VUI HỌC THÁNH KINH
LỄ THÁNH MARIA
ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI
Tin Mừng thánh Luca 2,16-21
16
Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi
đặt nằm trong máng cỏ.17 Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về
Hài Nhi này.18 Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên.19
Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong
lòng.20 Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa,
vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
21
Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt
tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi
Người được thụ thai trong lòng mẹ.
16 So they went in haste and found Mary and
Joseph, and the infant lying in the manger.
17 When they saw this, they made known the
message that had been told them about this child.
18 All who heard it were amazed by what had
been told them by the shepherds.
19 And Mary kept all these things,
reflecting on them in her heart.
20 Then the shepherds returned, glorifying
and praising God for all they had heard and seen, just as it had been told to
them.
21 When eight days were completed for his
circumcision, he was named Jesus, the
name given him by the angel before he was conceived in the womb.
I. HÌNH TÔ MÀU
*
Chủ đề của hình này là gì?
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
* Bạn hãy viết câu Tin Mừng thánh Luca
2,16b
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
II. TRẮC NGHIỆM
01. Khi được báo tin Đấng Cứu Độ sinh ra ở
thành Bêlem, những người chăn chiên liền làm gì? (Lc 2,16)
a.
Tiến về thành Bêlem.
b.
Hối hả ra đi.
c.
Bàn hỏi.
d.
Lưỡng lự.
02. Tại Bêlem, những người chăn chiên đã
gặp được ai? (Lc 2,16)
a.
Hài Nhi nằm trong máng cỏ.
b.
Ông Giuse.
c.
Bà Maria.
d.
Cả a, b và c đúng.
03. Các người chăn chiên ra về, họ vừa đi
vừa làm gì? (Lc 2,20)
a.
Tôn vinh ca tụng Thiên Chúa.
b.
Kể cho mọi người biết Đấng Cứu Độ đã đến.
c.
Kêu gọi mọi người đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu.
d.
Báo tin cho vua Hêrôđê.
04. Khi đủ tám ngày, thì người ta làm lễ gì
cho Hài Nhi? (Lc 2,21)
a.
Lễ tiến dâng.
b.
Lễ chúc tụng.
c.
Lễ tạ ơn.
d.
Lễ cắt bì.
05. Hài Nhi được đặt tên là gì? (Lc 2,21)
a.
Môsê.
b.
Giuse.
c.
Giêsu.
d.
Gioan.
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Những người chăn chiên đã gặp thấy Hài
Nhi được đặt nằm ở đâu? (Lc 2,16)
02. Những người chăn chiên về, vừa đi vừa
tôn vinh ca tụng ai? (Lc 2,20)
03. Được bao nhiêu ngày thì làm lễ cắt bì
cho Hài Nhi Giêsu? (Lc 2,21)
04. Ai đã đặt tên cho Hài Nhi Giêsu? (Lc
2,21)
05. Ai hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm và suy nghĩ
lại trong lòng? (Lc 2,19)
06. Hài nhi được đặt tên là gì? (Lc 2,21)
07. Đủ tám ngày thì người ta làm lễ gì cho
Hài Nhi Giêsu? (Lc 2, 21)
Hàng
dọc: Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
Họ gặp bà Maria, ông Giuse,
cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Tin Mừng thánh
Luca 2,16b
NGUYỄN THÁI HÙNG
Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
LỄ THÁNH MARIA
ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI
Tin Mừng thánh Luca 2,16-21
I. HÌNH TÔ MÀU
*
Chủ đề :
Hài Nhi Giêsu, Mẹ Maria và Ông Giuse
* Tin Mừng thánh Luca 2,316b
Họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài
Nhi đặt nằm trong máng cỏ.
II. Lời giải đáp trắc nghiệm
01. b.
Hối hả ra đi (Lc 2,16)
02. d.
Cả a, b và c đúng (Lc 2,16)
03. a.
Tôn vinh ca tụng Thiên Chúa (Lc 2,20)
04. d.
Lễ cắt bì (Lc 2,21)
05. c.
Giêsu (Lc 2,21)
III. Lời giải đáp ô chữ
01. Máng
cỏ (Lc 2,16)
02. Thiên
Chúa (Lc 2,20)
03. Tám
(Lc 2,21)
04. Sứ
thần (Lc 2,21)
05. Mẹ Maria
(Lc 2,19)
06. Giêsu
(Lc 2,21)
07. Lễ Cắt
bì (Lc 2, 21)
Hàng
dọc: Mẹ Maria.
GB. NGUYỄN THÁI
HÙNG
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con…” -
Lễ Mẹ Thiên Chúa
Ngày đầu năm mới
và cũng là ngày Quốc Tế Hòa Bình, Giáo Hội hân hoan cử hành lễ Đức Maria rất
thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi Giáo Hội đang cử hành
mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Hoàng Tử Bình An, là hòa bình đích
thực của nhân loại.
Thiên Chúa đã yêu
thế gian đến nỗi đã ban chính Con của Ngài sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Đức
Maria đã được nâng lên địa vị là Mẹ Thiên Chúa và Giáo Hội muốn đặt lễ hôm nay
lên hàng đầu của năm tháng ngày giờ.
Tại sao một thiếu
nữ nhỏ bé sống ở làng nghèo Nadaret lại trở thành Mẹ Thiên Chúa? Nhìn về mặt bề
ngoài, Mẹ Maria không có gì nổi bật so với những người phụ nữ thời ấy. Tên
Maria là một tên rất phổ biến, giống như tên Tuyết, Cúc, Đào…trong giới phụ nữ
Việt Nam. Mẹ Maria người làng Nadaret (Lc 1,26), một làng rất tầm thường như
sau này Nathanael nhận xét: “Từ Nadaret làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1,46).
Ðể có câu trả lời,
cần tìm về ý nghĩa của biến cố Truyền Tin.
Thi sĩ Hàn Mặc Tử
viết bài thơ ‘Ave Maria’ bất hủ từ câu chuyện này.
Hỡi Sứ thần Thiên
Chúa, Gabriel.
Khi Người xuống
truyền tin cho Thánh Nữ.
Người có nghe xôn
xao muôn tinh tú.
Người có nghe náo
động cả muôn trời.
Người có nghe thơ
mầu nhiệm ra đời.
Để ca tụng bằng
hương hoa sáng láng.
Bằng tràng hạt,
bằng Sao Mai chiếu rạng.
Một đêm xuân là
rất đỗi anh linh.
Cho tôi thắp hai
hàng cây bạch lạp.
Khói nghiêm trang
sẽ dâng lên tràn ngập.
Cả Hàn Giang, cả
màu sắc thiên không.
Lút linh hồn và ám
ảnh hương lòng.
Cho sốt sắng, cho
đê mê nguyền ước.
Tấu lạy Bà, lạy Bà
đầy ơn phước.
Cho tình tôi
nguyên vẹn tựa trăng rằm…
Sứ thần Gabriel
đến Nadaret chào thôn nữ Maria: “Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa
ở cùng Bà”. Ba tiếng “Đầy-ân-sủng” gộp lại trở thành như là tên gọi riêng của
Đức Maria. Mẹ được tràn đầy ân sủng. Mẹ luôn luôn có Thiên Chúa ở cùng. Không
có giây phút nào mà Mẹ không có Thiên Chúa với mình. Không có giây phút nào mà
Mẹ không trọn vẹn thuộc về Chúa. Không có bất cứ dấu vết tội lỗi chen vào giữa
Mẹ và Thiên Chúa (Lm Nguyễn Hồng Giáo).
Tại sao Thiên thần
nói với Maria: hãy vui lên?. Lời mời gọi này nhắc lại lời Ngôn sứ Xôphônia thế
kỷ thứ VI báo tin ngày cứu độ cho Israel: “Reo vui lên hỡi thiếu nữ Sion, hò
vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi…Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa
ngươi, Người là vị cứu tinh, là Đấng anh hùng” (Xp 3,14-17). Sứ thần Gabriel
cũng mời gọi Đức Maria hãy vui lên vì giờ cứu độ của Thiên Chúa đã đến. Sứ thần
trình bày: “Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Đức
Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Đavit tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacop
đến muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,31-33).
Là một tâm hồn
luôn luôn nghiền ngẫm Kinh thánh, chắc hẳn Đức Maria nhớ lại Lời Chúa đã dùng
Ngôn sứ Nathan mà thề hứa với vua Đavit xưa. Nhưng điều mà Mẹ không bao giờ
nghĩ tới là mình có thể có vai trò gì trong việc thực hiện lời tiên tri ấy. Chuyện
“không thể” được đầu tiên là làm sao mình sinh con được vì đã quyết “không biết
đến chuyện vợ chồng” để sống trọn vẹn cho một mình Thiên Chúa mà thôi. Sau khi
được Sứ thần giải thích rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm
được”. Maria khiêm nhường thưa lại: ‘Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin làm
cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Và thế là Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập
thể làm người trong lòng Đức Trinh Nữ. Và thế là Đức Maria khiêm nhường đã trở
thành thánh mẫu của Thiên Chúa.
Mẹ được Thiên Chúa
sủng ái, và được trở nên cao trọng, vì Mẹ khiêm nhường. Đức khiêm nhường dẫn Mẹ
đến chỗ hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa.
Trong bài
Magnificat, chính Đức Mẹ đã nói về mình rằng:
Linh hồn tôi ngợi
khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn
hở vui mừng
Vì Thiên Chúa,
Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn
mọn,
Chúa đoái thương
nhìn tới.
Chúa hạ bệ những
ai quyền thế
Người nâng cao mọi
kẻ khiêm nhường
Đức Mẹ thuộc
truyền thống những người nghèo khó, hèn mọn được Thiên Chúa che chở cách riêng.
CĐ Vaticanô II trong hiến chế tín lý về Giáo hội đã dạy: “Đức Maria đứng đầu
trong hàng ngũ những người khiêm nhường và nghèo khó của Chúa vẫn mong đợi và
lãnh nhận ơn cứu độ với lòng tin tưởng” (số 55).
Từ biến cố Truyền
tin, qua lời đáp xin vâng của Mẹ, Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể trong lòng dạ
Mẹ. Đức Maria trở thành Mẹ Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Giáo hội đã tuyên bố Chúa
Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, Người có ngôi vị duy nhất trong hai
bản tính. Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Thiên Chúa làm người, nên là Mẹ của
Thiên Chúa. Công đồng Êphêsô 431 đã minh định điều ấy khi tuyên tín Đức Maria
là Mẹ Thiên Chúa.
Đức Maria đã trở
thành Mẹ của Chúa qua thái độ khiêm nhường và lời đáp xin vâng phát xuất từ
lòng tin của Mẹ. Do đó, khi tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta
không chỉ hiểu chức làm mẹ đó chỉ thuộc về thân xác mà thôi, nhưng nhìn nhận
Đức Maria là Mẹ do hành vi tin hoàn toàn tự do của Ngài, như bà Êlisabet đã
thốt lên : “Phúc cho em vì đã tin những lời Chúa phán”. Chúa Giêsu có lần đã
tuyên bố : “Mẹ và anh em Ta là những ai biết lắng nghe và thực hành Lời Thiên
Chúa” (Lc 8,21).
Mẹ Thiên Chúa trở
thành một tín điều và là mầu nhiệm của đức tin Công Giáo. Tước hiệu này đã trở
nên một phần vĩnh viễn trong những kinh tuyên xưng đức tin và trong phụng vụ
của toàn thể Giáo Hội Công Giáo.
Tín điều Mẹ Thiên
Chúa được xây dựng trên nền tảng Thánh Kinh.
Tiên tri Isaia
loan báo: “một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là
Emmanuel” (Is 7,14). Đức Maria sinh ra Đấng Emmanuel, nên Đức Maria là Mẹ Thiên
Chúa. Lời tiên tri được thực hiện khi sứ thần Gabriel báo tin cho Mẹ Maria :
"Bà sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu... Vì thế
Con Trẻ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa." (Lc 1,31-35).
Thánh Phaolô viết
: ‘Thiên Chúa đã sai con mình đến sinh bởi người nữ và sinh dưới chế độ luật”
(Gal 4,14). Trong Tin mừng Gioan, Mẹ Maria được gọi là Mẹ Chúa Giêsu (2,1 ;
19,26), và trong Tin mừng Luca, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đến thăm bà Elidabet
(1,43).
Các Kitô hữu thời
sơ khai được các Tông Đồ hướng dẫn, luôn có một niềm tin vững chắc vào thiên
chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Điều này được chứng tỏ bằng những việc tôn
kính phổ quát như Kinh Tin Kính của các Tông Đồ.
Tước hiệu Mẹ
Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã được các giáo phụ như Thánh Cyrilô, Athanasiô, Ignatiô
Antiochia, tin yêu và truyền dạy.
Công Đồng Êphêsô
năm 431 tuyên tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Công Đồng
Constantinople III (680-681) xác quyết rằng: Chúa Giêsu Kitô được sinh ra bởi
phép Đức Chúa Thánh Thần, và Đức Trinh Nữ Maria chính thức và thật sự là Mẹ
Thiên Chúa theo nhân tính của Chúa Kitô.
Đức Giáo Hoàng Piô
XI, đã ra thông điệp “Mediator Dei” mừng kỷ niệm 1.500 năm Công Đồng Êphêsô và
công bố lễ Mẹ Thiên Chúa, mừng trong toàn thể Giáo Hôi vào ngày 11 tháng 10.
Đức Piô XII, đã
thiết lập Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và tuyên bố rằng chức Mẹ Thiên Chúa là
nguồn gốc tất cả mọi ơn sủng và đặc sủng của Mẹ Maria.
Công Đồng Vaticanô
II dành chương VIII trong Hiến Chế Lumen Gentium, nói về Mẹ Thiên Chúa. Và
trong Hiến Chế về Phụng Vụ, các Nghị Phụ Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa
ngày 11 tháng 10 sang ngày 1 tháng 1 hàng năm.
Thánh Lễ thật
phong phú với những lời cầu nguyện cùng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội.
Cả 4 kinh nguyện Thánh Thể đều nhắc tới Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Trong kinh
nguyện Thánh Thể I, linh mục chủ tế đọc : Hiệp cùng Hội Thánh, chúng con kính
nhớ Đức Maria vinh hiển trọn đời đồng trinh Mẹ Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, Chúa
chúng con. Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV đọc : Cùng với Đưc Trinh Nữ
Maria Mẹ Thiên Chúa...
“Thánh Maria, Đức
Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con…” là lời kinh được đọc lên hàng triệu triệu lần
mỗi ngày. Danh hiệu Mẹ Chúa Trời được đọc trong phụng vụ của Giáo Hội, trong
kinh nguyện riêng tư tại gia đình, trên xe, trên giường bệnh... Càng hiểu biết
và yêu mến mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, chúng ta càng hiểu biết và
yêu mến cách trọn vẹn hơn mầu nhiệm Chúa Cứu Thế, Người Con rất yêu dấu của Đức
Mẹ.
Giáo Hội mừng lễ
Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm Dương lịch,cũng là ngày cầu nguyện cho hòa bình
thế giới như một nhắc nhớ việc chiêm ngưỡng Mẹ là một Tạo Vật mới tinh tuyền
của Thiên Chúa, một Evà mới khởi đầu một thời đại mới, một tạo dựng mới. Kỷ
nguyên cứu độ đã khởi sự qua việc Chúa Giêsu nhập thể trong cung lòng Đức Mẹ
sau lời xin vâng. Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu thế để bắt đầu kỷ nguyên
cứu độ. Nếu Evà cũ đã bất tuân để vùi lấp con người trong khổ đau và sự chết,
thì Đức Mẹ với tâm tình xin vâng đã đưa Chúa Giêsu đến với nhân loại mang lại
sự sống và tình yêu. Từ đây nhân loại sẽ bước đi trong ánh sáng cứu độ. Chúa
Giêsu vị Vua Thái Bình, Hoàng Tử Bình An đã đi vào lòng thế giới, để thiết lập
vương quốc Nước trời qua Mẹ Maria.
Lễ Mẹ Thiên Chúa
kết thúc tuần Bát Nhật Giáng Sinh làm tỏa sáng vẻ đẹp kỳ diệu của tình yêu cứu
độ. Ngôi Hai đã vâng phục nhập thể cứu độ nhân loại. Với tiếng xin vâng, Đức
Maria làm Mẹ Ngôi Lời nhập thể và làm Mẹ hết thảy những ai được tháp nhập vào
thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ
đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Xin cho chúng con
luôn biết noi gương Mẹ, gắn bó cùng Chúa trọn đời. Amen.
Lm Giuse Nguyễn
Hữu An
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT Lễ Mẹ Thiên Chúa
Lời Chúa: Ds 6,22-27; Gl 4,4-7; Lc 2,16-21
Tài liệu về Lời Chúa
***********************************************
Thánh Ý Thiên Chúa
Giáo Hội Công giáo có
một lòng sùng kính Mẹ Maria một cách đặc biệt. Mẹ đã được ca ngợi trong phụng
vụ với nhiều tước hiệu khác nhau. Một trong những tước hiệu tuyệt vời nhất, đó
là tước hiệu Mẹ Thiên Chúa. Tước hiệu này phát sinh từ niềm tin của Giáo Hội
nơi Chúa Giêsu, người con sinh ra từ cung lòng Mẹ, là Con Thiên Chúa làm người.
Ngài là người nhưng đồng thời cũng là Thiên Chúa.
Đoạn Tin mừng sáng
hôm nay ghi lại quang cảnh các mục đồng đã được chứng kiến tại Bêlem trong đêm
Chúa Giáng sinh. Một quang cảnh xem ra thật bình thường: Một hài nhi vấn tã đặt
nằm trong máng cỏ bên cạnh Mẹ Maria và thánh Giuse. Nhưng đoạn Tin mừng cũng
gợi lên một cái gì khác thường khiến cho Mẹ Maria đã phải ghi nhớ và suy niệm
trong lòng.
Quả thật, Tin mừng đã
nhiều lần nói đến mối quan hệ giữa Mẹ Maria và Chúa Giêsu, đồng thời nhấn mạnh
cho thấy mối quan hệ ấy không phải chỉ là mối quan hệ theo huyết thống. Đức
Maria là Mẹ của Chúa Giêsu không phải chỉ vì Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu tại hang
đá Bêlem, đã bú mớm và nuôi dưỡng Ngài tại Nagiarét, mà hơn thế nữa vì Mẹ chính
là người đã lắng nghe và thực hiện lời Chúa.
Trước những việc lạ
lùng Chúa đã làm và nhất là trước giáo huấn của Ngài, một người phụ nữ đã ca
tụng người mẹ đã cưu mang Ngài và đã cho Ngài bú. Nhưng Chúa Giêsu đã mời người
phụ nữ ấy đi xa hơn điều bà đang nghĩ.
Đối với Chúa Giêsu,
sợi dây thắt chặt Ngài với Đức Maria, đó chính là lòng tin, lòng mến được thể
hiện một cách cụ thể qua việc lắng nghe và thực hiện lời Chúa.
Một lần khác, có
người nhắc nhở với Chúa Giêsu là có Mẹ và anh em Ngài tới kiếm Ngài. Chúa Giêsu
đã lợi dụng dịp này để cho người ta thấy mối quan hệ Ngài chờ đợi nơi mọi người
đó chính là lòng tin, sự đồng tâm nhất trí với hành động và lời giảng dạy của
Ngài. Đối với Chúa Giêsu không có sự biệt đãi theo huyết thống, theo nhãn hiệu,
theo tước vị hay theo một tiêu chuẩn nào người ta có thể lãnh nhận một cách máy
móc.
Đã hơn một lần người
Do Thái được gọi vào cương vị là con cái Abraham, nhưng Ngài đã thẳng thắn trả
lời với họ: Cương vị ấy không hơn gì một hòn đá. Người ta cũng đã nại vào tước
vị là dân riêng của Chúa, của giao ước, nhưng Chúa Giêsu cũng đã cho thấy việc
nại vào tước vị ấy quả là uổng công. Chẳng phải vì Ngài muốn đi ngược lại với
những gì Cha Ngài đã giao ước, mà vì Ngài muốn đi vào cái cốt lõi của giao ước:
Thực hiện thánh ý của Thiên Chúa.
Mối quan hệ chính yếu
Chúa Giêsu muốn thiết lập, đó chính là mối quan hệ của việc thực thi lời Chúa,
bất luận người đó là ai, dù là người Samaria mà dân Do Thái vốn coi rẻ, cho là
hạng lai căng, lạc đạo, nhưng đã biết chăm sóc cho kẻ bị cướp đánh trọng
thương, vứt bỏ bên lề đường, hay đã cho kẻ đói có cái ăn, kẻ khát có cái uống,
kẻ trần truồng có cái mặc. Những việc làm nằm trong ý của Chúa thì người đó đã
ở trong quan hệ cứu chuộc với Chúa.
Mừng lễ Mẹ Thiên
Chúa, chúng ta cũng nhìn lại mối quan hệ của chúng ta đối với Đức Kitô. Bí tích
Rửa tội và tất cả những bí tích chúng ta lãnh nhận một cách máy móc không đủ để
đặt chúng ta vào trong quan hệ với Đức Kitô. Mang danh hiệu là người Kitô hữu,
có tên trong sổ rửa tội mà thôi chưa đủ, bởi vì chúng ta chỉ thực sự gắn bó với
Ngài khi lắng nghe và thực thi ý Chúa, bởi vì như lời Chúa đã khẳng định: Chỉ
kẻ nào làm theo thánh ý Thiên Chúa, thì mới là mẹ, là anh chị em với Ngài mà
thôi.
Mẹ Thiên Chúa
Có một cô gái, sau
khi tham dự một khóa tĩnh tâm, đã kể lại về đời mình như sau: Ngay từ hồi còn
bé, tôi đã lâm vào một tình trạng lo âu sợ hãi. Cố gắng lớn lao nhất của tôi
hiện nay là vượt thắng nỗi lo âu sợ hãi ấy. Tất cả đều do người mẹ.
Phải, ngay từ những
thánh năm ấu thơ, không hiểu vì lý do gì, bà luôn đối xử với tôi một cách
nghiệt ngã. Hết đánh đập lại đe loi, khiến tôi bị mặc cảm. Và nỗi lo âu sợ hãi
cùng với thời gian cứ tăng lên mãi. Cho đến hôm rồi, sau khi nghe một bài
giảng, tôi tình cờ bước vào nhà thờ. Ở đó có bức tượng Mẹ Maria, và đó là lần
đầu tiên tôi nhìn ngắm bức tượng Mẹ thật kỹ.
Thoạt tiên, tôi bực
bội, giận dữ muốn bỏ ngay ra ngoài, nhưng rồi một cái gì đó đã lôi kéo tôi đến
quỳ dưới chân Mẹ. Úp mặt vào lòng bàn tay và tôi đã khóc. Sau đó, tôi cảm thấy
tâm hồn mình nhẹ nhõm và mong ước được làm một đứa trẻ, một người con bé bỏng,
đầy tin tưởng và phó thác. Đồng thời tôi cũng cảm nhận được tình yêu mà Mẹ
Maria đã dành cho tôi, khiến tôi muốn thực sự tha thứ cho người mẹ ruột của tôi
những gì đã xảy ra trong dĩ vãng.
Từ câu chuyện trên
chúng ta đi vào tâm tình của ngày lễ kính Mẹ Thiên Chúa và chúng ta sẽ suy nghĩ
về hai điểm.
Điểm thứ nhất: Đức Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa mà
ngài còn là mẹ thật của mỗi người chúng ta nữa. Từ trời cao, Mẹ luôn sẵn sàng
giúp đỡ chúng ta trong mọi cảnh huống cuộc đời.
Điểm thứ hai: Đức Maria cũng chính là khuôn mẫu để chúng ta
noi theo, nhất là về thái độ tín thác vào Chúa.
Thực vậy, khi sứ thần
báo tin Mẹ sẽ sinh con bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, mặc dù biết rằng việc
này có thể làm cho thánh Giuse buồn phiền và lo nghĩ, nhưng Mẹ vẫn vững tin và
phó thác vào Chúa. Rồi khi nghe các mục đồng kể lại lời các thiên thần. Mặc dù
không hiểu lắm, nhưng Mẹ vẫn tín thác vào Chúa. Khi nghe ông già Simeon nói
tiên tri: Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu trái tim Bà. Lần này Mẹ Maria cũng chẳng
hiểu rõ ý nghĩa lời tiên tri, nhưng Mẹ vẫn phó thác vào Chúa. Rồi khi tìm thấy
Chúa và nghe Chúa trả lời: Mẹ không biết con phải lo việc Cha con sao? Một lần
nữa Mẹ Maria chẳng hiểu gì cả nhưng Mẹ vẫn tin tưởng nơi Chúa.
Và ngày nay, Mẹ luôn
sẵn sàng giúp chúng ta sống tin tưởng và phó thác vào tình thương của Chúa.
Chẳng hạn là những bậc cha mẹ, chúng ta đã cặn kẽ dạy bảo, ra sức làm gương
sáng mà con cái vẫn khô khan nguội lạnh ngang bướng Và như vậy, chỉ còn một
phương cách là tiếp tục cầu nguyện và phó thác. Chính Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta
làm điều này.
Là một thanh niên,
chúng ta lo lắng về tương lai, không hiểu những dự tính của mình là gì và sẽ đi
về đâu? Chúng ta đã bàn bạc, đã cầu nguyện mà sao vẫn còn mù mịt. Vậy thì hãy
tiếp tục cầu nguyện và phó thác, chính Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta trong việc
này.
Là một người đang
chao đảo về đức tin với bao nhiêu những thắc mắc, những khó hiểu. Mặc dù đã cầu
nguyện nhưng chúng ta vẫn hoài nghi liệu có Chúa hay không? Vậy thì hãy cầu
nguyện và phó thác Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta thực hiện điều này.
Lạy Đức Maria, là Mẹ
Thiên Chúa và Mẹ chúng con, xin hãy giúp con trong mọi cảnh huống của cuộc đời.
CƯU MANG VÀ SINH HẠ MỘT THẾ GIỚI MỚI
Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Hôm nay các mục đồng
vào hang đá và nhận thấy một Hài Nhi sơ sinh nằm trong máng cỏ. Hài Nhi Giêsu
chào đời khai sinh một thế giới mới. Đức Mẹ đã sinh ra một con người mới.
Đức Mẹ sinh ra một
thế giới mới để sửa chữa thế giới cũ do Evà sinh ra. Thế giới cũ của bà Evà là một thế giới đổ vỡ.
Từ chỗ bất tuân lệnh Thiên Chúa, thế giới đã đi đến chỗ bất hoà với nhau: ông
Adong đổ lỗi cho bà Evà, bà Evà đổ lỗi cho con rắn. Không những bất hoà với
nhau mà còn bất hoà cả với súc vật, cỏ cây, ruộng đất. Và từ chỗ bất hoà đi đến
bất hạnh: Anh em Cain và Aben giết lẫn nhau. Con người phân tán, chia rẽ. Thế
giới đổ vỡ này phát sinh từ lòng kiêu ngạo và thói ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân
mình.
Thế giới mà Đức Mẹ
sinh ra là một thế giới vâng phục Thiên Chúa. Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa
Cha nên đã sinh xuống thế làm người và từ bỏ ý riêng, sẵn sàng vâng phục thánh
ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá. Đức Mẹ vâng phục
thánh ý Thiên Chúa khi thưa “Xin vâng” với thiên thần. Thánh Giuse vâng phục
Thiên Chúa nên trở về nhận Đức Mẹ làm bạn. Các mục đồng vâng theo lời thiên
thần đến hang Bêlem tìm Chúa. Ba Vua vâng phục theo ánh sáng ngôi sao đến thờ
lạy Chúa.
Thế giới mà Đức Mẹ
sinh ra là một thế giới hài hoà. Sự hài hoà không phải chỉ có giữa Chúa Giêsu với Đức Mẹ và Thánh
Giuse. Cảnh Chúa Giêsu nằm giữa thiên nhiên, trong hơi ấm của bầy chiên bò, với
đoàn mục đồng và Ba Vua quây quần chung quanh nói lên một thế giới chung sống
hoà bình. Chúa sống hoà hợp với trời đất, với con người và với thiên nhiên. Con
người sống hoà hợp với Chúa và với nhau.
Thế giới mới mà Đức
Mẹ sinh ra là một thế giới quên mình. Chúa Giêsu đã quên địa vị mình là Thiên Chúa để
xuống ở với nhân loại. Chúa Giêsu đã quên mình là Đấng thánh thiện để đến với
người tội lỗi. Chúa đã quên mình là Thầy, là Cha, nên quỳ xuống rửa chân cho
các môn đệ, các con cái của mình. Và nhất là Chúa đã quên mình là vô tội đến
nỗi sẵn lòng hiến thân chịu chết cho loài người tội lỗi. Thánh Giuse và Đức Mẹ
quên mình để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Mục đồng quên mình, giữa đêm
khuya lạnh lẽo, bỏ giấc ngủ đến tìm Chúa. Ba Vua quên mình bỏ nhà cửa tiện
nghi, lên đường, chịu vất vả khó nhọc đến thờ lạy Chúa. Sự quên mình, quan tâm
lo lắng chăm sóc cho người khác đã khai sinh một thế giới mới chan chứa tình
yêu thương và ấm áp sự hoà thuận. Đó chính là cảnh thái bình đáng mong ước.
Ngày đầu năm mới,
Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn thế giới luôn được
sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới
mới thực sự có hoà bình.
Ngày đầu năm mới,
Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn đặt thế giới vào tay
Đức Mẹ để thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong
Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình.
Ngày đầu năm mới,
Giáo Hội cầu nguyện cho hoà bình thế giới, mong ước con người hãy biết sống hài
hoà với nhau trong vâng phục Thiên Chúa, trong quên mình vì người khác để có
một nền hoà bình thực sự trường cửu. Vì hoà bình không chỉ là vắng bóng chiến
tranh nhưng còn là con người sống hài hoà trong tình tương thân tương ái.
Ngày đầu năm mới,
Giáo Hội cũng mời gọi tất cả mọi người chúng ta hãy cùng với Đức Mẹ cưu mang và
góp phần sinh hạ một thế giới mới. Cưu mang chắc chắn phải nặng nhọc. Sinh hạ
chắc chắn phải đớn đau. Nhưng nếu mỗi người đều noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ,
Thánh Giuse, Ba Vua, các mục đồng và cả súc vật trong hang đá Bêlem biết vâng
phục Thiên Chúa, biết sống hài hoà và quên mình thì mới mong kiến tạo được một
nền hoà bình viên mãn.
Lạy Chúa, xin hãy
dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con trở nên con người mới, góp phần
cưu mang và sinh hạ một thế giới mới như lòng Chúa mong ước. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có mơ ước một
thế giới mới không? Thế giới đó phải bắt đầu từ đâu trước? Từ chính bạn hay từ
người khác?
2. Thế giới của Đức
Mẹ có gì khác thế giới của bà Evà?
3. Đầu năm mới này,
bạn dự tính làm gì để đổi mới thế giới chung quanh bạn?
Nhân loại mới
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Ngày đầu năm mới là
một ngày thiêng liêng. Ai cũng mong ước năm mới mọi sự sẽ đổi mới. Sẽ có nhiều
thuận lợi hơn trong cuộc sống. Nhất là được sống bình an. Các bài Sách Thánh
đặc biệt bài Tin mừng hôm nay mời gọi ta hãy tìm đổi mới trong Chúa Giêsu.
Chính Người sinh ra một nhân loại mới. Đó là nhân loại được chúc phúc, được cứu
độ và sống trong an bình.
Đó là một nhân loại
được chúc phúc. Khi Chúa
Giêsu ra đời nhân loại được chúc phúc. Có nhiều dấu hiệu loan báo phúc lành của
Chúa. Một làn ánh sáng từ trời soi sáng cánh đồng Bêlem. Xuất hiện muôn vàn
thiên sứ hát mừng trên trời cao. Chúa Giêsu đem phúc lành của Thiên Chúa đến
cho nhân loại. Chúa Giêsu chính là phúc lành tuyệt hảo của Thiên Chúa. Chúa
Giêsu là món quà cao quí nhất Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Mang lấy bản
tính nhân loại, Chúa Giêsu làm cho nhân loại được chúc phúc bằng những phúc
lành phong phú nhất của Thiên Chúa.
Đó là một nhân loại
được cứu độ. Con trẻ được
đặt tên là Giêsu. Tên Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Chúa Giêsu đi vào tận
những tù ngục giam hãm để giải cứu con người. Người sinh ra làm một trẻ thơ để
nâng đỡ những con người bé nhỏ. Người sinh trong cảnh thiếu thốn để nâng lên
những ai nghèo hèn. Người bị bạo vương Hêrôđê săn đuổi để đứng về phía những
người bị áp bức. Người sinh ra trong chuồng súc vật tăm tối để trân trọng những
ai bị loại trừ. Người là Con Thiên Chúa xuống thế làm người để nâng con người
lên làm con Thiên Chúa. Thật là một cuộc đổi mới không ai có thể ngờ tới.
Đó là một nhân loại
sống trong hòa bình. Đêm Chúa
Giáng Sinh trời đất giao hòa. Trời Bêlem sáng lên. Thiên nhiên trở nên xinh
đẹp. Các thiên thần làm đầy không gian bằng những bài ca tuyệt diệu của cõi
thiên đàng. Các mục đồng vui tươi hớn hở loan truyền tin vui. Cả một bầu khí
hòa bình tỏa ra chung quanh Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến tái lập trật tự. Trật tự
đó là con người và vạn vật vâng phục Thiên Chúa. Luật lệ phát xuất từ con người
luôn gây ra tranh chấp. Vì con người chỉ nghĩ đến tư lợi hạn hẹp của riêng
mình. Mọi luật lệ muốn công bằng và lâu bền phải qui về Thiên Chúa. Thiên Chúa
ban hòa bình thực sự. Hòa bình trong công lý. Công lý là những người bé nhỏ,
yếu ớt phải được tôn trọng. Chúa Giêsu tự nguyện làm trẻ nhỏ sơ sinh chính là
một nền hòa bình trong vâng phục Thiên Chúa và là công lý kêu gọi kính trọng
bảo vệ những kẻ yếu hèn.
Hòa bình như thế
không phải là một trật tự im lìm. Trật tự im lìm chỉ có trong nghĩa địa hay nhà
tù. Đó là trật tự chết chóc, tàn lụi. Trái lại hòa bình là một năng động, là
một sức sống, là sự phấn đấu không ngừng.
Ta hãy chiêm ngắm tấm
gương của các mục đồng. Các mục đồng đã biết lắng nghe sứ điệp hòa bình dù giữa
đêm hôm mùa đông đang say ngủ. Nghe biết sứ điệp hòa bình rồi, các mục đồng vội
vã đi tìm Chúa Giêsu là nguồn mạch hòa bình, dù phải bỏ giấc ngủ, dù phải đi
ngoài trời lạnh giá. Sau khi gặp Chúa, các mục đồng ra đi loan truyền sứ địêp
hòa bình cho mọi người. Đó chính là những phấn đấu không ngừng cho hòa bình.
Chúng ta đặt năm mới
này vào tay Đức Mẹ. Xưa Đức Mẹ đã sinh ra Đấng Cứu Thế mở đầu một nhân loại
mới, nay xin Đức Mẹ cũng cho năm mới này được chúc phúc, được cứu độ và được
hòa bình. Chúng ta cũng cầu nguyện cho mọi người biết noi gương mục đồng, luôn
lắng nghe sứ điệp hòa bình, luôn phấn đấu đi tìm đến nguồn mạch hòa bình và luôn
phấn khởi loan tin mừng hòa bình.
Lạy Đức Mẹ là Mẹ
Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con. Amen.
Đức Maria Mẹ Thiên Chúa
(Bài giảng của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, Lễ Đức
Maria Mẹ Thiên Chúa, 01.01.2010)
Trong ngày đầu năm
mới và cũng là Ngày Quốc Tế Hòa Bình, chúng ta vui mừng cử hành lễ Đức Maria
rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi chúng ta đang cử
hành Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, sinh hạ bởi Đức Trinh Nữ Maria, hòa bình đích
thực của chúng ta! Hướng về tất cả anh chị em đang qui tụ nơi đây, đại diện cho
mọi dân tộc trên thế giới, đại diện cho Giáo hội Rôma và Giáo hội hoàn vũ, đại
diện cho các linh mục và tín hữu, cũng như tất cả mọi người đang hiệp thông với
chúng ta qua các phương tiện truyền thanh, truyền hình, tôi muốn lặp lại lời
cầu chúc của Cựu Ước: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị
em (x. Ds 6,26). Dưới ánh sáng Lời Chúa, hôm nay, tôi muốn triển khai đề tài:
dung mạo của Thiên Chúa và dung mạo của con người, đề tài này cống hiến cho
chúng ta chìa khóa để giải thích những vấn nạn hòa bình trên thế giới.
Trong bài đọc I –
trích từ sách Dân số và trong Thánh vịnh đáp ca, chúng ta đã nghe một vài cách
diễn tả ẩn dụ về dung mạo của Thiên Chúa: “Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn
đến anh chị em và dủ lòng thương anh chị em (Ds 6,25); “Nguyện Chúa Trời dủ
thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn
cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 66/67,2-3).
Dung mạo diễn tả rõ ràng nhất về con người, qua đó tình cảm, suy nghĩ và những
ý định sâu kín trong tâm hồn được bày tỏ. Thiên Chúa vô hình, theo bản tính của
Ngài, nhưng Kinh Thánh vẫn ‘gán’ cho Ngài một “dung mạo”. Trong Kinh Thánh,
kiểu nói “tỏ dung nhan” diễn tả lòng nhân từ của Thiên Chúa, trong khi cách nói
Thiên Chúa “ẩn mặt” ám chỉ Thiên Chúa nổi giận. Sách Xuất Hành nói: “Đức Chúa
đàm đạo với ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau” (Xh 33,11),
Ngài hứa sẽ luôn luôn ở bên ông: “Dung nhan của Ta sẽ đi cùng ngươi, và Ta sẽ
cho ngươi được nghỉ ngơi” (Xh 33,14). Các Thánh Vịnh diễn tả, các tín hữu là
những người tìm kiếm dung nhan Thiên Chúa (x. Tv 26/27,8; 104/105,4). Trong cử
hành phượng tự, các Thánh Vịnh diễn tả nỗi khát khao của con người được chiêm
ngắm dung nhan Thiên Chúa (Tv 42,3), “người chính trực” sẽ được “chiêm ngắm
dung nhan Thiên Chúa” (Tv 10/11,7).
Có thể đọc toàn bộ
Thánh Kinh như là một quá trình tiệm tiến, qua đó Thiên Chúa tỏ dung mạo của
Ngài ra cho con người và Ngài đã bày tỏ một cách trọn vẹn trong Chúa Giêsu
Kitô. “Khi đến thời viên mãn – trong bài đọc II thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta
– Thiên Chúa đã sai Con của Ngài (Gl 4,4) và ngay lập tức thánh Tông Đồ nói
thêm “sinh bởi người phụ nữ và sinh dưới chế độ lề luật”. Thiên Chúa đã nhận
lấy dung mạo của một con người và Thiên Chúa tỏ dung mạo của Ngài trong Người
Con của Đức Trinh Nữ Maria. Vì lý do đó, chúng ta tôn kính Đức Maria với tước
hiệu cao trọng nhất “Mẹ Thiên Chúa”. Đức Maria đã gìn giữ trong tâm hồn mầu
nhiệm thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa và Mẹ là người đầu tiên được chiêm ngưỡng
dung mạo Thiên Chúa, Đấng đã trở thành người phàm trong lòng Mẹ. Người mẹ có
mối tương quan đặc biệt, duy nhất và đôi khi độc quyền với đứa trẻ mới được
sinh ra. Dung mạo đầu tiên mà đứa trẻ nhìn thấy là người mẹ, cái nhìn này quyết
định mối tương quan của đứa trẻ với cuộc sống, với chính nó, với người khác và
với Thiên Chúa. Cái nhìn này cũng quyết định tại sao đứa trẻ có thể trở thành
“người con của hòa bình” (Lc 10,6).
Trong truyền thống
Bizantinô, giữa nhiều bức họa Đức Trinh Nữ Maria, có một bức họa được gọi là
Đức Maria “ngọt ngào, êm dịu”, trong bức họa đó gương mặt của Hài Nhi Giêsu áp
sát gương mặt Đức Maria. Hài Nhi Giêsu nhìn Mẹ Maria. Đối với chúng ta, bức họa
này qui chiếu về Đức Maria, người đã cầu nguyện liên lỉ và hằng tuân giữ Lời
Chúa, qui chiếu về sự “êm ái, ngọt ngào” của Thiên Chúa từ trời cao đã giáng
trần và cư ngụ trong lòng Mẹ và nhập thể trong Người Con mà Mẹ đang ẵm trên
tay. Trong bức họa này, chúng ta có thể chiêm ngắm một vài nét phác họa nào đó
về chính Thiên Chúa: dấu chỉ tình yêu vô biên, vì tình yêu đó Thiên Chúa đã
“ban Người Con duy nhất của Ngài” cho nhân loại (Ga 3,16). Nhưng bức họa này
cũng cho chúng ta biết, trong Đức Maria, dung mạo của Giáo hội chiếu tỏa ánh
sáng của Chúa Kitô cho chúng ta và cho toàn thế giới; qua Đức Maria, Giáo hội
gửi đến mỗi người Tin Mừng: “Anh em không còn là nô lệ nữa, nhưng là con cái”
(Gl 4,7) – như chúng ta nghe đọc trong thư của thánh Phaolô.
Anh em Giám mục, Linh
mục, quí vị Đại sứ và các bạn thân mến! Suy tư về mầu nhiệm dung mạo của Thiên
Chúa và dung mạo của con người là con đường ưu tiên dẫn đến hòa bình. Thật vậy,
con đường này khởi đầu bằng cái nhìn tôn trọng con người, nhìn nhận phẩm giá
của người khác dù người đó thuộc bất cứ mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ hay tôn
giáo nào. Nhưng ai, nếu không phải là Thiên Chúa có khả năng bảo đảm một cách
“sâu xa nhất” dung mạo của con người? Thật ra, chỉ khi nào chúng ta có Thiên
Chúa trong tâm hồn, chúng ta mới có thể đón nhận dung mạo của người anh em xứng
hợp với phẩm giá của họ, nghĩa là không phải như phương tiện nhưng như là mục
đích, không phải như đối thủ hay kẻ thù nhưng như một “cái tôi” khác của chính
tôi, một khía cạnh không cùng của mầu nhiệm con người. Nhận thức của chúng ta
về thế giới, đặc biệt về anh chị em đồng loại, căn bản phụ thuộc vào sự hiện
diện của Chúa Thánh Thần trong chúng ta. Đây là một sự “cộng hưởng”: Ai có tâm
hồn vô cảm, người ấy không thể nhận ra những giá trị cao cả nơi anh chị em của
mình. Trái lại, nếu chúng ta cư ngụ trong Thiên Chúa, chúng ta sẽ dễ dàng nhận
ra sự hiện diện của Ngài trong thiên nhiên, đặc biệt nơi anh chị em, mặc dù,
đôi khi dung mạo của con người đã bị méo mó do sự dữ, do đời sống khó khăn,
khiến chúng ta không thể nhận ra sự “hiển dung” của Thiên Chúa nơi dung mạo anh
chị em của mình. Hơn nữa, để hiểu nhau và tôn trọng nhau như là anh chị em,
chúng ta cần phải liên hệ đến dung mạo của Thiên Chúa, cha chung của tất cả
chúng ta, Đấng đã yêu mến tất cả chúng ta ngay cả khi chúng ta còn nhiều sai
lỗi và bất toàn.
Khi còn nhỏ tuổi,
điều quan trọng đối với trẻ em là được giáo dục biết tôn trọng người khác, ngay
cả sự khác biệt của họ. Trong các lớp học phổ thông qui tụ trẻ em đến từ nhiều
quốc gia, ngay cả trong các lớp học mà các em cùng chung một quốc gia, dung mạo
của các em như là một lời tiên báo về viễn ảnh một nhân loại mà chúng ta gọi
là: gia đình của mọi gia đình, hay gia đình nhân loại. Những em nhỏ tuổi hơn
trong số những em này lại là những em gợi lên trong chúng ta mối tình huynh đệ
ngọt ngào, êm dịu nhất dù giữa các em có sự khác biệt, chúng khóc cười như
nhau, chúng có nhu cầu như nhau, chúng liên kết với nhau một cách tự nhiên,
chúng chơi chung với nhau… Dung mạo của trẻ thơ như là một phản ánh dự phóng
của Thiên Chúa đối với thế giới. Tại sao chúng ta làm mất đi nụ cười của chúng?
Tại sao chúng ta làm vẩn đục trái tim của chúng? Rất tiếc, bức họa Đức Maria
“êm dịu” đang hiện diện giữa hình ảnh của biết bao nhiêu trẻ em cũng như mẹ của
các em đang đau khổ vì chiến tranh và bạo lực. Họ bị biến thành những người lưu
vong, tị nạn, bị bó buộc phải di cư. Dung mạo của họ bị hủy hoại vì đói khát và
bệnh tật, bị biến dạng vì đau khổ và thất vọng. Dung mạo của các trẻ em vô tội
là hồi chuông báo động không lời đối với trách nhiệm của chúng ta. Đối diện với
hoàn cảnh của trẻ em vô phương tự vệ, tất cả những lý lẽ sai trái biện minh cho
chiến tranh và bạo lực không có lý do đứng vững. Chúng ta phải xây dựng hòa
bình bằng cách loại bỏ mọi loại vũ khí, cùng nhau xây dựng một thế giới xứng
hợp hơn với nhân phẩm con người.
Trong sứ điệp của tôi
nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới lần thứ XLIII: “Nếu bạn muốn xây dựng hòa bình, bạn
hãy bảo tồn thiên nhiên”, sứ điệp đặt trọng tâm trên phương diện dung mạo của
Thiên Chúa và dung mạo của con người. Thật vậy, chúng ta có thể khẳng định, con
người có khả năng tôn trọng thiên nhiên bằng cách thấu hiểu thiên nhiên, nếu
không con người sẽ không tôn trọng chính mình và những sự vật chung quanh mình,
không tôn trọng môi trường sống và không tôn trọng thiên nhiên. Ai biết nhận ra
trong vũ trụ, những phản ánh dung mạo vô hình của Đấng Tạo Hóa, người đó sẽ yêu
mến thiên nhiên và nhận ra được những giá trị biểu tượng của chúng. Đặc biệt,
trong các Thánh Vịnh, chứa đựng những chứng từ rất phong phú về mối tương quan
giữa con người với thiên nhiên: trời đất, biển khơi, núi đồi, sông ngòi, sinh
vật….Tác giả thánh vịnh đã thốt lên: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình
vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan
tràn mặt đất” (Tv 104/103,24).
Đặc biệt, phương diện
“dung mạo” mời gọi chúng ta dừng lại trên đề tài mà trong sứ điệp Ngày Hòa Bình
Thế Giới, tôi đã gọi là “môi sinh của nhân loại”. Có một mối liên hệ mật thiết
giữa việc tôn trọng con người và bảo tồn thiên nhiên. “Trách nhiệm đối với
thiên nhiên bắt nguồn từ trách nhiệm đối với từng người và đối với toàn thể
nhân loại” (số 12). Nếu con người không được tôn trọng, môi trường sống của con
người cũng không được tôn trọng; nếu văn hóa hướng đến chủ nghĩa hư vô, nếu
không đề ra những chương trình cụ hành động cụ thể, nếu như không thực hiện
những chương trình đã đề ra, thiên nhiên sẽ bị hủy hoại. Thật vậy, có một mối
liên hệ hỗ tương giữa dung mạo của Thiên Chúa và “dung mạo” của môi sinh: “Khi
môi sinh của nhân loại được tôn trọng trong đời sống xã hội, môi trường sinh thái
được bảo tồn” (nt; Bác Ái Trong Chân Lý, s. 51). Một lần nữa, tôi muốn nhấn
mạnh đến tầm quan trọng của việc giáo dục về môi sinh, cũng như thúc đẩy truyền
thông một cách sâu rộng hơn về “trách nhiệm đối với môi sinh”, đặt nền tảng
trên việc tôn trọng con người, quyền lợi và những nghĩa vụ căn bản của họ. Chỉ
có như thế, nỗ lực đối với môi sinh mới có thể thực sự mang lại hòa bình và xây
dựng hòa bình.
Anh chị em thân mến,
trong mùa Giáng sinh, chúng ta nghe một thánh vịnh, giữa nhiều thánh vịnh khác,
diễn tả việc Chúa đến đã biến đổi thiên nhiên và khai mở một lễ hội của vũ trụ.
Thánh vịnh này khơi mào với lời mời gọi toàn thể vũ trụ hãy dâng lời ca ngợi
Chúa: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa
cầu” (Tv 95/96,1). Nhưng có một điều chắc chắn, lời kêu gọi này hướng đến niềm
vui của toàn thể nhân loại: “Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang
cùng muôn hải vật, ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ, hỡi cây cối rừng xanh
(Tv 95/96,11-12). Ngày lễ của đức tin trở thành ngày lễ của con người và của
thiên nhiên. Lễ giáng sinh diễn tả ý nghĩa đó, qua việc trang trí cây cối,
đường xá, nhà cửa. Tất cả trở nên rực rỡ vì Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng
ta. Đức Trinh Nữ Maria tỏ Hài Nhi Giêsu cho các mục đồng đang vui mừng, hân
hoan ca tụng Thiên Chúa (x. Lc 2,20). Giáo hội tiếp tục giới thiệu mầu nhiệm đó
cho con người mọi thời, bày tỏ cho họ dung mạo của Thiên Chúa, với ân phúc của
Ngài, họ có thể tiến bước trên con đường hòa bình.
+ Đức Thánh Cha
Bênêđictô XVI
Mẹ tất cả mọi người
Lm. Mark Link
Chủ đề: "Đức
Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa mà còn là Mẹ của hết thảy chúng ta."
Cách đây nhiều năm,
Fulton Oursler là biên tập viên của một tạp chí nội địa được các độc giả hoan
nghênh nhiệt liệt, câu chuyện đàng sau sự thành công của anh rất hấp dẫn. Nhưng
câu chuyện anh tìm kiếm Thiên Chúa còn hấp dẫn hơn nữa.
Với tư cách một phóng
viên cho tờ báo Baltimore American, đã dự những buổi họp của giáo phái
Methodist, các hội nghị của gíao phái Baptist, và những buổi sinh hoạt ngoài
trời. Anh cùng dự cả những buổi họp để chờ các vong hồn xuất hiện trong phòng
tối. Anh nói: “vào tuổi 30, ngoài những chuyện ấy ra, tôi còn tự nhận mình là
người theo thuyết bất khả tri (agnostic). Nhưng thay vì tìm được bình an, sự vô
tín ngưỡng khiến anh cảm thấy tâm hồn mình hoàn toàn trống trải và bất hạnh. Sự
trống trải bất hạnh ấy về sau lại biến thành một nỗi u uất gặm nhấm tâm hồn
anh. Thế rồi một ngày kia, cơn khủng hoảng trầm trọng đó đã làm cho gia đình
anh phải lo sợ. Anh cần được cứu giúp. Nhưng sự cứu giúp mà anh cần là một thứ
cứu giúp mà bạn bè anh không thể làm được cho anh. Anh không biết cầu cứu ai,
kể cả Thượng Đế, vì anh có tin vào Ngài đâu.
Tại New York, vào một
ngày lộng gío, anh rảo bước trên đại lộ Thứ Năm. Tới nhà thờ chính toà, anh
dừng lại, ngắm nhìn ngôi giáo đường và suy nghĩ. Anh đang tuyệt vọng. Mấy phút
sau, anh định thần lại bước lên các bậc thang, vào bên trong nhà thờ và ngồi
xuống, sau một vài phút tập trung tư tưởng, anh cúi đầu xuống và xin Thiên Chúa
ban đức tin cho anh. Anh ngồi đó một lát rồi đứng dậy. Anh tới gian nhà nguyện
của Đức Mẹ ở trong giáo đường. Anh bước vào trong, quì gối xuống, và cầu nguyện
như sau:
“Mười phút nữa hay
sớm hơn, tôi có thể thay đổi ý định, tôi có thể chế diễu tất cả những việc này
và lại trở lại với sự sai lầm của tôi. Vì thế xin đừng chú ý đến tôi nữa. Vì
trong giây phút ngắn ngủi này, tôi cảm thấy tâm hồn bình an. Đây là cố gắng lớn
nhất của tôi, xin Ngài hãy khấng nhận và quên đi những gì khác. Và nếu Ngài
thực sự có mặt tại đây xin hãy cứu giúp tôi”.
Vào giây phút đó, anh
nói, bắt đầu có một sự biến đổi kỳ lạ trong cuộc đời anh. Cuối cùng, sự biến
đổi đó đã khiến anh trở nên một Kitô hữu có một niềm tin tưởng sâu xa.
***
Việc Fulton Oursler
tìm kiếm Thiên Chúa đã kết thúc tại một giáo đường. Đời sống tâm linh và cuộc
sống mới của anh bắt đầu tại một nhà nguyện dâng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa.
Thật là một nơi thích hợp cho sự việc đó. Đức Mẹ không phải chỉ là Mẹ Thiên
Chúa. Ngài còn là Mẹ của toàn nhân loại về mặt tâm linh. Vì khi Đức Mẹ sinh
Chúa Giêsu, Ngài cũng sinh ra một nhân loại mới. Thánh Phaolô diễn tả mầu nhiệm
đó trong bài đọc II như sau:
“Khi thời gian viên
mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài xuống, sinh làm con một người nữ, và sống dưới
chế độ luật Do Thái để cứu chuộc những người sống dưới chế độ lề luật đó, hầu
chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa… và vì bạn là con của Thiên Chúa,
nên Ngài sẽ cho bạn tất cả những gì Ngài dành cho con cái Ngài”.
Bàn luận về mầu nhiệm
cao cả này, Hiến Chế về Giáo hội trong thế giới ngày nay của công đồng Vatican
II nói:
“Qua mầu nhiệm nhập
thể, một cách nào đó, Con Thiên Chúa đã tự liên kết mình với mọi người, Ngài
làm việc bằng đôi tay, suy nghĩ bằng khối óc, hành động bằng sự chọn lựa, và
yêu thương bằng trái tim loài người, sinh từ lòng Đức Maria Ngài thực sự trở
thành một người trong chúng ta hoàn toàn giống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi”.
Thật vậy, khi Đức Mẹ
sinh ra Chúa Giêsu Ngài cũng sinh ra một nhân loại mới, vì thế Đức Mẹ không
phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa, mà ngài còn là Mẹ tất cả mọi người chúng ta nữa.
Vì Đức Mẹ là Mẹ chúng
ta, nên ngài là một trạng sư bào chữa cho chúng ta rất hữu hiệu trên trời.
Không biết Đức Maria là mẹ mình, chính là không biết đến món quà mà Thiên Chúa
ban tặng chúng ta, tức tình mẫu tử của Đức Maria dành cho chúng ta.
Điều đó khiến chúng
ta nghĩ tới năm mới. Năm mới với hy vọng mới. Năm mới với cuộc đời mới. Năm mới
là cơ hội để chúng ta bắt đầu lại.
Năm ngoái là quá khứ,
đã qua rồi. Năm nay vừa mới sinh ra và ở trước mặt ta. Đó là món quà Thiên Chúa
tặng chúng ta. Những gì chúng ta làm được với món quà ấy, chính là món quà mà
chúng ta sẽ dâng lên Thiên Chúa. Thật là thích hợp khi Giáo hội chọn ngày đầu
năm để mừng kính lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Vì điều đó nhắc nhở chúng ta rằng
tình mẫu tử của Đức Maria mà bạn và tôi được Thiên Chúa ban cho một đời sống
hoàn toàn mới, một niềm hy vọng mới, thứ hy vọng mà chỉ một mình Thiên Chúa mới
có thể ban tặng. Nếu chúng ta đang tìm một quyết định cho năm mới này thì không
có một quyết định nào tốt đẹp hơn là tạo cho Đức Maria một vai trò quan trọng
hơn trong đời sống chúng ta. Và một trong những cách để thực hiện quyết định đó
là thực hiện bằng cầu nguyện.
Chúng ta có thể xin
Đức Maria bầu cử cho chúng ta như Ngài đã từng bầu cử cho biết bao những đứa
con khác của Ngài trong lịch sử. Một cách đơn giản để thực hiện điều đó là cầu
nguyện hằng ngày bằng bài kinh đặc biệt kính Đức Maria, tức kinh Kính Mừng. Một
cách khác để làm điều đó là bắt chước cách cầu nguyện của chính Đức Maria.
Trước hết, Ngài cầu nguyện bằng cách suy niệm về hoạt động của Thiên Chúa,
không phải chỉ ở trong lịch sử loài người, mà ở ngay trong cuộc sống của Ngài
nữa. Thánh Luca đã cho chúng ta một cái nhìn về cách cầu nguyện này vào cuối
bài tường thuật của Ngài về việc Đức Giêsu sinh ra: “Maria ghi nhớ tất cả những
chuyện ấy và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19). Một cách cầu nguyện khác nữa của
Đức Maria là nói với Thiên Chúa cách hồn nhiên những gì xuất phát từ trái tim
Ngài. Thánh Luca cho chúng ta một cái nhìn về cách cầu nguyện này khi mô tả Đức
Maria cầu nguyện trong cuộc viếng thăm bà Isave. Chúng ta hãy dùng lời kinh ấy
để kết thúc bài giảng hôm nay. Xin mời anh chị em im lặng cùng cầu nguyện với
tôi:
“Linh hồn tôi tán
dương Thiên Chúa,
Thần trí tôi hoan hỉ
vui mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi,
Ngài đã đoái thương
đến tôi, là tôi tớ thấp hèn của Ngài
“Kể từ nay muôn đời
sẽ khen tôi có phúc, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những việc trọng đại.
“Ngài đã giơ cánh tay
thần lực nâng những người hèn mọn lên …
“Ngài đã giữ lời đã
phán hứa với các tổ phụ…
“Ngài đã nhớ tỏ lòng
từ bi với Abrham và dòng dõi của ông tới muôn đời” (Lc 1: 46-55)
Là mẹ và là khuôn mẫu
Mark Link
Chủ đề: Đức Maria là
Mẹ chúng ta, và cũng là khuôn mẫu dạy chúng ta phải tin tưởng vào Chúa như thế
nào.
Có một linh mục được
mời tới giảng phòng cho một khoá tĩnh tâm. Các cô gái nọ trao cho ngài một lá
thư, ngài liền bỏ vào túi nhưng rồi quên béng đi. Sau khóa tĩnh tâm, ngài tìm
thấy lá thư ấy. Ngài mở ra và đọc thấy những dòng sau đây; “Con bị bệnh tâm
thần và được điều trị suốt 8 tháng nay. Sự kiện này con chỉ cho vài người thân
biết thôi. Số là khi còn bé, con bị lâm vào một tâm trạng sợ hãi khủng khiếp vì
bị người khác căm ghét, hành hạ, bạc đãi, nỗ lực lớn lao nhất của con hiện nay
là thắng vượt và chuyển biến nỗi sợ hãi ấy. Con không cần nhắc đến từng chi
tiết nhưng tựu trung nỗi sợ ấy là do nơi người mẹ của con… con có ác cảm với mọi
khái niệm về người mẹ đến nỗi con quyết tâm khước từ tình yêu của Đức Maria, Mẹ
của Chúa Giêsu. Sau khi nghe bài giảng của cha trong tuần tĩnh tâm, con đi bộ
ra ngoài, lòng cảm thấy cô đơn khủng khiếp. Con cầu xin Chúa ban ân sủng giúp
con phá đi bức tường ngăn cách khiến con không thể tin tưởng phó thác được… con
muốn khóc to lên, nhưng suốt mấy tháng trời vẫn không khóc được… chắc cha cũng
biết căn nhà nhỏ bé, tròn tròn gần cạnh nghĩa trang chứ? Con đã đến đó vì tò mò
và con mở cửa bước vào. Khi nhìn vào trong, lòng con cảm thấy sợ hãi. Ở đây có
tượng Đức Mẹ Maria. Cảm giác đầu tiên của con là muốn giận dữ bỏ đi ngay, nhưng
rồi có cái gì đó đã từ từ lôi kéo con đến quì dưới chân Ngài. Và con đã quì gối
xuống vừa gục vào vạt áo dài của Ngài vừa khóc, sau đó, con cảm thấy tâm hồn
nhẹ nhàng trong trắng, và mong ước, mình được là một đứa trẻ, một người con đầy
tin tưởng và phó thác… hơn thế nữa, con còn cảm nhận được tình yêu của một
người mẹ dành cho con khiến con nẩy sinh một ước muốn thực sự là tha thứ cho mẹ
ruột của mình”.
Câu chuyện cảm động
trên gợi lên những hình ảnh tuyệt hảo cho chúng ta trong ngày lễ Mẹ Thiên Chúa
mà chúng ta mừng hôm nay. Lễ này nêu bật hai điểm về Đức Maria. Thứ nhất: Đức
Maria là Mẹ chúng ta. Ngài không chỉ là mẹ Chúa Giêsu, Đấng sống cách đây hơn
2000 năm. Ngài còn là Mẹ chúng ta nữa. Từ trời cao, Ngài vẫn mong muốn giúp đỡ
chúng ta như một người Mẹ. Thứ đến, Đức Maria cũng là khuôn mẫu của chúng ta.
Chúng ta phải tôn sùng và bắt chước ngài. Ở đây, chúng ta chỉ cần nêu ra một
nét đặc trưng nơi Đức Mẹ, đó là Mẹ tuyệt đối tín thác vào Thiên Chúa. Khi thiên
sứ báo cho mẹ biết mẹ sẽ sinh con trai bởi phép Chúa Thánh Thần, thì Mẹ hiểu
ngay rằng việc này có thể sẽ khiến Thánh Giuse cắt đứt quan hệ bạn đính hôn với
Mẹ - và điều này chỉ chút xíu nữa là đã thực sự xảy ra - Thế nhưng Mẹ vẫn vững
tin vào chúa. Khi nghe mục đồng kể lại lời các Thiên thần, Mẹ cũng không hiểu,
nhưng lần nữa, Ngài vẫn tín thác vào Chúa, về sau, khi Mẹ và Thánh Giuse đem
hài nhi Giêsu vào đền thờ, cụ già Simêon đã nói với Mẹ: “Sầu khổ sẽ như một mũi
gươm nhọn đâm thâu qua trái tim bà” (Lc 3: 35). Lần này, Mẹ Maria cũng chẳng
hiểu rõ ý nghĩa lời trên nhưng Mẹ vẫn tín thác vào Chúa. Rồi khi lên mười hai
tuổi, Đức Giêsu ở lại trong đền thờ. Lúc gặp lại Đức Giêsu, Mẹ Maria hỏi Ngài
lý do tại sao, Ngài đáp lại: “Mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con sao?
một lần nữa, Mẹ Maria chẳng hiểu gì cả nhưng Mẹ cẫn cứ tín thác vào Chúa.
Ngày nay Mẹ Maria có
thể giúp chúng ta biết tín thác vào Chúa. Xin hãy nhớ lại câu chuyện cô gái
trong khoá tĩnh tâm nọ. Cô ta đã phải trải qua một Kinh nghiệm thời thơ ấu đầy
kinh hãi khiến cô mất hẳn niềm tin. Cô muốn tin tưởng trở lại nhưng không thể
được. Thế rồi, một ngày nọ, hoàn toàn do tình cờ, cô đã quì xuống dưới chân Mẹ
Maria và quyết định cầu nguyện với Ngài. Chúng ta hãy nhắc lại chính những lời
của cô ta. “Con đã cầu xin Chúa ban ân sủng giúp con phá tan đi bức tường ngăn
cách khiến con không thể tin tưởng và phó thác được”. Đức Maria đã nhận lời cô
cầu xin và cô đã tìm được niềm tin.
Và Đức Maria cũng có
thể giúp chúng ta tin tưởng phó thác giống như Ngài từng giúp cô gái nói trên.
Chẳng hạn, chúng ta là bậc cha mẹ biết quan tâm đến con cái mình. Nhưng xảy ra
là chúng chẳng còn chịu đi dâng lễ, hoặc chúng theo gương những bạn bè xấu cho
dầu chúng ta đã cầu nguyện, đã làm gương sáng, đã giải thích cho chúng hiểu.
Thế là chỉ còn một phương cách là tiếp tục cầu nguyện và phó thác. Chính Đức
Maria sẽ gíup chúng ta làm điều này. Hoặc có thể chúng ta vẫn không chắc chắn
về dự tính của mình và cũng có Chúa muốn chúng ta làm gì. Chúng ta đã bàn bạc
với cha mẹ và những vị cố vấn, đã cầu xin ơn Chúa hướng dẫn, thế mà chúng ta
vẫn còn tối tăm mờ mịt. Vậy thì chúng ta chỉ còn biết tiếp tục cầu nguyện và
phó thác vào Chúa. Đức Maria sẽ giúp chúng ta trong việc này. Hoặc chúng ta là
một người đang suy tư về đức tin của mình. Chúng ta lo âu vì biết rằng đức tin
mình vẫn còn yếu kém, chúng ta đã cầu xin Chúa giúp nhưng xem ra Ngài vẫn chưa
nhậm lời, để rồi chúng ta bị rơi vào thắc mắc chẳng hiểu Ngài có hay không nữa.
Thế là chúng ta chả còn làm gì được ngoài việc tiếp tục cầu nguyện và phó thác
cho Chúa. Mẹ Maria sẽ gíup chúng ta thực hiện điều này.
Lễ hôm nay nhắc chúng
ta nhớ rằng Đức Maria là khuôn mẫu, đồng thời là mẹ của chúng ta, trong lúc
nguy khốn, chúng ta cần hướng về Ngài để van xin Ngài trợ gíup. Ngài hằng ao
ước cứu giúp chúng ta miễn là chúng ta biết kêu cầu Ngài. Nếu muốn tìm một giải
pháp cho năm mới thì không gì tốt hơn là chúng ta hãy quyết định dành cho Đức
Mẹ Maria một vai trò to tát hơn trong cuộc đời chúng ta.
Chúng ta hãy kết thúc
với kinh nguyện hằng ngày mà thánh Bernard vẫn thường dâng cho Đức Maria.
“Lạy Trinh Nữ Maria
là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến
cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu gíup mà Mẹ chẳng nhậm lời…. Nhân vì niềm tin cậy
ấy, chúng con hướng về Mẹ, ôi Mẹ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh, chúng
là những tội nhân khốn khổ xin đến trình diện trước Mẹ, Lạy Mẹ Ngôi Lời nhập
thể xin đừng ngoảnh mặt đi mà hãy đoái thương lắng nghe và khấn nhậm lời chúng
con. Amen.
Chú giải của Noel Quesson
THÁNH MARIA, ĐỨC MẸ
CHÚA TRỜI
Ngày 1 tháng 1, trong
khi chúng ta chúc nhau "năm tốt lành", Giáo Hội mừng lễ Đức Maria, Mẹ
Thiên Chúa. Và chúng ta ước nguyện đi xa hơn vào huyền nhiệm Đức Kitô. Bởi vì
mỗi lần Giáo Hội nói với chúng ta về Đức Maria, chính là để nói về Đức Giêsu.
Chúng ta có khẳng định quá đán, khi chúng ta nói, trong kinh Kính Mừng Maria:
Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa? phải chăng một tạo vật có thể là mẹ Thiên Chúa?
Phải Chăng Thiên Chúa lại sinh ra từ một người đàn bà, như Thánh Phaolô nói
trong bài đọc thứ hai hôm nay (Gl 4,4).
Đến nơi, họ gặp bà
Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Các mục đồng hết sức
đơn thành, ở những vùng sườn đồi Bêlem, chạy vội đến để xác minh sứ điệp mà
thiên thần truyền cho họ: "một Đấng Cứu độ được sinh ra cho các ngươi;
Người là Đức Kitô và là Chúa". Chính là Hài Nhi mang ba danh hiệu ấy mà họ
tìm đến. Ba danh hiệu trang trọng, thuộc về Thiên Chúa: Đấng Cứu Độ, Đấng chịu
Xức Dầu, Đức Chúa.
Như vậy, điều đáng
chú ý nhiều hớn nữa là Luca dường như xem thường Hài nhi, khi trưng dẫn Người
cuối cùng; và cũng đặt người đàn ông, ông Giuse, xuống thứ hai vào thời mà
người đàn bà không có giá trị ngang bằng. "Họ khám phá ra Maria".
Trong cái viễn tượng đảo lộn này, có một cuộc cách mạng thần học và nhân bản
nho nhỏ.
Maria! Danh hiệu của
bà là Mẹ Thiên Chúa đã chỉ được xác định ở Công đồng Êphêsô năm 430. Nhưng từ
rất lâu, lòng sùng kính bình dân đã dám gọi Đức Maria là "theotokos"
"Mẹ Thiên Chúa". Và vào thời đó khi các giám mục chính thức công nhận
danh hiệu này, thì cả thành phố Êphêsô hoan hỉ và xuống phố lúc nữa đêm để rước
đuốc mừng lễ. Cái mà các nhà thần học tìm kiếm, về mặt trí thức, từ bốn thế kỷ
qua, thì về bản chất nó đã được sống nơi tất cả những người chỉ biết đơn sơ
lắng nghe Tin Mừng. Các Công đồng chỉ có vai trò xác định bằng ngôn ngữ khoa
học những điều đã gợi ra từ trong Tân ước. Ngoài ra còn phải đợi đến hai mươi
năm nữa, thì Công đồng Can-xê-đoan sau cùng năm 451 mới xác định huyền nhiệm
của Đức Giêsu và Đức Maria. Đây là văn bản tín điều, văn bản nổi tiếng nhất của
lịch sử các Cồng đồng: "Tất cả, chúng tôi đồng lòng tuyên xưng, một Chúa
Con độc nhất và luôn luôn là một. Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, hoàn toàn về
thiên tính, hoàn toàn về nhân tính, Thiên Chúa thật và người thật, được cấu
thành bới một linh hồn có lý trí và một thân xác, đồng bản tính với Chúa Cha do
thiên tính, đồng bản tính với chúng ta bởi nhân tính, tất cả đều giống như
chúng ta trừ tội lỗi (Dt 4,15), được sinh ra bởi Chúa Cha, trước các thế kỷ
theo thiên tính, được sinh ra trong những ngày cuối cùng này vì chúng ta và để
cứu độ chúng ta, bởi Đức Maria, Mẹ trinh nguyên của Thiên Chúa theo nhân tính:
một và cùng một Chúa Ki tô duy nhất. Con độc nhất, mà chúng ta phải nhận biết
trong hai bản tính không lẫn lộn, không thay đổi, không phân ly, không tách
biệt". Đấy là tấm giấy chứng minh kỳ diệu và rõ rệt về Đức Giêsu Nagiarét,
và Mẹ Người Đức Maria.
Họ tìm ra Bà Maria và
ông Giuse cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Cần phải lặp lại
những từ này sau khi đã nghe xác định trang trọng về Đức tin. Như thế chúng ta
hiện đứng trước một trong hai phương diện của Đức Giêsu, nhân tính thực của
Người. Các mục đồng trông chờ tìm thấy một Đấng Cứu độ Kitô Chúa (Lc 2.11), và
chỉ tìm thấy có thế: một Hài nhi trong chuồng bò lừa, đặt trong máng cỏ dành
cho súc vật, một Hài Nhi trên nệm rơm! Thiên Chúa lập tức tự mạc khải như một
vị hoàn toàn khác: thoạt đầu, Người khác với cái mà ta tưởng tượng về Người.
Người đã hiện ra như quá gần gũi, ngay từ đầu. Người mang tính người đến nỗi
nhiều người không nhận ra Người, chính vì Người bị che khuất đối với người thân
tín nhất của nhân loại chúng ta.
Vâng, Giao ước giữa
Thiên Chúa và con người mà Cựu ước, Tân ước nói tới, ngay từ đầu, không huyênh
hoang, đã nói với chúng ta là nó đi đến đâu: hợp nhất không thể xé bỏ được,
không lẫn lộn, không phân ly, không tách biệt.
Tất cả thái độ tôn
giáo được hâm chứa như mầm mống trong điều mạc khải này: người ta không thể
miệt thị vật chất, thân xác, từ khi Thiên Chúa "nhập thể" trong cung
lòng trinh nữ Maria. Không có cái gì là phàm tục. Tất cả đều trở nên linh
thánh, nghĩa là đôi khi hoàn toàn "nhân bản" và hoàn toàn "thiên
bản": lớn lên chín tháng trong bụng mẹ, sinh ra, ngủ nghỉ, ăn uống, học đi
và tập nói, chữa lành bệnh nhân, lên tiếng công khai, yêu mến bạn bè, thức dậy
sớm ban sáng để cầu nguyện, chịu đau đớn, chết,... những thực tại nhân thiên
bản những thực tại linh thánh. Và Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, thì giống như một
bảo đảm cho sự kết hợp không thể phân ly của Thiên Chúa và con người trong bản
vị độc nhất của Đức Giêsu.
Thấy thế, họ liền kể
lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.
Điều họ đã được loan
báo, chính là "một Đấng Cứu Độ, được sinh ra cho các anh, người là Chúa
Kitô. Họ đơn sơ đến nói sứ điệp của họ, tức là những lời nói mà họ nghe thấy.
Các họa sĩ thuộc mọi thời đại đã diễn dịch câu nói Tin Mừng này khi trưng bày
một bức tranh "Sự thờ kính của các mục đồng". Thực sự, đúng hơn các
mục đồng đã giảng một bài cho Đức Maria, bằng cách nói Tin Mừng cho bà, tin
lành mà họ nhận được. Bây giờ, trong câu này chúng ta thấy có phương diện thứ
hai của Đức Giêsu, thiên tính đích thực của người: về Hài nhi này, các thiên
thần đã nói với chúng ta rằng:
Người là Đức Kitô và
là Chúa!". Đó là một tuyên xưng đức tin và từ đó đến thờ kính thì không
xa: các bức tranh của các họa sĩ không lầm lần.
Nghe các người chăn
chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ
niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Ngôn từ Hy Lạp của Luca
còn mạnh mẽ hơn nhiều mọi người ai cũng lấy làm lạ lùng. Thế nhưng, có cần phải
thấy một đối lập mà Luca muốn trình bày giữa thái độ tổng quát và thái độ của
Maria chăng? Quả thực đúng là ông chỉ nhấn mạnh đến cách hành sử của bà thôi:
Bà không chỉ lạ lùng, mà suy niệm.. Dù không hiểu nhiều hơn các mục đồng về
huyền nhiệm xảy đến cho mình, phải chàng người ta không thể nghĩ rằng từ đáy
lòng mình Đức Maria nói lại tiếng xin vâng của đức tin trước sự mới lạ bất ngờ
của Hài nhi này sao? Luca không ngừng tôn vinh giá trị của Maria.
Rồi các người chăn
chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt
thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
Chúng ta luôn luôn cố
giản lược huyền nhiệm về Đức Giêsu, bằng các đến giản hóa đi, Hoặc là người ta
nhân bản hóa Đức Giêsu khi chỉ nhìn thấy người là một người có thiên tài, hoặc
người ta linh thiêng hóa người bằng cách chối từ những khuyết điểm trong nhân
tính của Người. Chính các mục đồng, những con người đơn sơ, đã trông thấy và đã
nghe thấy. Họ đã xem thấy một nhân tính hoàn toàn bình thường, và nghe thấy một
sứ điệp rất phi thường. Và họ không chỉ muốn dừng lại ở những dáng vẻ bên
ngoài: họ tôn vinh và ca tụng Thiên Chúa.
Khi Hài Nhi được đủ
tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là
Giêsu
Hài nhi Bêlem là một
người thực bé mọn, gắn liền với một truyền thống, một văn hóa và hệ thống tập
tục. Đó là một bé trai, nhời được ghi dấu vào xác thịt dành cho tất cả những
người nam của dân tộc này. Vâng, một nhân tính thực sự mà trước nó người ta
không thể không thấy được. Nhưng tên của trẻ thơ này mang những vấn đề mới về
căn tính của cậu: tại sao di cư phải đặt cái tên Thiên Chúa Cứu Độ, Yeshoua,
Giêsu? Tại sao?
Đó là tên mà sứ thần
đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.
Theo Luca, việc đặt
tên này chỉ là nhột cơ hội bổ sung để làm nổi bật Maria: tác giả nhấn mạnh rằng
Maria, Mẹ Người, đã nhận tên con mình "trước khi Người được thụ thai trong
lòng".
Công đồng Vatican II,
tiếp theo một truyền thống lâu dài của Giáo Hội, đã trình bày Đức Maria như một
gương mẫu của Giáo Hội, người đầu tiên trong các tín hữu. Và trong trang Tin
Mừng này, chúng ta thực sự vừa mới nhận ra rằng bà là người đầu tiên đón nhận
Lời Chúa và suy niệm trong lòng mình... và bà là người đầu tiên có lời tuyên
xưng cơ bản về lòng tin của chúng ta: Thiên Chúa Cứu Độ!
Trong ngày đầu tiên
của năm mới, tất cả sự mới mẻ của niềm tin Kitô giáo được Đức Maria nhắc lại
cho chúng ta. Sự tân kỳ của Đức tin của các Kitô hữu, chính là không phải chỉ
tin vào Thiên Chúa. Điều đó, phần đông mọi người vẫn thế, nhất là những người
theo một trong những tôn giáo lớn trên thế giới: và chúng ta nghĩ đến Do Thái
giáo, Hồi Giáo, và biết bao Tôn Giáo hữu linh. Đặc tính riêng biệt của người
Kitô hữu, chính là tin vào sự nhập thể của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Sự
tôn sùng Đức Maria chỉ làm cho chúng ta nhớ lại điều đó.
Đức Maria Thân Mẫu Thiên Chúa
Đức Gioan Phaolô II
Ngay từ những thế kỷ đầu tiên, các Kitô hữu đã cầu
khẩn Đức Maria dưới tước hiệu “Theotokos”, Đức Mẹ Chúa Trời. Tước hiệu này được
công đồng Êphêsô long trọng tuyên bố năm 431. Tín điều này tiên vàn tuyên xưng
rằng Đức Kitô chỉ có một ngôi vị duy nhất. Đức Maria, tuy chỉ là mẹ của Đức
Kitô xét theo nhân tính, nhưng chức làm mẹ có liên quan đến ngôi vị. Dù sao,
khi tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, Hội thánh cũng khẳng định rằng Ngôi
Lời đã thực sự trở thành con người, do một bà mẹ sinh ra.
1.- Việc chiêm ngắm mầu nhiệm Chúa Cứu Thế giáng
sinh đã đưa các tín hữu không những gọi Đức Trinh Nữ rất thánh là Mẹ của Đức
Giêsu, mà còn nhìn nhận Người là Mẹ của Thiên Chúa .
Chân lý này đã được đào sâu và cảm nhận như là một
điều thuộc về gia sản đức tin của Hội thánh ngay từ những thế kỷ đầu tiên của
kỷ nguyên Kitô giáo, và công đồng Êphêsô tuyên bố long trọng năm 431.
Trong cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, khi các môn đệ
càng ý thức rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa thì họ cũng càng thâm tín rằng Đức
Maria là Theotokos, Mẹ của Thiên Chúa. Tước hiệu này không xuất
hiện rõ ràng trong các bản văn Phúc âm, tuy rằng ở đây ta thấy nói tới “Mẹ của
Đức Giêsu” và Đức Giêsu là Thiên Chúa (Ga 20,28; xc. 5,18; 10,30.33). Dù sao
Đức Maria được giới thiệu như là Mẹ của Đấng Emmanuel, nghĩa là
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1,22-23).
Từ thế kỷ III, như có thể suy diễn từ một chứng tá
cổ điển, các Kitô hữu ở Ai cập đã hướng tới Đức Maria với lời cầu nguyện như
sau:
“Lạy Đức
Mẹ Chúa Trời, Ngài xiết bao thánh thiện,
này chúng con chạy đến tìm nương ẩn nơi Ngài.
Lúc sa vòng gian khổ, khi gặp cảnh phong trần,
lời con cái nài van, xin Mẹ đừng chê bỏ,
nhưng xin hằng giải thoát, khỏi ngàn nỗi hiểm nguy,
ôi vinh diệu ai bì, Trinh nữ đầy ơn phúc !”
(Bản dịch Giờ Kinh Phụng Vụ).
này chúng con chạy đến tìm nương ẩn nơi Ngài.
Lúc sa vòng gian khổ, khi gặp cảnh phong trần,
lời con cái nài van, xin Mẹ đừng chê bỏ,
nhưng xin hằng giải thoát, khỏi ngàn nỗi hiểm nguy,
ôi vinh diệu ai bì, Trinh nữ đầy ơn phúc !”
(Bản dịch Giờ Kinh Phụng Vụ).
Trong chứng tá cổ kính này, lần đầu tiên từ
ngữ Theotokos “Đức Mẹ Chúa Trời” đã được sử dụng một cách minh
thị.
Trong các huyền thoại của dân ngoại, thường thường
có trường hợp một nữ thần được trình bày như là bà mẹ của một vị thần. Chẳng
hạn như vị chủ tể Jupiter chúa tể có bà mẹ tên là nữ thần Rea.
Bối cảnh này có lẽ đã giúp cho các Kitô hữu tạo ra
tước hiệu “Theotokos”, “Thánh Mẫu” dành cho bà mẹ của Đức Giêsu . Tuy nhiên cần
phải nhấn mạnh rằng tước hiệu này chưa hề được sử dụng, nhưng là do các Kitô
hữu đặt ra để diễn tả một lòng tin hoàn toàn khác với thần thoại của dân ngoại:
đức tin vào việc thụ thai trinh khiết, trong lòng Đức Maria, của Đấng vốn là
Ngôi Lời hằng hữu của Thiên Chúa.
2.- Đầu thế kỷ thứ IV, tước hiệu Théotokos đã
trở thành thông dụng bên Đông phương và bên Tây phương. Kinh nguyện cũng như
thần học sử dụng thường xuyên tước hiệu này, đã đi vào gia sản đức tin của Hội
thánh .
Vì thế người ta hiểu được rằng cả một phong trào
chống đối đã nổi lên vào thế kỷ thứ V, khi ông Nestoriô đặt ra nghi vấn về sự
hợp thức của danh hiệu “Thân mẫu Chúa Trời”.
Thực vậy, ông ta có khuynh hướng muốn nhìn nhận Đức
Maria chỉ là mẹ của con người Giêsu, và ông cho rằng tước hiệu duy nhất phù hợp
với đạo lý là “Thân mẫu của Đức Kitô”. Ông Nestoriô đã rơi vào sự sai lầm như
vậy bởi vì ông gặp thấy khó khăn khi chấp nhận một ngôi vị duy nhất của Đức
Kitô, và do việc giải thích sai lầm về sự phân biệt giữa nhân tính và thiên
tính hiện diện trong Đức Kitô (Xc. GLCG số 466).
Công đồng Ephêsô (năm 431) đã phi bác thuyết
của ông Nestôriô, và khẳng định rằng thiên tính và nhân tính đồng hiện hữu nơi
một ngôi vị duy nhất của Chúa Con. Công đồng tuyên bố Đức Maria là Đức Mẹ Chúa
Trời.
3.- Những khó khăn và vấn nạn do ông Nestôriô nêu
lên đã cống hiến cơ hội cho chúng ta suy nghĩ chín chắn, ngõ hầu hiểu biết và
giải thích tước hiệu này một cách đứng đắn. Thành ngữ Theotokos,
theo nguyên văn có nghĩa là “Kẻ đã sinh ra Thiên Chúa”(Tương đương với Dei
Genitrix trong tiếng latinh), thoạt tiên xem ra kỳ dị. Thực vậy, nó
gợi lên câu hỏi: làm thế nào một thụ tạo có thể sinh ra Thiên Chúa? Câu trả lời
của đức tin Hội thánh thì đã quá rõ: chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria chỉ
áp dụng vào việc sinh ra Con Thiên Chúa theo tính loài người mà thôi, chứ không
áp dụng vào việc sinh ra bản tính Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã được sinh ra từ
thuở đời đời bởi Chúa Cha và đồng bản tính với Chúa Cha. Trong sự sinh ra hằng
hữu này, dĩ nhiên là Đức Maria không có vai trò nào hết. Tuy nhiên Con Thiên
Chúa, cách đây 2000 năm, đã lãnh nhận bản tính loài người của chúng ta, và do
đó đã được thụ thai và sinh ra bởi Đức Maria .
Khi tuyên xưng Đức Maria là “Đức Mẹ Chúa Trời” Hội
thánh muốn khẳng định rằng Đức Maria là “Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng là
Thiên Chúa. Do đó chức làm mẹ của Người không áp dụng cho tất cả Ba ngôi Thiên
Chúa nhưng chỉ liên can đến Ngôi Hai, tức là Chúa Con Đấng mà khi nhập thể, đã
lãnh nhận bản tính loài người từ nơi Đức Maria.
Việc làm mẹ là một mối tương quan giữa hai bản vị:
một bà mẹ không phải chỉ là mẹ của thân xác hay là của chất thể sinh ra từ lòng
mình, nhưng là mẹ của ngôi vị mà mình sinh ra.
Vì thế, Đức Maria đã sinh ra Đức Giêsu, một bản vị
xét về nhân tính mà cũng là một ngôi vị Thiên Chúa, cho nên Người thực sự là Mẹ
của Thiên Chúa .
Khi công bố Đức Maria là “Đức Mẹ Chúa Trời”, Hội
thánh đã tuyên xưng đức tin về người Con và người Mẹ trong cùng một biểu thức
duy nhất. Sự kết hợp này đã được nổi bật ngay tại công đồng Ephêsô: qua việc
định tín chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, các nghị phụ đã muốn bày tỏ đức
tin vào thiên tính của Đức Kitô. Mặc dù đã có nhiều vấn nạn xưa nay được trưng
lên để chống lại việc sử dụng tước hiệu Đức Mẹ Chúa Trời, nhưng các Kitô hữu
thuộc mọi thời đại, khi giải thích đứng đắn ý nghĩa của chức làm mẹ đó, họ đã
tìm thấy một biểu thức đặc biệt để diễn tả niềm tin vào thiên tính của Đức Kitô
và của lòng yêu mến đối với Đức Trinh nữ Maria.
Nơi Đức Theotokos, một đàng Hội thánh
bảo đảm rằng việc Nhập thể đã xảy ra thực sự, bởi vì - như Thánh Augustino đã
nói - “giả như bà Mẹ mà giả thì thân xác của Đức Kitô cũng giả, … những vết
thương còn mang sau khi Phục sinh cũng giả tuốt” (Tractatus in evangelium
Ioannis, 8, 6-7). Đàng khác, Hội thánh sững sờ chiêm ngắm và cung kính cử
hành sự cao cả được ban cho Đức Maria bởi Đấng đã muốn làm Con của Người. Tước
hiệu “Đức Mẹ Chúa Trời” cũng hướng tới Lời của Thiên Chúa, Đấng mà qua mầu nhiệm
Nhập Thể đã mặc lấy sự khiêm tốn của thân phận con người chúng ta, ngõ hầu nâng
con người lên hàng nghĩa tử của Thiên Chúa. Ngoài ra, tước hiệu đó, dưới ánh
sáng của chức phẩm cao vời dành cho thiếu nữ Nazaret, cũng tuyên dương sự cao
quý của phụ nữ và thiên chức của họ. Thực vậy, Thiên Chúa đã đối xử với Đức
Maria như là một bản vị tự do và có trách nhiệm, và chỉ có thể thực hiện việc
Nhập thể của Con Ngài sau khi nhận được sự thỏa thuận của Đức Maria.
Theo gương các Kitô hữu tại Ai cập thời xưa, các
tín hữu ký thác mình cho Người, vì là Đức Mẹ Chúa Trời, nên có thể xin Con mình
cho họ ơn giải thoát khỏi mọi nỗi nguy nan và ơn được cứu rỗi đời đời.
Đức Maria Mẹ Giáo Hội
LM An-rê Đỗ Xuân Quế, O.P.
Đức Maria, Mẹ Giáo hội là
danh hiệu Đức Phaolô VI dùng để tôn phong Đức Mẹ ngày 16.12.1964, nhân dịp kết
thúc khóa III Công đồng Vaticanô II. ĐGH nói : “Đây là lần đầu tiên một Công
đồng đưa ra một tổng hợp sâu rộng về học thuyết công giáo bàn về địa vị của Đức
Mẹ trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo hội.”
Thực ra, Giáo hội đã dành
nhiều danh hiệu xưng tụng Đức Mẹ như Nữ Vương, Trạng Sư, Mẹ Thiên Chúa, Đấng
đầy ơn phúc. Chỉ cần đọc lại kinh cầu Đức Me, chúng ta cũng thấy danh hiệu dành
cho Người phong phú biết bao !
Tuy nhiên, theo ĐGH, học
thuyết về Đức Mẹ đã được tổng hợp cách tài tình trong danh hiệu Mẹ Giáo hội.
Quả vậy, Đức Maria thực là Mẹ Giáo hội, vì Người là Mẹ của Con Thiên Chúa, Đấng
đã thành lập Giáo hội. Đức Giêsu đã trao phó Giáo hội cho Đức Me, đồng thời
trao phó Tông đồ Gio-an cho Người và gửi gắm Người cho Tông đồ Gio-an.
Người là Mẹ Giáo hội. Người
đã thực hiện vai trò này bằng lời khuyên, gương lành và lời cầu nguyện cho Giáo
hội. Chúng ta có thể dựa vào các sách Tin Mừng, lấy lời khuyên, gương lành và
lời cầu của Đức Mẹ để làm chứng tư cách Mẹ hiền của Người đối với Giáo hội.
1. Lời khuyên
Trong phép lạ ở tiệc cưới
Ca-na, Đức Mẹ đã khuyên các gia nhân làm như lời Chúa Giêsu dạy : “Người bảo
gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2,5) Điều đáng lưu ý ở đây là thái độ thản
nhiên, bình tĩnh của Đức Mẹ. Nếu đọc kỹ câu đối đáp giữa Chúa Giêsu và Đức Mẹ,
chúng ta sẽ không khỏi ngạc nhiên, khi nghe giọng nói xa lạ của Chúa Giêsu đối
với Mẹ mình : “Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người : “Họ hết
rượu rồi.” Đức Giêsu đáp : “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi ? Giờ của
tôi chưa đến.” Rồi tiếp theo là lời nhắn bảo ân cần của Đức Mẹ đối với gia
nhân. Giữa hai câu nói đó, có một quãng cách, một sự hiểu ngầm nào đó, vì không
thấy Đức Mẹ đả động gì đến câu trả lời của Chúa Giêsu.
Thật vậy. Nếu chỉ dựa vào
văn mạch mà không tìm hiểu dụng ý sâu xa của những lời đó, tất nhiên phải hiểu
như trên. Nhưng qua cái vẻ bề ngoài xem ra như lỏng lẻo và không ăn ý đó, có
tiềm ẩn một dụng ý sâu xa làm tăng giá trị cho câu nói. Dụng ý đó là sự chấp
nhận và tin tưởng mà Đức Mẹ muốn bày tỏ cho chúng ta, vì khi nghe một câu nói
xa lạ và có vẻ trách móc như thế giữa mẹ và con, tự nhiên Đức Mẹ có thể cảm
thấy bực bội khó chịu. Thế mà ở đây tuyệt nhiên không thấy Đức Mẹ tỏ ra một lời
nói, một cử chỉ hay thái độ nào khiến chúng ta có thể hiểu được như vậy. Mà
ngược lại, như đã nói, chỉ thấy một sự bình tĩnh lạ lùng dường như không có sự
gì xảy ra cả.
Thái độ ấy chắc hẳn phải là
phản ánh của một tâm hồn tin tưởng sâu xa tuyệt đối. Lòng tin tưởng phi thường
ấy làm cho Đức Mẹ chấp nhận tất cả dù chưa hiểu hay không hiểu hết ý Con mình
muốn nói gì. Phải có điều gì bí nhiệm trong câu nói đó. Phải hiểu biết về người
Con của mình lắm mới giữ được thái độ gương mẫu như vậy. Tựu trung, chính vì
Đức Mẹ có đức tin vững mạnh.
Đức tin ấy đã đưa Đức Mẹ đến
chỗ chấp nhận. Người ta thường nói tin nhận, vì hễ tin thì nhận. Mà nhận ai là
ngụ ý tin tưởng người đó. Đức Mẹ tin nên chấp nhận lời Chúa, dù đó là một lời
đòi hỏi, trái ý, không thuận tai hay khó hiểu, như khi nghe lòi truyền tin của
thiên thần Gáp-ri-en. Chấp nhận như vậy không phải dễ, vì tin là một thử thách.
Ở đây Đức Mẹ cũng đã bị thử thách qua câu nói khó hiểu, làm đảo lộn cuộc đời
mình. Điều này thật là rõ rệt khi Đức Mẹ bằng lòng thụ thai, dù đã tính giữ
mình đồng trinh. Đó là hai điều trái ngược nhau, nhưng Đức Mẹ đã nhận, vì biết
Chúa muốn như vậy, dù không hiểu rồi ra sẽ thế nào. Cái thế nào đó là điều hiển
nhiên đối với Thiên Chúa, nhưng đối với Đức Mẹ thì vẫn còn là điều chưa sáng
tỏ.
Xưa kia, tổ phụ Ap-ra-ham đã
nhờ hành động như vậy mà được xưng tụng là cha của những người tin. Cũng thế,
Đức Mẹ được xưng tụng là người diễm phúc vì nhận mình là nữ tỳ của Thiên Chúa
và hoàn toàn vâng theo như lời thiên thần truyền. Đây là một trong những hành
động tiêu biểu của Đức Me, khiến chúng ta có thể ví đó như một hạt ngọc bên
cạnh những hạt ngọc khác kết thành triều thiên vinh quang cho Người.
Nếu nói về lời khuyên của
Đức Mẹ thì ngoài lời khuyên ở tiệc cưới Ca-na người ta ít thấy lời nào khác nữa
trong Tin Mừng, bởi một lẽ đơn giản là Đức Mẹ ít nói và Tin Mừng cũng ít nói về
Người. Người hoàn toàn muốn sống ẩn khuất, đóng vai trò một hiền mẫu kín đáo,
không thích xuất hiện mà chỉ sống như một cái bóng vào ngày dâng Chúa Giêsu
trong Đền thánh, ngày trẩy hội lên Giê-ru-sa-lem, lúc gặp con trên đường thọ
hình, khi đứng dưới chân thập giá. Đây lại là một nét đẹp tinh thần cao quí của
Đức Mẹ nữa. Đức Mẹ đã ít dùng lời nói để khuyên bảo nhưng ngược lại, đã lấy
việc làm và đời sống mà khuyên nhủ nhiều lắm. Các vị thánh, các nhà truyền giáo
đích thật đã dùng hình thức khuyên bảo này. Nhiều khi các vị chỉ cần đi qua hay
sống giữa đám đông cũng đủ để gây thắc mắc cho người ta về những vấn đề trọng
đại như sự sống, sự chết, ý nghĩa và mục đích đời người v.v…
2. Đời sống gương mẫu
Cuộc đời của Đức Mẹ đã trở
thành gương mẫu cho Giáo hội noi theo. Cuộc đời ấy có thể thu tóm lại trong mấy
chữ sau đây : lắng nghe, thông cảm, hợp tác, yêu thương.
2,1 Lắng nghe
2,1 Lắng nghe
Đức Mẹ đã lắng nghe lời Chúa
ngay từ những giây phút đầu tiên khi được truyền tin. Đức Mẹ đã đáp lại lời mời
làm Mẹ Đấng Cứu Thế và để cho lời Chúa hoạt động nơi mình. Nhiều khi, dù chưa
hiểu ý nghĩa của những lời đó, nhưng Đức Mẹ vẫn đón nhận, ghi nhớ và suy gẫm
trong lòng (Lc 2,51). Thái độ lắng nghe đó chứng tỏ khả năng tiếp nhận phong phú
nơi Người. Suốt đời mình, Đức Mẹ đã nhìn xem và lắng nghe lời Chúa qua người
Con của mình và cũng là Con Thiên Chúa, từ lời nói đầu tiên ở tiệc cưới Ca-na
cho đến lời nói cuối cùng dưới chân thập giá. Lời Chúa âm vang trong lòng Đức
Mẹ như một sức mạnh phi thường, điều khiển và hướng dẫn cuộc Người. Người đã
không nao núng và ái ngại trước những lời Con mình nói với tư cách là Con Thiên
Chúa, nhưng thật khó nghe và khó chấp nhận theo thói thông thường của người
trần gian, như khi người ta báo cho Đức Giêsu có Mẹ đang muốn gặp mà Đức Giêsu
lại hỏi : “Ai là mẹ tôi, ai là anh em tôi” ? (Mt 12, 48)
Chắc có người sẽ bảo diễn
nghĩa những lời đối đáp trên thành những câu như thế là cố ý tạo ra vẻ sống
sượng và chói tai, chứ thực ra Đức Giêsu không có ăn nói như vậy. Vì thế, để tỏ
lòng tôn kính đối với Chúa Giêsu, người ta cố chuyển sang tiếng Việt cho thật
êm tai lễ phép. Nhưng như thế là không trung thành với nguyên ngữ. Đàng khác
cũng không bóc lột được hết vẻ đẹp thâm thúy và niềm tin sâu xa của Đức Mẹ. Đức
Giêsu muốn nói như vậy là để phân biệt rõ ràng tư cách con Thiên Chúa với tư
cách con Đức Mẹ nơi mình. Đức Mẹ được xưng tụng là người diễm phúc không nguyên
vì đã sinh ra và nuôi dạy Đấng Cứu Thế mà chính vì đã nghe và giữ lời Thiên
Chúa.
2,2 Thông cảm, hợp tác, yêu thương
2,2 Thông cảm, hợp tác, yêu thương
Không những Đức Mẹ đã nghe
và giữ lời Thiên Chúa mà còn thông cảm, hợp tác, yêu thương để cho lời ấy sinh
hoa kết quả dồi dào nơi người trần gian. Chỉ nguyên một câu : “Người bảo gì anh
em cứ làm như vậy” cũng đủ cho thấy mối bận tâm của Đức Mẹ đối với lời của Đức
Giêsu trong tình cảnh bế tắc của chủ tiệc, và phần đóng góp của Đức Mẹ trong
việc khuyên nhủ gia nhân làm theo lời ấy.
Ngoài ra, trên đồi
Gon-go-tha, Đức Mẹ đã ưng thuận hiến tế Con mình. Người đã kết hợp nỗi đau
trong lòng với hy lễ của Con mình đang diễn ra trên thập giá, mà không thốt ra
một lời than van rên xiết. Bằng cái chết của mình, Chúa Giêsu đã chuộc tội cho
thiên hạ thì nhờ sự chấp nhận những đau khổ theo sau cái chết của Con mình, Đức
Mẹ cũng đã góp phần vào việc thanh tẩy nhân loại và sinh ra các con cái thiêng
liêng cho Giáo hội nhờ công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô.
2.3 Lời cầu
Trở lại tiệc cưới Ca-na,
chúng ta thấy Đức Mẹ nói : “Họ hết rượu rồi”. (Ga 2.4). Thoạt nghe thì đó chỉ
là nhận xét của Người về một sự kiện. Nhưng nghĩ kỹ thì đó lại là một sự can
thiệp và còn hơn thế nữa, một lời cầu xin. Đức Mẹ đã can thiệp xin Chúa Giêsu
làm phép lạ đầu tiên. Do lời can thiệp và cầu xin này, Chúa Giêsu đi trước giờ
Người đã định, nhưng có thể hiểu ngầm là vì Đức Mẹ yêu cầu nên Người cho giờ ấy
đến trước thời hạn. Chủ nhà và khách dự tiệc có thể được coi như hình ảnh về
Giáo hội. Cầu xin cho chủ nhà và khách dự tiệc là điềm tiên báo Đức Mẹ sẽ cầu
xin và can thiệp cho Giáo hội sau này. Sách Công vụ Tông đồ cho hay sau khi
Chúa Giêsu về trời, Đức Mẹ cùng cầu nguyện với các Tông dồ : “Tất cả các ông
đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà
Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh anh em của Đức Giêsu.” (Cv 1, 14) Cũng như
các sách Tin Mừng, sách Công vụ Tông đồ không nói nhiều về Đức Mẹ. Vai trò của
Người trong cộng đoàn các Tông đồ có vẻ mờ nhạt, nhưng không phải vì thế mà kém
phần quan trọng, cũng như vai trò của trái tim trong thân xác con người. Bên
ngoài, người ta không trông thấy trái tim, nhưng trái tim lại là trung tâm của
sự sống; trái tim ngừng là người ta chết. Vai trò của Đức Mẹ cũng có thể ví
được như thế.
Sách Công vụ Tông đồ không
nói rõ Đức Mẹ cầu nguyện thế nào và xin những ơn gì, nhưng chúng ta có thể dựa
vào lòng từ mẫu của Người đối với Chúa Giêsu, mà nghĩ rằng Người đã cầu xin cho
Giáo hội được vững mạnh và trung thành với sứ mệnh Chúa Giêsu đã giao phó. Sứ
mệnh đó là làm chứng cho Chúa Giêsu và đoàn kết yêu thương nhau.
Hiện nay Đức Mẹ vẫn còn cầu
xin và phù trì cho Giáo hội, qua những ơn lành Người đã chuyển đạt cho Giáo hội
trải qua hơn hai ngàn năm lịch sử, với những phép lạ Người đã làm và còn đang
làm ở nơi này nơi khác trên thế giới như Lộ đức, Fatima v.v…
Xưng tụng Đức Maria là Mẹ
Giáo hội vào thời sau Công đồng Va-ti-ca-nô II thật là thích hợp và ý nghĩa, vì
danh hiệu ấy nói lên niềm tin tưởng của Giáo hội đối với Đức Mẹ và ước mong tha
thiết được Người che chở và thương mến giữa bao khó khăn và thử thách mà hiện
nay Giáo hội đang phải trải qua.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét