ĐIỀU RĂN ĐỨNG ĐẦU (Máccô 12,28-34 – CN XXXI TN - B)
Tình yêu trước tiên không phải là một tình cảm, một cảm xúc của con người, nhưng là tất cả bản thân chúng ta hiến dâng lên Thiên Chúa cùng với các sức lực và khả năng.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
1.- Ngữ cảnh
Giống như trong Mc 2,1–3,6, phân đoạn 11,27–12,37 này có năm truyện kể lại những tranh luận giữa Đức Giêsu với các đối thủ tại Giêrusalem: quyền của Đức Giêsu (11,27-33); dụ ngôn về vườn nho (12,1-12); nộp thuế cho Xêda (12,13-17); kẻ chết sống lại (12,18-27) và điều răn đứng đầu (12,28-34). Còn câu hỏi của Đức Giêsu về con vua Đavít (12,35-37) không còn là một tranh luận nữa, mà là một vấn đề Người nêu ra để gián tiếp giới thiệu về bản thân Ngài.
Giống như trong Mc 2,1–3,6, phân đoạn 11,27–12,37 này có năm truyện kể lại những tranh luận giữa Đức Giêsu với các đối thủ tại Giêrusalem: quyền của Đức Giêsu (11,27-33); dụ ngôn về vườn nho (12,1-12); nộp thuế cho Xêda (12,13-17); kẻ chết sống lại (12,18-27) và điều răn đứng đầu (12,28-34). Còn câu hỏi của Đức Giêsu về con vua Đavít (12,35-37) không còn là một tranh luận nữa, mà là một vấn đề Người nêu ra để gián tiếp giới thiệu về bản thân Ngài.
Cuộc tranh luận thứ tư liên quan đến điều răn đứng đầu trong số 613 điều (trong đó có 365 điều cấm và 248 điều buộc làm) thuộc luật Cựu Ước. Đây là một đề tài thường được đề nghị cho những vị thầy Do Thái lỗi lạc.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể phân chia thành bốn đơn vị:
1) Mở đầu: vị kinh sư đến gặp Đức Giêsu (12,28);
2) Đối thoại về điều răn đứng đầu (12,28c-31);
3) Lời bình về điều răn đứng đầu (12,32-33);
4) Kết: Đức Giêsu khen vị kinh sư (12,34).
Bản văn này có thể phân chia thành bốn đơn vị:
1) Mở đầu: vị kinh sư đến gặp Đức Giêsu (12,28);
2) Đối thoại về điều răn đứng đầu (12,28c-31);
3) Lời bình về điều răn đứng đầu (12,32-33);
4) Kết: Đức Giêsu khen vị kinh sư (12,34).
3.- Vài điểm chú giải
- điều răn nào đứng đầu (28): Trong Mt 22,35, câu hỏi là “điều răn nào lớn nhất ?”. Vì viết cho người ngoại, Mc đã sửa lại câu hỏi theo nghĩa “ưu tiên”.
- điều răn nào đứng đầu (28): Trong Mt 22,35, câu hỏi là “điều răn nào lớn nhất ?”. Vì viết cho người ngoại, Mc đã sửa lại câu hỏi theo nghĩa “ưu tiên”.
Dường như nền văn chương Do Thái coi tội thờ ngẫu tượng, tội loạn luân và tội sát nhân là ba tội nặng nhất. Do Thái giáo chưa nhận ra được tính ưu tiên của điều răn yêu thương, bởi vì toàn thể đời sống thiêng liêng của người Do Thái bị ám ảnh bởi một khoa giải nghi vị luật và hết sức chi li. Thật ra, vào khoảng 20 năm trước Đức Giêsu, kinh sư Hillel đã dạy về tình yêu đối với tha nhân như sau: “Điều gì con không thích, thì đừng làm cho tha nhân; đó là tất cả Lề Luật. Phần còn lại là phần giải thích”. Phải nói là Đức Giêsu đã lấy lại y nguyên công thức này (Mt 7,12). Nhưng linh đạo Do Thái giáo vẫn mang nặng dấu ấn của khuynh hướng khử ngoại (exclusivism): “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (Mt 5,43). Khi hỏi về điều răn đứng đầu, vị kinh sư muốn biết về điều mà Thiên Chúa muốn chúng ta phải làm trước mọi sự và làm tận căn.
- Nguơi phải yêu mến Đức Chúa … (29): Đức Giêsu đã trích Đnl 6,4-5, là một trong ba bản văn được những người Do Thái mộ đạo đọc mỗi ngày 2 lần (Đnl 6,4-9; 11,13-21; Ds 15,37-41).
- lòng, linh hồn, trí khôn, sức lực (30): Đnl 6,5 nói đến lòng/tim, linh hồn sức lực (LXX: kardia, psychê, dynamis). Mc lại nêu ra bốn từ lòng/tim (kardia), linh hồn (psychê), trí khôn (dianoia = sức mạnh của trí tuệ; thay vì dynamis) và sức lực (ischys = tất cả sức mạnh của tâm hồn). “Tim” là khả năng ý chí; “linh hồn” là khả năng trí thức; ngoài ra “sức lực” được nhắc đến tổng quát. Thật ra, đây không phải là một danh mục kể ra các năng khiếu khác nhau rõ rệt, hoặc kể rốt ráo; danh mục này chỉ muốn nhấn mạnh rằng toàn thể con người phải yêu mến Thiên Chúa với mọi tài nguyên có thể có được: chúng ta lưu ý là đi với mỗi năng khiếu là tính từ “tất cả” (holês; “hết; trọn”). Yêu mến vị Thiên Chúa duy nhất với tất cả sức mạnh và khả năng ban cho con người là tổng hợp tối hậu về ý muốn của Thiên Chúa.
- Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu mến người thân cận … (31): Được hỏi về điều răn đứng đầu, Đức Giêsu thêm “điều răn thứ hai”. Hai điều răn được liên kết với nhau bởi động từ “yêu” (agapêsais). Trong TM Mc, điều răn thứ hai này không được đồng hóa với điều răn thứ nhất như trong Mt 22,39 (homoia autê), nhưng việc đăt hai điều răn này ở bên nhau chuẩn bị cho việc lượng giá giống nhau. Đây là câu trích Lv 19,18. Tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với người thân cận là như một giải thích cô đọng hai bia đá Mười Điều Răn.
- Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng… Yêu mến Thiên Chúa … yêu người thân cận… (32-33): Vị kinh sư diễn tả sự đồng ý với Đức Giêsu bằng hai công thức hoàn toàn mang màu sắc Hy Lạp (“hay lắm”, kalôs; “rất đúng” [= thể theo sự thật], ep’ alêtheias). Rồi ông diễn tả cách khác và tóm tắt câu trả lời của Đức Giêsu. Khi làm như thế, ông cũng nhấn mạnh trên hết tính duy nhất của Thiên Chúa (LXX Đnl 4,35; Xh 8,6; Is 45,21). Ông cũng tổng hợp tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân và diễn tả liên hệ đặc biệt giữa hai điều răn này còn mạnh mẽ hơn nữa.
- hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực (33): Ở trên, câu trích Đnl 6,5 đã xa bản văn Hy Lạp với nhóm bốn từ ; nay vị kinh sư lại trở lại với nhóm ba từ, nhưng cũng khác bản Hy Lạp (“lòng”: kardia; “trí khôn”: synesis [thay thế psychê và dianoia ở c. 30), “sức lực”: ischys), qua đó khía cạnh trí tuệ vẫn được nêu bật.
- quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ (33): Lời của vị kinh sư khiến ta nghĩ đến Hs 6,6 và 1 Sm 15,22. Khi nhận định như vậy, vị kinh sư không khẳng định rằng nền phụng tự Đền Thờ đã bị triệt tiêu, nhưng đã bị tương đối hóa đi rất nhiều. Thật ra, trong Cựu Ước đã có những tư tưởng chuẩn bị cho việc phê bình nền phụng tự như thế: 1 Sm 15,22; Tv 51,20t; 40,7; Cn 21,3; đặc biệt với các ngôn sứ: Hs 6,6; x. Is 1,11. Nhưng ở đây, điều đáng nói là một nhà thần học Do Thái đã nhận định như thế tại Đền Thờ Giêrusalem (x. 11,27), nghĩa là ngay tại nơi dâng hy lễ.
- Ông không còn xa Nước Thiên Chúa (34): Vị kinh sư đã tỏ ra hiểu biết đúng đắn (nounechôs, “theo trí thông minh”, “biết theo lẽ phải”) điều gì là quan trọng trong luật Cựu Ước. Nhờ đó, ông đã ở gần Nước Thiên Chúa đang đến và ông đã sẵn sàng để đón tiếp Nước Thiên Chúa cách đúng đắn (x. 10,13-16).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở đầu: vị kinh sư đến gặp Đức Giêsu (28)
Câu 28ab nối với phần trước khi nói rằng một kinh sư đã nghe “họ” (Đức Giêsu và nhóm Xađốc) tranh luận với nhau và ông này thấy Đức Giêsu đối đáp hay. Những gì ông đã nghe gây ấn tượng mạnh cho ông, bây giờ thúc đẩy ông đăt cho Đức Giêsu một câu hỏi, nhưng không phải để thử Người (như trong Mt 22,35). Câu hỏi liên hệ đến điều răn quan trọng nhất, nhưng được đặt theo kiểu một người ngoại muốn tòng giáo đăt ra cho hai vị trưởng trường kinh sư là Shammai và Hillel: Shammai từ chối trả lời, còn Hillel, đến từ Hải ngoại, sẵn sàng trả lời. Trong số 613 điều làm nên tôrah, các kinh sư phân biệt ra các điều dễ và điều khó, nhưng yêu cầu tuân giữ tất cả. Shammai từ chối tổng hợp Lề Luật vào một điều răn tối hậu. Một câu hỏi phát xuất từ huấn giáo của Do Thái giáo Hải ngoại đã được chuyển đến cho vị kinh sư Do Thái. Ông không hỏi điều răn nào đứng đầu trong Lề Luật (= lớn nhất, như Mt 22,36), nhưng điều răn nào đứng đầu trong mọi điều răn (Trong Lc 10,25, câu hỏi hoàn toàn khác). Ông muốn biết là người ta có thể chăng nhận ra được yếu tính của những gì làm nên thánh ý Thiên Chúa.
* Mở đầu: vị kinh sư đến gặp Đức Giêsu (28)
Câu 28ab nối với phần trước khi nói rằng một kinh sư đã nghe “họ” (Đức Giêsu và nhóm Xađốc) tranh luận với nhau và ông này thấy Đức Giêsu đối đáp hay. Những gì ông đã nghe gây ấn tượng mạnh cho ông, bây giờ thúc đẩy ông đăt cho Đức Giêsu một câu hỏi, nhưng không phải để thử Người (như trong Mt 22,35). Câu hỏi liên hệ đến điều răn quan trọng nhất, nhưng được đặt theo kiểu một người ngoại muốn tòng giáo đăt ra cho hai vị trưởng trường kinh sư là Shammai và Hillel: Shammai từ chối trả lời, còn Hillel, đến từ Hải ngoại, sẵn sàng trả lời. Trong số 613 điều làm nên tôrah, các kinh sư phân biệt ra các điều dễ và điều khó, nhưng yêu cầu tuân giữ tất cả. Shammai từ chối tổng hợp Lề Luật vào một điều răn tối hậu. Một câu hỏi phát xuất từ huấn giáo của Do Thái giáo Hải ngoại đã được chuyển đến cho vị kinh sư Do Thái. Ông không hỏi điều răn nào đứng đầu trong Lề Luật (= lớn nhất, như Mt 22,36), nhưng điều răn nào đứng đầu trong mọi điều răn (Trong Lc 10,25, câu hỏi hoàn toàn khác). Ông muốn biết là người ta có thể chăng nhận ra được yếu tính của những gì làm nên thánh ý Thiên Chúa.
* Đối thoại về điều răn đứng đầu (29-31)
Đức Giêsu đã trả lời bằng cách nối kết Đnl 6,5 với Lv 19,18. Khi nhắc lại trọn vẹn câu trả lời của Đức Giêsu với giọng chuẩn nhận và bình giải bằng cách quy chiếu về các hy lễ, vị kinh sư chứng tỏ tất cả tầm quan trọng của câu trả lời của Đức Giêsu. Ở 12,30 (= Đnl 6,4t), Người khẳng định bốn phận đầu tiên và quan trọng nhất, đó là yêu mến Thiên Chúa hết sức lực có được. Chúng ta, với trọn vẹn bản thân, phải quay hướng về Người với lòng yêu thương cách cương quyết và trọn vẹn. Chúng ta không hướng về bất cứ quan niệm nào về Thiên Chúa, nhưng là về Thiên Chúa trong thực tại của Ngài. Vậy, Thiên Chúa là Đức Chúa duy nhất, nhưng Ngài đã tỏ mình ra trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô.
Đức Giêsu chỉ được hỏi về điều răn đứng đầu, nhưng sau điều răn thứ nhất, Người nói đến một điều răn thứ hai: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”. Tình yêu chúng ta có cho chính mình được đề ra như tiêu chuẩn để đánh giá tình yêu phải có đối với người thân cận. Yêu thương chính mình là chấp nhận bản thân, theo ý muốn của Thiên Chúa Tạo hóa. Tình yêu đối với người thân cận cũng phải có cùng một bản chất với tình yêu đối với chính bản thân ta.
* Lời bình về điều răn đứng đầu (32-33)
Khi bày tỏ quan điểm, vị kinh sư đã biểu đồng tình với Đức Giêsu. Nhưng ông đã diễn tả ý kiến như là một lời bình nhằm triển khai vấn đề bằng cách thêm vào một ý tương gán cho tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận một giá trị cao hơn mọi lễ toàn thiêu và các hy lễ đẫm máu. Bằng câu trả lời của mình, ông đã gián tiếp nhìn nhận lỗi của các đồng nghiệp, của nhóm Pharisêu và Hêrôđê.
Khi bày tỏ quan điểm, vị kinh sư đã biểu đồng tình với Đức Giêsu. Nhưng ông đã diễn tả ý kiến như là một lời bình nhằm triển khai vấn đề bằng cách thêm vào một ý tương gán cho tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận một giá trị cao hơn mọi lễ toàn thiêu và các hy lễ đẫm máu. Bằng câu trả lời của mình, ông đã gián tiếp nhìn nhận lỗi của các đồng nghiệp, của nhóm Pharisêu và Hêrôđê.
* Kết: Đức Giêsu khen vị kinh sư (34)
Khi khen ngợi vị kinh sư, Đức Giêsu đã tỏ ra là vị Thầy có uy quyền và được quyền nhận định như thế. “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu”: Phải chăng Đức Giêsu muốn nói rằng vị kinh sư đã sống trong chiều hướng giáo huấn của Người, bởi vì trong TM Mc, Nước Thiên Chúa là một thực thể hiện tại, gắn liền với bản thân Đức Giêsu (x. 4,11)? Chúng ta hẳn là chờ đợi Đức Giêsu gọi ông đi theo Người. Nhưng ở đây, mối bận tâm là cho thấy quan niệm của Đức Giêsu và các mệnh đề căn bản của đức tin Do Thái hài hòa với nhau. Không hề có một trở ngại quan trọng nào ngăn cản người Do Thái gắn bó với Đức Giêsu.
+ Kết luận
Điều răn đứng đầu chính là điều quan trọng trong mọi trường hợp, điều mà chúng ta phải dấn thân theo với tất cả sức lực. Bởi vì chúng ta phải trả lẽ với Thiên Chúa và bởi vì Ngài sẽ quyết định về giá trị của đời sống chúng ta, cách thức đời sống chúng ta có thể nhận được một ý nghĩa thức sự, trường tồn, tùy thuộc câu trả lời cho câu hỏi về điều răn đứng đầu. Bởi vì điều răn này cho biết Thiên Chúa thực sự muốn chúng ta sống thế nào, chúng ta phải đi theo con đường nào để cho cuộc đời chúng ta có ý nghĩa, có chiều hướng cách tuyệt đối chắc chắn.
Đức Giêsu đã cho thấy điều quan trọng nhất là yêu thương. Vị kinh sư đã hiểu, và đã diễn tả sự hiểu biết đó chính xác bằng một lời bình luận.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Ai có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực? Chúng ta có hy vọng chu toàn được nhiệm vụ này chăng? Ai có thể nói rằng mình đã yêu mến Thiên Chúa cách trọn vẹn như thế? Cách thức chúng ta cư xử với Thiên Chúa như thế nào? Lại không phải là chẳng mấy khi chúng ta nghĩ đến Ngài, chúng ta không có giờ cho Ngài, chúng ta cứ ở trong tình trạng bất ổn và ngờ vực sao? Với lại, yêu thương mà lại theo lệnh được và muốn yêu là yêu sao? Thật ra, với điều răn này, Đức Giêsu không nêu ra một công việc có thể làm ngay bằng một hành vi nào đó, nhưng nêu ra một bổn phận kéo dài suốt đời. Yêu mến Thiên Chúa trọn vẹn là mục tiêu của cuộc đời chúng ta.
1. Ai có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực? Chúng ta có hy vọng chu toàn được nhiệm vụ này chăng? Ai có thể nói rằng mình đã yêu mến Thiên Chúa cách trọn vẹn như thế? Cách thức chúng ta cư xử với Thiên Chúa như thế nào? Lại không phải là chẳng mấy khi chúng ta nghĩ đến Ngài, chúng ta không có giờ cho Ngài, chúng ta cứ ở trong tình trạng bất ổn và ngờ vực sao? Với lại, yêu thương mà lại theo lệnh được và muốn yêu là yêu sao? Thật ra, với điều răn này, Đức Giêsu không nêu ra một công việc có thể làm ngay bằng một hành vi nào đó, nhưng nêu ra một bổn phận kéo dài suốt đời. Yêu mến Thiên Chúa trọn vẹn là mục tiêu của cuộc đời chúng ta.
2. Nếu chúng ta chỉ dâng các hy lễ, nếu chúng ta chỉ nói lên những công thức cầu nguyện, nếu chúng ta chỉ dâng những điều khác với bản thân chúng ta, và không hề có bản thân chúng ta dấn thân vào đó thực sự, chúng ta không yêu mến, và chúng ta đánh mất ý nghĩa/chiều hướng của đời sống chúng ta.
3. Tình yêu trước tiên không phải là một tình cảm, một cảm xúc của con người, nhưng là tất cả bản thân chúng ta hiến dâng lên Thiên Chúa cùng với các sức lực và khả năng. Yêu mến là ra khỏi tình trạng thụ động, trơ ì, lãnh đạm, tìm thoải mái riêng tư, hời hợt, ngờ vực, để hướng về Thiên Chúa cách năng động mạnh mẽ và cương quyết, với một sự quan tâm sâu xa, tha thiết, sống động. Yêu mến Thiên Chúa là vận dụng tất cả năng lực trí tuệ và ý chí để hiếu biết Ngài, gặp gỡ Ngài, đón tiếp Ngài trọn vẹn, để được Ngài nắm lấy và lấp đầy. Nói cho cùng, yêu mến Thiên Chúa là luôn cố gắng mở ra với Ngài mãi.
4. “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en”. Đức Giêsu nhắc lại một lời kêu gọi của Cựu Ước, nhưng ở bên trong sứ điệp của Người, đây cũng là một lời mời gọi lắng nghe chính Người và hiến mình trọn vẹn cho Thiên Chúa, là Đấng đến tỏ mình ra cho ta nơi Đức Giêsu (x. 9,7). Đối với chúng ta, vì muốn yêu mến Thiên Chúa, trong khi đì tìm Thiên Chúa, để có thể yêu mến vị Thiên Chúa chân thật, chúng ta phải lắng nghe Đức Giêsu.
5. Nói rằng tình yêu đối với người thân cận cũng phải có cùng một bản chất với tình yêu đối với chính bản thân ta, có nghĩa là chúng ta chấp nhận người thân cận trong tính riêng tư độc đáo của họ, chúng ta nhìn nhận họ cũng được Thiên Chúa muốn có và tạo thành như chúng ta. Điều răn yêu thưong người thân cận có nền tảng và diễn tả ra là chúng ta – tôi và người thân cận – chúng ta đều mắc nợ tình yêu Thiên Chúa như nhau. Tình yêu đối với Thiên Chúa cũng là một tiếng “xin vâng” thưa với sự bố trí của Thiên Chúa.
6. Thật ra, điều răn này không có ý san bằng mọi người. Điều răn này phát xuất từ giả thiết là mọi khác biệt đều phụ thuộc; rằng mọi người về căn bản đều ở trên một bình diện như nhau, đều có tầm quan trọng, có giá trị, phẩm giá như nhau.
Nguồn: kinhthanh.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét