VUI HỌC THÁNH KINH
LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
Mc 1,7-11
TIN MỪNG
7 Ông rao
giảng rằng: "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng
cúi xuống cởi quai dép cho Người.8 Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước,
còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần."
9 Hồi ấy,
Đức Giê-su từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa dưới
sông Gio-đan.10 Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy
Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình.11 Lại có tiếng từ trời phán rằng:
"Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."
7 And this is what he proclaimed: "One mightier than I is
coming after me. I am not worthy to stoop and loosen the thongs of his sandals.
8 I have baptized you with water; he will baptize you with the
holy Spirit."
9 It happened in those days that Jesus came from Nazareth
of Galilee and was baptized in the Jordan by John.
10 On coming up out of the water he saw the heavens being torn
open and the Spirit, like a dove, descending upon him. 11 And a voice came from
the heavens, "You are my beloved Son; with you I am well pleased."
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ
đề của hình này là gì?
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
* Bạn
hãy viết câu Tin Mừng Mc 1,9
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
II. TRẮC NGHIỆM
01. Ai đã làm phép rửa cho Đức
Giêsu? (Mc 1,9)
a. Ông
Gioan.
b. Ông
Môsê.
c. Ông
Phêrô.
d. Ông
Khanania.
02. Đức Giêsu được ông Gioan làm
phép rửa tại đâu? (Mc 1,9)
a. Hồ
Tibêria.
b. Hồ
Silôác.
c. Sông
Giođan.
d. Thành
Giêrusalem.
03. Vừa lên khỏi nước, ai ngự
xuống trên Đức Giêsu? (Mc 1,10)
a. Chúa
Cha.
b. Thần
Khí.
c. Ngôi
Hai.
d. Các
thiên thần.
04. Thần Khí ngự xuống trên Đức
Giêsu như hình gì? (Mc 1,10)
a. Lưỡi
lửa.
b. Đám
mây.
c. Chim
bồ câu.
d. Ngôi
sao.
05. Có tiếng từ trời phán rằng:
“Con là con yêu dấu của Cha, … …” (Mc 1,11)
a. Cha
hài lòng về Con.
b. Các
ngươi hãy nghe lời Người.
c. Rất
đẹp lòng Cha mọi đàng.
d. Ai
tin vào Con sẽ được cứu chuộc.
III.
Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Đức Giêsu đến với ông Gioan để
làm gì? (Mc 1,9)
02. Vừa lên khỏi nước, ai ngự
xuống trên Đức Giêsu? (Mc 1,10)
03. Ai đã đến xin ông Gioan làm phép
rửa? (Mc 1,9)
04. Ông Gioan đã làm gì cho Đức
Giêsu? (Mc 1,9)
05. Đức Giêsu từ đâu đến với ông
Gioan? (Mc 1,9)
06. Thần Khí ngự xuống trên Đức
Giêsu như hình gì? (Mc 1,10)
07. Ai đã làm phép rửa cho Đức
Giêsu? (Mc 1,9)
Hàng
dọc: Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂU
THÁNH KINH GHI NHỚ VÀ HỌC THUỘC LÒNG
"Con
là Con yêu dấu của Cha,
Cha
hài lòng về Con."
Tin Mừng thánh Máccô 1,11
NGUYỄN THÁI HÙNG
Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 1 NĂM B
LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
I. HÌNH TÔ MÀU
*
Chủ đề :
Đức Giêsu chịu phép rửa
* Câu
Tin Mừng Mc 1,9
Hồi
ấy, Đức Giêsu từ Nadarét miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới
sông Gio-đan.
II.
Lời giải đáp TRẮC NGHIỆM
01. a. Ông Gioan (Mc 1,9)
02. c. Sông Giođan (Mc 1,9)
03. b. Thần Khí (Mc 1,10)
04. c. Chim bồ câu (Mc 1,10)
05. a. Cha hài lòng về Con (Mc 1,11)
III. Lời giải đápÔ CHỮ
01. Phép rửa (Mc 1,9)
02. Thần Khí (Mc 1,10)
03. Đức Giêsu (Mc 1,9)
04. Phép rửa (Mc
1,9)
05. Nadarét (Mc
1,9)
06. Chim bồ câu (Mc 1,10)
07. Ông Gioan (Mc 1,9)
Hàng
dọc : Phép Rửa
GB. NGUYỄN THÁI HÙNG
Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa - B
Những gợi ý suy niệm của cha I. Hồ Thông cho
lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa.
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Mc
1: 7-11
Vào Chúa Nhật nầy, chúng ta tưởng niệm sự kiện
Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả. Phép rửa nầy được nối kết với một
cuộc tấn phong bởi Chúa Thánh Thần trong một cuộc Thần Hiện. Đó là lý do tại
sao các Giáo Hội Đông Phương cử hành phép rửa của Đức Giê-su như một trong ba
cuộc Thần Hiện: lễ Hiễn Linh, lễ Đức Giê-su chịu phép rửa và lễ Chúa Biến Hình.
Vào chu trình năm phụng vụ, năm B, chúng ta đọc bài tường thuật theo thánh
Mác-cô. Hai bài đọc đi trước đoạn Tin Mừng gợi lên những cuộc tấn phong khác
bởi Chúa Thánh Thần.
Is 42: 1-7
Trước tiên, cuộc tấn phong của “người Chúa
tuyển chọn” mà “Ngài hết lòng quí mến” và cho Thần Khí của Ngài ngự trên người
ấy. Đây là một nhân vật mầu nhiệm mà vị ngôn sứ gọi là “Người Tôi Trung của Đức
Chúa”.
Cv 10: 34-38
Bài đọc thứ hai, được trích từ sách Công Vụ
Tông Đồ, tường thuật bài giảng thuyết của thánh Phê-rô được ngỏ lời với ông
Cô-nê-li-ô, viên Bách Quản Rô-ma, và toàn thể gia quyến của ông, họ là những
lương dân đầu tiên được chấp nhận vào cộng đoàn Ki tô hữu qua Phép Rửa. Nhờ mầu
nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su Ki tô, sự tuyển chọn của Thiên Chúa
được ban cho muôn dân.
BÀI ĐỌC I (Is 42: 1-4, 6-7)
Bản văn nầy gợi lên một nhân vật mà Thiên
Chúa gọi là “người tôi trung của Ngài”, Ngài hết lòng yêu quí và cho Thần Trí
của Ngài ngự trên người ấy. Nơi nhân vật này, Thiên Chúa trao gởi một sứ mạng
thi hành công lý, bày tỏ tấm lòng nhân từ và đức khiêm nhu, nhờ đó nhân vật ấy
trở thành ánh sáng chiếu soi muôn dân.
Đây là bài thơ đầu tiên trong bốn bài thơ
trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a thời lưu đày (550-540 BC), được gọi I-sai-a
đệ nhị (Is 40-55). Bốn bài thơ nầy gợi lên ở nơi “người tôi trung” mầu nhiệm
nầy, lúc thì dân Chúa tuyển chọn, hay “nhóm nhỏ còn sót lại”, lúc thì một nhân
vật biệt phân với một sứ mạng đặc thù.
Bài thơ nầy được đề nghị vào “Chúa Nhật lễ
Đức Giê-su chịu phép rửa” nầy bao gồm hai phần: phần thứ nhất, Đức Chúa giới
thiệu người tôi trung của mình; phần thứ hai, Ngài ngỏ lời trực tiếp với ông.
Danh xưng “người tôi trung” xuất hiện nhiều
lần trong bộ Kinh Thánh. Đây là danh hiệu cao quí mà Đức Chúa trao tặng cho
những ai Ngài trao phó việc hướng dẫn dân Ngài, hay trao gởi một sứ mạng:
Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp, Mô-sê, Đa-vít, vân vân. Tước hiệu nầy cũng chỉ
toàn thể dân Ít-ra-en.
Nhân vật nầy là ai mà vị ngôn sứ nghĩ đến?
Thật ra, nhân vật bí ẩn nầy trong suốt nhiều thời đại đã được giải thích theo
nhiều cách khác nhau: một nhân vật lịch sử là vua Ba tư, vua Ky-rô; hoặc dân
Ít-ra-en, dân Chúa tuyển chọn; hay Đấng Mê-si-a. Đây là nét đặc thù của các sấm
ngôn vừa do những hoàn cảnh chính xác vừa vượt qua những viễn cảnh tức thời.
1. Vua Ky-rô, vị thẩm phán chí công và nhân
hậu.
“Người Tôi Trung” nầy vừa là một vị thẩm phán
vừa nhà giải phóng: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ; đây là người Ta tuyển
chọn, Ta hết lòng quý mến. Ta cho Thần Khí Ta ngự trên Người; Người sẽ làm sáng
tỏ công lý trước muôn dân”.
Người tôi trung này được Thiên Chúa ban
nhiều đặc ân, nhờ đó ông có thể phân xử muôn dân, sửa sai những lỗi lầm, vực
dậy những kẻ bị áp bức, phóng thích những tù nhân, phục hưng Giao Ước giữa
Thiên Chúa và dân Ngài và làm sáng tỏ công lý trước mặt muôn dân.
Hoàn cảnh lịch sử chính xác là cảnh giam
cầm ở Ba-by-lon. Vị ngôn sứ ngỏ lời với những người lưu đày, họ phải chịu đựng
một sự thử thách dài lâu và mong mõi cuộc giải phóng. Ông hứa với họ một nhà
giải phóng. Tất cả mạch văn hướng về vị vua Ba tư là Ky-rô, mà quyền lực của
ông mỗi ngày mỗi lớn mạnh trên bàn cờ vùng Trung Đông. Chương 41 đi trước ám
chỉ rõ nét những chiến công lẫy lừng của vua Ky-rô: “Từ Phương Đông, ai đã cho
xuất hiện người hùng đi mỡ đường cho nền công chính? Đao kiếm của ông làm chúng
hóa ra như tro bụi, cung nỏ của ông khiến chúng tán loạn tựa cọng rơm. Ông đuổi
bắt thù địch, ông tiến bước an toàn…Điều đó, ai đã thực hiện, ai đã làm nên?
…Chính là Ta. Ta là Đức Chúa, Ta là khởi nguyên, và giữa những người của thời
sau hết, Ta vẫn là Ta” (Is 41: 2-4). Chương 45 còn rõ ràng hơn: “Đức Chúa nói
với kẻ Người xức dầu, với vua Ky-rô – Ta đã cầm lấy tay phải nó, để bắt các dân
tộc suy phục nó, Ta tước khí giới của các vua, mở toang các cửa thành trước mặt
nó, khiến các cổng không còn đóng kín nữa…Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Gia-cóp,
và của người Ta đã chọ là Ít-ra-en…Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi
đầy đủ, để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng chẳng có thần nào khác, ngoại
trừ Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác” (Is 45: 1-6).
Các biến cố sắp xảy đến sẽ củng cố dự đoán
thời cuộc của vị ngôn sứ. Không bao lâu sau, vua Ba tư chiếm kinh thành
Ba-by-lon mà không phải gặp bất cứ một kháng cự nào, và cũng không gây bất kỳ
thiệt hại nào cho kinh thành. Ông thi hành chính sách cai trị “thu phục lòng
dân”. Vua Ky-rô và những người kế vị ông không bao giờ sử dụng bạo lực. Xót
thương đối với những người Ít-ra-en bị lưu đày như “cây sậy bị dập nát” và “tim
đèn leo lét” nầy, vua Ba tư tạo điều kiện thuận tiện cho họ trở về cố hương là
Giê-ru-sa-lem.
Một bản văn ba-by-lon, được chạm trên một
hình trụ nổi tiếng được cho là của vua Ky-rô, tường thuật việc chinh phục thành
đô Ba-by-lon một cách phi thường, không phải nhọc công chiến đấu nào. Bản văn
này rất gần với các bản văn của I-sai-a đệ nhị.
2. Dân Chúa chọn.
Sau nầy, khi quá khứ mờ nhạt trong ký ức,
bản văn được đọc lại theo cách khác.
Vị ngôn sứ chủ ý trao tặng danh hiệu “người
tôi trung” cho toàn thể dân Ít-ra-en với tư cách là dân Đức Chúa tuyển chọn để
là chứng nhân của Ngài. Dung mạo người tôi trung được xem như nhân cách hóa dân
Chúa chọn mà Đức Chúa nâng đỡ, hết lòng quí mến và ban Thần Trí của Ngài. Dân
nhỏ bé nầy, Ngài đã “nắn nên” họ bằng chính bàn tay của mình. Ở giữa muôn dân,
họ phải chu toàn sứ mạng của mình là trở nên ánh sáng muôn dân qua việc khẳng
định niềm tin của mình vào Thiên Chúa đích thật.
3. Đấng Mê-si-a.
“Người tôi trung” nầy được nhận dạng chỉ ở nơi
vua Ky-rô không tát cạn sự giàu có của bản văn, và được giải thích là dân Chúa
chọn cũng không hoàn toàn thỏa mãn. Quan trọng là đặt sứ điệp nầy vào trong
giây phút nghiêm trọng ở đó lời sấm được công bố: vào giữa thế kỷ thứ tư trước
Công Nguyên, kinh thành Giê-ru-sa-lem bị đánh chiếm và trở thành hoang phế; một
phần lớn dân cư bị lưu đày; Đền Thánh bị phá hủy; vương quyền của nhà Đa-vít đã
chìm đắm trong phong ba bảo táp; niềm hy vọng mê-si-a được đặt để vào vương
quyền nhà Đa-vít đã sụp đổ. Đây là thời điểm thuận tiện để nâng mặc khải lên
đến một giai đoạn mới. Thiên Chúa sẽ can thiệp một cách bất ngờ: Ngài sẽ sai
phái “người tôi trung” đầy tràn Thần Khí của Ngài; nhân vật nầy sẽ thực hiện sứ
mạng công lý với tấm lòng khiêm nhu nhân hậu, bên ngoài có vẻ thất bại, chịu
nhiều đau khổ (bài thơ thứ tư). Qua trực giác của vị ngôn sứ, khoa sư phạm của
Thiên Chúa bước một bước tiến nhảy vọt. Những sấm ngôn xưa liên quan đến một
hậu duệ của nhà Đa-vít không bị bãi bỏ một chút nào, nhưng những viễn cảnh mới
mà sấm ngôn nầy hé mở, đó không là một quyền lực trần thế nhưng một vương quốc
tâm linh: “Vì dân các hải đảo xa xăm (nghĩa là cho đến tận cùng cõi đất) đều
mong được Người chỉ bảo”.
Trong sách Tin Mừng của mình ở 12: 18-21,
thánh Mát-thêu trích dẫn một đoạn văn dài lời sấm I-sai-a nầy để chứng minh
rằng lời sấm được ứng nghiệm ở nơi con người của Đức Giê-su, sứ mạng của Ngài
tuy được thực hiện một cách kín đáo nhưng “sẽ đưa công lý đến toàn thắng, và
muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Ngài”.
Khi chịu phép rửa bởi ông Gioan, Đức Giê-su
thấy các tầng trời mở tung, Thần Khí ngự xuống trên mình và có tiếng từ trời
phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Việc mô tả nầy mặc
nhiên quy chiếu đến bản văn của I-sai-a. Đức Giê-su bắt đầu sứ mạng của “Người
Tôi Trung”; Ngài sẽ chu toàn sứ mạng nầy khi thực hiện dung mạo “Người Tôi
Trung chịu đau khổ” trong cuộc Khổ Nạn của mình.
BÀI ĐỌC II (Cv 10: 34-38)
Đoạn trích của sách Công Vụ Tông Đồ nầy
tường thuật một biến cố đánh dấu một khúc quanh quyết định trong lịch sử của
Giáo Hội tiên khởi: lần đầu tiên, một lương dân và toàn thể gia quyến của ông
được chấp nhận vào trong cộng đoàn Ki tô hữu nhờ bí tích Rửa Tội.
Cho đến lúc đó, các Tông Đồ đã ngỏ lời với
người Do thái nhằm chứng minh cho họ biết rằng Đức Giê-su là Đấng cứu độ, ở nơi
Ngài mọi lời Kinh Thánh được ứng nghiệm. Ki tô giáo sơ khai được định vị ở nơi
sự nối dài của Do thái giáo. Chiều kích hoàn vũ đã được thấu hiểu qua thị kiến
của các ngôn sứ: rồi sẽ đến một ngày, muôn dân sẽ lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem
mừng kính Đức Chúa đích thật. Nhưng các Tông Đồ đã không nghĩ đến một tiến
trình đảo ngược: chính họ phải đi đến với muôn dân loan báo Tin Mừng cho họ.
Ấy vậy, nầy đây vị lãnh tụ của Giáo Hội,
thánh Phê-rô được Chúa Thánh Thần thúc ép, phải nới như vậy. Một viên Bách Quản
của đạo quân Rô-ma, đồn trú ở thành phố Xê-da-rê, sai người đến mời thánh nhân
đến tại nhà mình. Lúc đó thánh Phê-rô đang ở Gia-phô cách thành phố Xe-da-rê
khoảng năm mươi cây số. Thánh nhân đang thực hiện cuộc kinh lý. Sau cuộc bách
hại đã giáng xuống cộng đoàn Giê-ru-sa-lem non trẻ vào mùa hè năm 36 hay mùa
xuân năm 37 (thánh Tê-pha-nô, vị tuẩn đạo đầu tiên vào thời gian nầy), một thời
gian yên bình đã xảy đến. Thánh Phê-rô lợi dụng thời kỳ yên bình nầy để thăm
viếng các cộng đoàn vừa mới được thành lập.
Thánh Phê-rô đến nhà viên Bách Quản. Đây là
lần đầu tiên thánh nhân bước qua ngưỡng của của một người chưa được cắt bì, bất
chấp những cấm kỵ lâu đời (lệnh cấm không được tiếp xúc với những người chưa
chịu cắt bì không được diễn tả trong Lề Luật; nó phát xuất từ tập quán và lời
giải thích của các kinh sư nhằm tránh tất cả mọi hình thức lây nhiễm ngoại giáo).
Đây là lần đầu tiên thánh nhân đem sứ điệp Tin Mừng đến một người ngoại giáo và
toàn thể gia quyến của ông. Đối với thánh nhân, đây thật sự là một kinh nghiệm
cảm động và đáng nhớ, thánh nhân đã thấu hiểu ý định của Thiên Chúa là muốn cứu
độ hết mọi người. Ngay tức khắc, thánh nhân mặc lấy cho cách hành xử của mình
một ý nghĩa thần học. Đây là phần mở đầu bài thuyết giáo của thánh nhân mà
Phụng Vụ Lời Chúa đề nghị cho chúng ta suy niệm vào ngày lễ Chúa Giê-su chịu
phép rửa bởi Gioan Tẩy giả hôm nay.
1. Chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ.
“Quả
thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hể ai kính sợ
Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì bất cứ họ thuộc dân tộc nào, cũng đều được
Chúa tiếp nhận”. Lời khẳng định về sự bình đẳng giữa dân ngoại và dân Do thái
này hình thành nên một thay đổi lớn lao. Quả thật, trước đây, thánh Phê-rô, vốn
là một người Ít-ra-en, quen nghĩ đến những đặc quyền đặc lợi mà dân Chúa chọn
được hưởng. Vị lãnh tụ Giáo Hội, được Thánh Thần thúc đẩy, chấp nhận và công bố
sự thay đổi khôn sánh nầy.
Ông Cô-nê-li-ô, viên Bách Quản Rô-ma, là
một “cảm tình viên của Do thái giáo”, cũng được gọi “người kính sợ Chúa”. Đây
là một con người “ăn ngay ở lành” như bản văn xác nhận.
Chắc chắn Thiên Chúa đã gửi “lời loan báo
Tin Mừng trước tiên cho dân Ít-ra-en”. Thánh nhân muốn giải thích cho gia chủ
và đồng thời muốn thanh minh quyền ưu tiên nầy: dân Ít-ra-en đã lãnh nhận một
sứ mạng, sứ mạng chuẩn bị bình an, bình an giữa muôn dân, bình an giữa dân Do
thái và lương dân. Bình an nầy trở nên có thể nhờ trung gian của Đức Giê-su Ki
tô, “Ngài là Chúa Tể muôn dân”.
2. Quyền năng của Phép Rửa Ki tô giáo.
Tiếp đó, thánh Phê-rô vạch lại một cách
ngắn gọn những giai đoạn sứ vụ Đức Giê-su. Thánh nhân nhấn mạnh phép rửa mà Đức
Giê-su đã đón nhận bởi ông Gioan, sau đó Ngài đầy tràn Thánh Thần. Thánh Tông
Đồ mở ra một viễn cảnh giáo thuyết, đó sẽ mãi mãi là viễn cảnh của Giáo Hội: ân
ban Thánh Thần không là một sự thủ đắc đơn giản, đây là một sức mạnh bùng nổ,
một năng lực giúp hoàn thành một sứ mạng: “làm chứng”, “thi ân giáng phúc” và
“chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế”.
TIN MỪNG (Mc 1: 7-11)
Đoạn Tin Mừng hôm nay gồm có hai phần chính
yếu: phép rửa trong nước và phép rửa trong Thánh Thần cùng với cuộc Thần Hiện ở
trên trời. Hai giai đoạn nầy tương phản nhau. Giai đoạn thứ nhất là hoạt cảnh
về sự khiêm hạ nếu không muốn nói về một sự hạ mình đến tột cùng: Đức Giê-su tự
hạ mình xuống đến mức ngang hàng với tội nhân. Giai đoạn thứ hai là một hoạt
cảnh hùng vĩ của cuộc tấn phong.
1. Phép rửa trong nước.
Đức Giê-su đến từ làng Na-da-rét miền
Ga-li-lê để xin Gioan Tẩy giả làm phép rửa cho mình. Như vậy, khi muốn đón nhận
phép rửa sám hối của Gioan Tẩy giả, Đức Giê-su đã tự đặt mình ngang hàng với
các tội nhân. Cách hành xử nầy là yếu tố khởi đầu của sứ mạng Cứu Chuộc. Ngay
từ lúc đó, Đức Giê-su muốn đón nhận ở nơi bản thân mình mọi tội lỗi của con
người; đây là bước đi đầu tiên sẽ dẫn Ngài đến núi Sọ để chịu một phép rửa
khác: phép rửa bằng máu. Chính Đức Giê-su đã sánh ví cuộc Tử Nạn của Ngài với
một phép rửa: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết
bao cho đến khi việc nầy hoàn tất” (Lc 12: 50). Đức Giê-su công bố với ông
Gia-cô-bê và ông Gioan: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được
phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10: 38). Động từ “rửa” theo nguyên ngữ là
“ngụp lặn”, “nhận chìm”. Đức Giê-su muốn nói rằng Ngài sẽ bị nhận chìm vào
trong vực thẳm đau khổ.
Từ phép rửa trong nước đến phép rửa bằng
máu, đó là tiến trình của cuộc đời Đức Giê-su Ki tô. Ở nơi hoạt cảnh phép rửa
trong dòng sông Gio-đan có một hậu cảnh bi thảm…
2. Phép rửa trong Thánh Thần.
Cả bốn thánh ký đều tường thuật hoạt cảnh
nầy, điều đó nói lên tầm quan trọng mà các ngài đã ban cho giờ phút quyết định
nầy về ơn gọi Đức Giê-su.
Cảnh tượng được mô tả thật hùng vĩ: “Vừa
lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời mở tung ra và thấy Thần Khí tựa
như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con
yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
Theo truyền thống Do thái, các tầng trời
đóng lại với vị ngôn sứ cuối cùng là Ma-la-khi, nghĩa là sự giao tiếp giữa
Thiên Chúa và con người chấm dứt. Như vậy, biến cố “Đức Giê-su chịu phép rửa”
đánh dấu một khúc quanh mới: “các tầng trời mở tung ra”, nghĩa là sự tương giao
giữa Thiên Chúa và con người lại được nối lại.
Quả thật, Đức Giê-su được thụ thai và sinh
hạ bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, nhưng trong cuộc sống ẩn dật, Chúa Thánh
Thần đã không công khai tỏ mình ra. Ngày Ngài chịu phép rửa bởi ông Gioan, đánh
dấu khởi điểm sứ mạng mình, Đức Giê-su cần sức mạnh của Chúa Thánh Thần: “Thần
Khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên Ngài”. Một số người thấy ở nơi hình ảnh
“chim bồ câu” con chim hòa bình mà ông Nô-ê thả trên nước Đại Hồng Thủy (St 8:
8-11). Những người khác nghĩ rằng hình ảnh nầy nhắc nhở “Thần Khí Thiên Chúa
bay lượn trên mặt nước” trong công trình sáng tạo (St 1: 2). Như vậy, việc Thần
Khí ngự xuống trên Đức Giê-su khai mào một kỷ nguyên mới của Ơn Cứu Độ. Quả
thật, trong Cựu Ước, chúng ta gặp thấy nhiều hình ảnh tiền trưng của phép rửa:
từ nước của trận Đại Hồng Thủy xuất hiện một nhân loại mới khởi đi từ ông Nô-ê
và con cái của ông; từ nước của biển Đỏ một dân tộc mới và được giải thoát chào
đời. Cũng vậy, vừa ra khỏi dòng sông, Đức Giê-su khai mạc nhân loại mà Ngài sẽ
tái sinh.
Như vậy, trong biến cố nầy, Đức Giê-su lãnh
nhận ba cuộc tấn phong đồng một lúc:
- “Cuộc tấn phong với tư cách Con Thiên
Chúa”. Tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha”, đây là cách nói
của người Do thái để bày tỏ niềm tôn kính đối với Thiên Chúa mà họ không dám
nêu tên Ngài. “Con yêu dấu” gợi lại I-sa-ác, đứa con duy nhất, đứa con yêu quý
của ông Áp-ra-ham trong mệnh lệnh của Thiên Chúa (St 22: 2).
Chúng ta cũng vậy, vào lúc chịu phép rửa
tội, chúng ta sẽ được Chúa Cha gọi “con yêu quý” ở nơi Người Con duy nhất, Con
yêu quý của Ngài là Đức Giê-su Ki tô.
- “Cuộc tấn phong với tư cách vua-mê-si-a”.
Thật không ngẫu nhiên một chút nào khi tiếng phán từ trời cất lên bằng những từ
ngữ mà xưa kia một vị vua được phong vương: “Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc
sắc phong của Chúa, Người phán với tôi rằng: “Con là Con của Cha, hôm nay Cha
đã sinh ra Con” (Tv 2: 7).
Vị vua-mê-si-a mà các ngôn sứ loan báo, hậu
duệ của nhà Đa-vít nầy, chính là Đức Giê-su. Nhưng Ngài sẽ công bố mình là vua
chỉ khi bị xích xiềng và bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng Do thái (Mc 14:
61-62) và trước tổng trấn Phi-la-tô (Mc 15: 2).
- “Cuộc tấn phong với tư cách người tôi
trung”. Những lời “Cha hài lòng về Con” nhắc nhớ sự tuyển chọn của Người Tôi
Trung trong bản văn của I-sai-a mà chúng ta gọi “bài ca thứ nhất về Người Tôi
Trung phải chịu đau khổ” trong bài đọc thứ nhất (Is 42: 1-7).
3. Phép rửa, cuộc Thần Hiện của Ba Ngôi
Thiên Chúa.
Phụng Vụ Đông Phương cử hành lễ Chúa Giê-su
chịu phép rửa như ngày lễ Thiên Chúa Ba Ngôi.
Quả thật, đây là lần đầu tiên trong Kinh
Thánh, Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hiện diện trong biến cố nầy. Việc Đức Giê-su
chịu phép rửa trong dòng sông Gio-đan được đánh dấu bởi cuộc Thần Hiện của Ba
Ngôi Thiên Chúa loan báo phép rửa Ki tô giáo phù hợp với lời dạy của Đức Giê-su
Phục Sinh cho các môn đệ Ngài: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới
đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành muôn đệ, làm phép rửa cho
họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi
điều Thầy truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận
thế” (Mt 28: 18-20).
Việc nhận chìm vào trong nước và bước ra
khỏi nước là biểu tượng của sự chết và sự tái sinh. Hy tế của Đức Giê-su đã đem
lại cho biểu tượng nầy tất cả giá trị của nó. Thánh Phao-lô giải thích rõ ràng
điều nầy: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai
táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền
năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm
6: 4).
Thật ý nghĩa biết bao khi nghi thức Rửa Tội
được cử hành vào lễ Đêm Vọng Phục Sinh!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét