ta đã được tỏ cho biết rằng, người ta chỉ có thể đến với Đức Giêsu tại thế, nhờ nhận ra Đức Giêsu được nâng lên cao, có nghĩa là mọi nhận thức, mỗi cái nhìn về Đức Giêsu khi Người chưa được tôn vinh đều là không đầy đủ, nếu không nói là ảo tưởng. Ý nghĩa cuộc đời trần thế của ta cũng được soi sáng từ đó: chính bằng cách mở lòng ta ra với Lời và những đòi hỏi quyết liệt của Người, vượt thắng khuynh hướng muốn hoàn toàn tự lập, mà người ta tiến đến “sự sống". Đi theo Đức Giêsu là phải có tinh thần phục vụ. Phục vụ cốt tại ở cái gì, thì bài diễn từ giã biệt sẽ nói cho ta hay. Điều cốt yếu là để cho Chúa Con lôi kéo ta đi. (O.C. trang 478).

BÀI ĐỌC THÊM.
1) "Người thời nay mải mê với những vấn đề căn bản"
(Các Giám mục Pháp, trong trình bày đức tin trong xã hội hiện nay. Thư gởi các tín hữu Pháp. Cerf, trang 40-41).
"Nhiều dấu chỉ cho thấy rằng người thời nay nếu không đang đi tìm tòi những điều cốt lõi, thì cũng đang mải mê với những vấn đề căn bản, như: Kinh nghiệm yêu thương trong thời điểm nóng bỏng của Sida, ý nghĩa của hiện hữu con người, nhất là khi cuộc sống bị thử thách, đâu là cái giá của nhân vị con người đứng trước vô vàn những vận dụng kỹ thuật hay kinh tế mà đối tượng là nhân vị con người.
Sẽ không có cơ may đối thoại với người thời nay nếu chúng ta không phải là những người có đầu óc cấp tiến. Vậy chúng ta có điều cốt lõi nào để trao đổi với người ta?
Phải xuất phát từ đòi hỏi đi đến cốt lõi ân ban của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, mới hiểu được điều chúng tôi gọi là đề nghị đức tin trong xã hội hiện nay.
Chúng tôi không có tham vọng trình bày điều gì mới lạ, mà: chỉ muốn nhìn nhận những điều kiện mới mà ta phải sống và loan báo Tin Mừng. Trong những điều kiện mới này, mặc dầu vẫn là những người có quyền thụ hưởng gia sản mà ta đã lãnh nhận, ta phải trở thành những "người đề nghị" đức tin. Để đạt mục đích đó, chính chúng ta đều được mời gọi phô diễn sự mới lạ của ân huệ Thiên Chúa, như được tỏ ra trong Đức Giêsu Kitô, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Bởi vậy hai điều không thể tách biệt nhau là ta vừa phải chửng tỏ tính thời sự của mầu nhiệm đức tin, vừa phải tạo nên một Hội Thánh rao giảng Tin Mủng bằng cách sống mầu nhiệm ấy và bằng cách đáp lại lời mời gọi của Chúa mình: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5, 16).
2) Phục vụ đời sống con người theo cách thế của Đức Giêsu, người Tôi Tớ (idem trang 95-96).
Không thể cử hành mầu nhiệm đức tin đúng theo chân lý, nếu chỉ quan tâm đến hành vi phụng tự. Bởi lẽ Thiên Chúa cứu độ đến với ta trong Đức Giêsu Kitô đã đồng hoá mình với người nghèo khổ và kẻ bé mọn. Vì thế có một mối tương quan không thể tách rời giữa phượng tự Kitô giáo và đời sống con người, không gì mong manh và bị de doạ hơn đời sống ấy. Ta không thế phục vụ và yêu mến Thiên Chúa Đấng ta không trông thấy mà lại không tôn kính Người hiện diện trong những anh em hẩm hiu nhất của ta. Tác vụ của các phó tế đặc biệt nhắc nhở ta mối tương quan cơ bản này, tương quan giữa việc phục vụ Thiên Chúa và phục vụ con người.
Giới Công giáo Pháp hôm nay có sự quan tâm đặc biệt đối với những người nghèo và người bị loại trừ được coi như "bí tích của Đức Kitô”. Sự quan tâm có tính Tin Mừng này khơi gợi nên rất nhiều dấn thân cá nhân cũng như cộng đoàn. Những con người đang bắt tay vào việc được tăng thêm xác tín rằng họ đang chu toàn ơn gợi Kitô hữu và đang rao giảng Tin Mừng bằng cách phục vụ con người như thế.
Để tôn vinh sứ mạng cao cả này, Hội Thánh đang tìm cách gởi những thành viên có những hoàn cảnh sống cụ thể, khuyến khích họ nhận lãnh trách nhiệm đối với giới được uỷ thác cho họ, giúp họ biết sống tinh thần liên đới và sáng kiến cần có theo tinh thần ấy. Để làm công việc này, các phong trào, đặc biệt là phong trào Công giáo Tiến hành đều phải chuẩn bị cho các thành viên của mình biết sống và hành động theo tinh thần Tin Mừng khi họ phải chăm lo cho đời sống cá nhân và xã hội của con người, giúp họ gây một ảnh hưởng tập thể trên nếp sống của con người.
Cùng lúc đó, Hội Thánh cũng sử dụng những phương tiện của riêng mình để khơi gợi, nâng đỡ và ngay cả điều phối hoạt động của giới công giáo trong việc phục vụ cộng đồng nhân loại, nhờ vào các cơ quan như Tổ chức Cứu trợ Công giáo (secours Catholique) hoặc CCFD (tổ chức chống đói và giúp phát triển), cũng nhờ vào những tổ chức y tế và học đường hoặc những phong trào giáo dục và từ thiện nữa.
4) Sức năng động của lời Chúa
(Kỷ yếu của CCFD)
Ngày nay ở Pháp cũng như trên toàn thế giới, người ta nhận thấy LỜI CHÚA có tính năng động và khả năng biến đổi lòng người.
Lời Chúa mở rộng trí khôn để biết phải hành động ở đâu và thế nào hầu giúp cho các xã hội được công bằng hơn (lấy các dự án-đèn pha làm thí dụ).
Lời Chúa giải phóng óc sáng tạo để tìm ra những con đường mới (cứ nhìn vào con số những hiệp hội được thành lập mỗi năm). Điều này không phải không gặp trắc trở khó khăn trong một số quốc gia.
Lời Chúa kích thích những con người mà người ta nghĩ là quá nghèo và trình độ quá kém, biết đảm nhận lấy những trách nhiệm. Mọi người đều không biết rằng tính năng động kia, sự phát triển kia, và tinh thần liên đới ấy đều xuất phát từ Đấng là “chủ tể của thế gian này đã bị ném ra ngoài”. Họ vui sướng hành động, nhưng không nhận ra Đấng ban sự sống. Họ hân hoan hoạt động cho sự hoà giải, nhưng lại không biết gì về Mầu nhiệm Thập giá.
Hiệp cùng với các anh em dự tòng; những người đã nhận ra Đấng đang lôi kéo mọi người đến với Ngài, Đấng đang khắc ghi lề luật của Ngài vào đáy lòng người, Đấng hứa cho những tôi tớ Ngài sẽ được ở bên cạnh Ngài, chúng ta hãy cảm tạ vì đức tin đã được lãnh nhận và vì những tấm lòng đang rộng mở. Trong bánh và rượu đã kết hợp lao công, đau khổ và sướng vui của mọi người. Quyền năng Chúa Thánh Thần đang tác động trên lễ vật của chúng ta như Người đang tác động trên khắp thế giới, đó là: thánh hoá mọi sự, quy tụ dân Người, ban sự sống và biến chúng ta thành của lễ thực sự làm vinh danh Chúa (xem PE số 3).
9. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚA GIÊSU LOAN BÁO NGƯỜI SẼ
ĐƯỢC TÔN VINH NHỜ CÁI CHẾT
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Ai ghét sự sống mình nơi thế gian này": Có lẽ phải dịch như bản TOB: ai thôi bám chặt sự sống mình đời này. Vì theo cách nói sêmita, động từ đùng ở đây, khi đối lại với chữ yêu, thì thường có nghĩa là yêu mến ít hơn, là không xem như một giá trị tuyệt đối (St 29,31-33; Đnl 21,15; Mt 6,24; Lc 16,13; 14,26).
"Ta đã tôn vinh Danh Ta và sẽ còn tôn vinh nữa": Chữ “tôn vinh" thứ nhất ở đây quy về các "dấu chỉ" Chúa Giêsu đã thực hiện để làm chứng cho Chúa Cha. Chữ "tôn vinh" thứ hai ám chỉ đến cái chết và việc giương cao Chúa Giêsu (vì tôn vinh Ngài trong chính mình).
“Dân chúng bảo đó là một tiếng sấm": Khó mà hiểu được tại sao một tiếng nói lại có thể phát ra vì lợi ích của những kẻ đã không hiểu nó cũng như không biết ai đã nói ra nó ("tiếng ấy phát ra không phải vì Ta mà vì các ngươi"). Có thể Gioan đã nghĩ đến một nhóm thứ ba (các môn đồ chẳng hạn) là những người, trong thực tế, đã nhận ra được nguồn gốc và ý nghĩa của tiếng nói trên.
"Chính bây giờ là cuộc phán xét thế gian này": Giờ của Chúa Giêsu đánh dấu một giai đoạn quan trọng và quyết định đối với toàn thể nhân loại. Cuộc sáng tạo cũ đến đây chấm dứt, cuộc sáng tạo mới bắt đầu (Việc đi từ cuộc sáng tạo cũ sang sáng tạo mới không phải và một hiện tượng vật lý đơn thuần, nhưng là một sự tiến triển luân lý và thiêng liêng). Số phận mỗi người tùy thuộc vào biến cố này và vào việc người ta có chấp nhận nó bằng đức tin hay không. Giờ Chúa Giêsu là giờ phán xét (krisis), giờ phân chia: ai từ chối Chúa Giêsu vào "giờ” này thì bị liệt vào phe của "đầu mục thế gian", đối thủ lợi hại của Chúa Giêsu, và bị luận phạt như nó (x. 3,18).
"Chính bây giờ đầu mục thế gian này sẽ bị đuổi ra ngoài": Chúa Giêsu nói đến Satan như nói đến một bạo chúa thất trận, bị truất phế. Nhiều bản văn mà một số có nguồn gốc Kitô giáo (Ep 2,2; 6,12) đồng ý gán cho Satan tước hiệu "đầu mục thế gian này". Các giáo sĩ cũng gọi nó là "sar ha olam”
Chính ma quỷ gán cho mình quyền thống trị trên mọi sự "thế gian" (Mt 4,9). Khi nói như thế, nó chỉ khoe khoang hão, tuy nhiên hãy biết rằng trong Tin Mừng, tội nhân bị gọi là tội và ngay cả con cái của nó (Ga 8,34.44; Cv 8,10), rằng Thiên Chúa đã đặt nó thi hành các việc công lý của Ngài (Mt 5,25-26; G 2,6; Dcr 5,5), rằng kinh nghiệm xưa nay cho thấy ma quỷ rất khéo léo trong việc phỉnh gạt, làm khổ nhân loại. "Và Ta, một khi Ta được giương cao khỏi đất": Hãy so sánh với lối chơi chữ của St 40,13 và St 40,19 về chữ "nâng đầu lên": đầu của viên chánh chước tửu sẽ "được nâng lên cao" và ông sẽ được ân xá; còn đầu của viên chánh ngự thiện cũng "được nâng lên cao" nhưng ông ta sẽ bị treo cổ. Trong Is 52, 13 thì bảo người Tôi tớ Gioan "được nhắc cao" và "được tôn dương". Có lẽ đây là nguồn gốc chữ "được tôn vinh" và “được giương cao" trong Gioan.
KẾT LUẬN
Trong đoạn này, chính “giờ" của Chúa Giêsu là trọng tâm xét trên bình diện lịch sử lẫn thần học. Về phương diện Kitô học, "giờ" này đánh dấu việc Ngôi Lời nhập thể hoàn tất sứ mệnh mặc khải và cứu chuộc thế gian. Nó đặc trưng tất cả cuộc đời Chúa Kitô, vốn luôn quy hướng về nó. Vì chính lúc bấy giờ xảy ra cuộc "phán xét" (krisis) nhân loại, xảy ra sự phân chia (krisml) những kẻ tin hay từ chối tin mầu nhiệm Chúa Kitô tử nạn và được tôn vinh. Ai tin thì được cứu rỗi và được sống, còn ai từ chối tin thì bị luận phạt và phải chết muôn đời.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu thường nói đến "giờ" của Người. Đó là lúc người đạt đến cao điểm sứ mệnh cứu chuộc, tức là Chết và Phục sinh. Không nên tách rời hai yếu tố này. Cái chết là cuộc vượt qua cần thiết do tình yêu đòi hỏi, nhưng sự phục sinh sẽ ban cho nó một ý nghĩa khi tôn dương và làm nẩy sinh sự sống. Giờ Chúa Giêsu vừa là thứ Sáu thánh vừa là Chúa nhật phục sinh, và giờ này hôm nay cứu tiếp tục trong mỗi Kitô hữu là con người vừa chịu đựng đinh vừa được sống lại.
2) Ở đây Chúa Giêsu lợi dụng dịp vài người ngoại giáo đến gặp để nói đến giờ của Người. Lương dân “Hy lạp" này là những kẻ có cảm tình với đạo Do thái. Họ hành hương đến Giêrusalem dù không phải là con dân Abraham. Chúa Giêsu bảo Giờ của người, nghĩa là ơn cứu chuộc, cũng liên hệ tới họ. Liên hệ như thế nào? Người giải thích bằng cách đưa ra hình ảnh hạt lúa mì chết đi trong lòng đất và mọc lên sai hoa lắm quả. Hạt lúa mì mục nát chính là Người. Các hạt sinh sôi là tất cả mọi dân tộc, tất cả loài người, tất cả "lương dân" sẽ trở thành tín hữu.
3) Mọi Kitô hữu đều được mời gọi sống Giờ của Chúa Giêsu. Cần lưu ý là trong bản văn thánh Gioan, các chữ "vinh quang" và "sự chết" rất gần nhau và hầu như được liên kết với nhau. Điều này cho thấy hai điểm. Trước hết Kitô hữu phải biết tiêu diệt trong mình những gì chống lại với sự sống đích thực. Phép rửa của họ đưa họ vào mầu nhiệm chết. Họ không thể ở trên Thầy của họ. Họ phải chết về phương diện thể lý, nhưng cũng phải vượt qua bằng một cái chết thiêng liêng: cái chết này gọi là sự từ bỏ chính mình. Nhưng phải chăng vì thế mà họ phải tỏ ra khắc khổ và buồn bực? Không, vì họ còn phải sống mầu nhiệm phục sinh, tôn vinh, một mầu nhiệm vui tươi của sự từ bỏ của Kitô hữu chỉ có ý nghĩa trong sự kết hiệp với cái chết và phục sinh của Chúa Kitô cùng bắt chước Người. Thế mà Chúa Kitô, trong giờ của Người, đã sống thực sự đau khổ và hiển vinh cùng một lúc. Nên Kitô hữu, người của từ bỏ, phải đồng thời là người của sự vui mừng thiêng liêng.
4) Cũng như Thầy mình, mỗi Kitô hữu đều được kêu lời trở nên hạt lúa gieo vào lòng đất. Điều này liên hệ tới phần của họ trong việc cứu rỗi thế giới. Dù có được kêu gọi hoạt động bên ngoài hay không, thì mỗi Kitô hữu, qua việc kết hợp với Chúa Kitô đều có ơn gọi tham gia vào việc cứu rỗi anh chị em mình. Nếu không thể hoạt động bên ngoài, thì họ hãy ấp ủ tư tưởng phấn khích này là: việc âm thầm dâng lời cầu nguyện, đau khổ, cái chết, trong sự kết hiệp với Chúa Giêsu cũng có khả năng cứu rỗi nhiều người. Nếu có sự hoạt động, họ phải nhớ rằng hiệu năng hành động của họ trước tiên tùy thuộc việc họ hiệp thông vào kinh nguyện và khổ giá Chúa Giêsu.
5) Chúa Kitô đã chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc khổ nạn để trở nên bánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi ta trong bí tích Thánh Thể nhiệm mầu. Chúng ta hãy mau mắn đến bàn tiệc rước lấy Mình Thánh Chúa để được tăng thêm sự sống của Người, để Người biến đổi ta nên thân xác Người, hầu một ngày nào đó ta có thể nói: "Không phải tôi sống, nhưng chính Chúa Kitô sống trong tôi".

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét