Bảo chứng của đức tin
“Ông Abraham đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa; trái lại, nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa,vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện” (Rom. 4: 20, 21).
“Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm”. (1Ga 3: 18).
“Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 3: 24).
Mọi con cái của Chúa đều cần sự bảo đảm của đức tin: là sự xác tín đầy đủ rằng Thiên Chúa đã đón nhận và làm cho mình trở nên con cái của Ngài. Lời Kinh Thánh luôn luôn nói về những người Ki-tô hữu như là những người biết rằng họ được cứu độ, rằng bây giờ họ là con cái của Thiên Chúa, và họ sẽ nhận được sự sống đời đời (Dnl 26: 27, 28; Is 44: 45; Gal 4: 7; 1 Ga 5: 12). Làm sao một đứa trẻ có thể cầu xin, yêu thương và phục vụ cha của nó trong khi nó lại nghi ngờ không biếtngười cha đó có thực sự biết và coi nó là con hay không?
Kinh Thánh nhắc đến ba điều, nhờ đó chúng ta có sự bảo đảm của đức tin: trước hết, đức tin trong lời nói; sau đó, việc làm; và cùng với hai điều trên là Thánh Thần.
Trước hết, đức tin trong lời nói. Abraham đối với chúng ta là một mẫu gương tiêu biểu trong đời sống niềm tin, và đồng thời cũng là bảo đảm của niềm tin. Và sau đó Kinh Thánh đã nói gì về điều bảo đảm mà ông đã có được? Ông đã tin chắc rằng những gì Thiên Chúa đã hứa thì Người có đủ quyền năng thực hiện. Niềm hy vọng duy nhất của ông là từ Đức Chúa và những gì mà Ngài đã hứa. Ông tựa nương vào Chúa và thi hành những điều Ngài phán dạy: lời hứa của Chúa đối với ông là duy nhất nhưng lại đầy sự bảo đảm. (Ga 3: 33, 5:24; Cv 27:25; Rm 4:21, 22; 1Ga 5:10,11).
Nhiều người Ki-tô hữu trẻ nghĩ rằng đức tin trong lời nói thì không thể mang lại sự bảo đảm đầy đủ: họ đành tìm nhiều điều hơn nữa. Họ cho rằng sự bảo đảm, là một sự cảm nhận hay nột sự thâm tín tự bên trong, là cái gì đó được ban trên xuống hay ở ngoài đức tin [they imagine that assurance, a sure inward feeling or conviction, is what is given above or outside of faith]. Đây là một sai lầm. Khi tôi không cần gì hơn ngoài lời đáng tin cậy của một người mang lại cho tôi sự bảo đảm, thì Lời Chúa chắc hẵn sẽ là sự bảo đảm cho tôi. Con người phạm tội vì họ tìm kiếm điều gì đó trong chính con người của họ và trong chính suy nghĩ của họ. Không: toàn bộ ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa: linh hồn không phải được cư ngụ bởi chính nó hay các công việc của nó nhưng là chính Thiên Chúa: linh hồn phải quên đi chính mình để lắng nghe tiếng Chúa và để tin tưởng vào lời hứa của Ngài, là điều có giá trị bảo đảm chắc chắn (Ds 23:19; Tv 89:35). Linh hồn không được nghi ngờ lời hứa của Chúa nhưng phải vững tin vào Ngài, dâng lời tán tụng Ngài và xác tín đầy đủ rằng những gì Chúa đã hứa thì Ngài có khả năng thực hiện.
Rồi Kinh thánh cũng đề cập đến việc làm: bằng một tình yêu chân thành chúng ta tự hứa với lòng mình: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Ga 3: 18).Tuy nhiên, hãy cẩn thận ghi nhớ điều này: đầu tiên, sự bảo đảm bởi đức tin là trong lời hứa chứ không phải bằng việc làm. Ngay một người vô thần khi đón nhận ân ban cũng biết điều đó chỉ đến bởi lời [the godless man who receives grace knows this only from the word]. Nhưng rồi, sự bảo đảm đó sẽ được theo sau bởi việc làm. “Nhờ việc làm mà đức tin được nên hoàn hảo” (Ga 15: 10, 14; Gl 5:6; Jas 2: 22; 1Ga 3, 14). Một cây vừa được trồng trong “mãnh đất đức tin” thì dĩ nhiên nó chưa sinh hoa kết quả. Nhưng khi thời gian sinh hoa kết quả đã điểm mà nó vẫn trơ trơ thì thật đáng e ngại. Rõ ràng, khởi đầusự bảo đảm của đức tin thì chưa có việc làm, chỉ có lời nhưng dần dà chắc chắn việc làm phải được theo sau.
Và cả hai – sự bảo đảm nhờ tin và nhờ việc làm –phải được triển nở cùng với Thần Khí. Không phải chỉ nhờ lời, và cũng không phải bởi việc làm như là điều mà chính tôi tự có được nhưng lời như là khí cụ của Thần Khí và việc làm lại như là hoa quả của Thần Khí, nhờ đó con cái của Chúa mới có sự bảo chứng bởi trời là trở nên con cái Chúa (Ga 4: 13; Rm 8:13, 14; 1Ga 3, 24).
Hãy đặt niềm cậy trông vào Chúa Giêsu là cuộc sống của chúng ta và cư ngụ trong Người và sự bảo đảm của đức tin sẽ không tuột khỏi tầm tay của chúng ta.
Ôi lạy Cha, xin dạy con biết tìm kiếm sự bảo đảm của đức tin trong sự gắn kết với Ngài, trong sự tin cậy vững vàng vào lời hứa của Ngài, và trong sự vâng phục các huấn lệnh của Ngài. Xin dùng Thần Khí của Ngài mách bảo cho con biết rằng con chính là con thật của Cha. Amen.
1. Điều quan trọng của bảo chứng đức tin hệ tại ở chỗ, tôi không thể nào yêu hay phục vụ một Thiên Chúa trong khi tôi lại không biết liệu Người có yêu và công nhận tôi như là con của Người hay không.
2. Toàn bộ Kinh Thánh là một bảo chứng tuyệt vời cho đức tin. Bởi lẽ chính Kinh Thánh tự đề cập về mình chứ không phải được ai gán cho. Ab-ra-ham và Mô-sê đã nhận thức một cách rõ ràng rằng Thiên Chúa đã đón nhận họ nếu không, biết đâu họ lại chẳng tin nhận và và phục vụ Người. Ít-ra-en biết rằng Thiên Chúa cứu độ họ: vì vậy họ đã phụng sự Người. Chẳng phải điều đó cũng quan trọng với hồng ân cứu độ lớn lao trong Kinh Thánh Tân Ước đó sao?
3. Đức tin và sự vâng phục là hai điều bất khả phân ly, là cội rễ và hoa quả. Trước hết, cần phải có rễ và rễ phải có thời gian chờ đợi rồi mới đâm hoa kết trái: sự bảo đảm đầu tiên chưa có hoa quả bởi sống đức tin bằng lời; rồi sau đó, sự bảo đảm đi xa hơn nữa là sinh hoa quả. Đó chính là cuộc sống với Đức Giê-su, trong Người sự bảo đảm đức tin được cũng cố vững chắc và không còn nghi ngại.
4. Sự bảo đảm đức tin được trợ giúp rất nhiều bởi sự hoán cải. Điều gì tôi thể hiện nổ lực của mình một cách thiện chí ắt tôi sẽ xác tín một cách sâu xa hơn.
5. Hãy quỳ dưới chân Chúa Giê-su, ngước trông lên Người với ánh nhìn đầy trìu mến, hãy lắng nghe những lời hứa thân thương của Người, chính trong mối tình thâm sâu với Đức Giê-su qua đời sống cầu nguyện, tất cả những lắng lo của Chúng ta sẽ tan mau. Hãy kiên vững bước đi và chúng ta sẽ đón nhận được sự bảo đảm của đức tin.
Rev. Andrew Murray
(Jos. Đồng Lạc chuyển ngữ từ tác phẩm The New Life)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét