VUI HỌC THÁNH KINH
LỄ HIỂN LINH
NĂM B
Tin Mừng thánh Mátthêu 2,1-12
TIN MỪNG
1 Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền
Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến
Giê-ru-sa-lem,2 và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới
sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông,
nên chúng tôi đến bái lạy Người."3 Nghe
tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao.4 Nhà
vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho
biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu.5 Họ
trả lời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng:6
"Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất
của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra
đời."
7 Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện.8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người."9 Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.11 Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.12 Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
7 Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện.8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người."9 Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.11 Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.12 Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
1 When Jesus was born in Bethlehem
of Judea, in the days of King Herod, behold, magi from the east arrived in Jerusalem ,2
saying, "Where is the newborn king of the Jews? We saw his star at its
rising and have come to do him homage."
3 When King Herod heard this, he was greatly troubled, and allJerusalem with him.
4 Assembling all the chief priests and the scribes of the people, he inquired of them where the Messiah was to be born. 5 They said to him, "In Bethlehem of Judea, for thus it has been written through the prophet:6 'And you, Bethlehem, land of Judah, are by no means least among the rulers of Judah; since from you shall come a ruler, who is to shepherd my people Israel.'"
7 Then Herod called the magi secretly and ascertained from them the time of the star's appearance.
8 He sent them toBethlehem
and said, "Go and search diligently for the child. When you have found
him, bring me word, that I too may go and do him homage."
9 After their audience with the king they set out. And behold, the star that they had seen at its rising preceded them, until it came and stopped over the place where the child was.
10 They were overjoyed at seeing the star,11 and on entering the house they saw the child with Mary his mother. They prostrated themselves and did him homage. Then they opened their treasures and offered him gifts of gold, frankincense, and myrrh.
12 And having been warned in a dream not to return to Herod, they departed for their country by another way.
3 When King Herod heard this, he was greatly troubled, and all
4 Assembling all the chief priests and the scribes of the people, he inquired of them where the Messiah was to be born. 5 They said to him, "In Bethlehem of Judea, for thus it has been written through the prophet:6 'And you, Bethlehem, land of Judah, are by no means least among the rulers of Judah; since from you shall come a ruler, who is to shepherd my people Israel.'"
7 Then Herod called the magi secretly and ascertained from them the time of the star's appearance.
8 He sent them to
9 After their audience with the king they set out. And behold, the star that they had seen at its rising preceded them, until it came and stopped over the place where the child was.
10 They were overjoyed at seeing the star,11 and on entering the house they saw the child with Mary his mother. They prostrated themselves and did him homage. Then they opened their treasures and offered him gifts of gold, frankincense, and myrrh.
12 And having been warned in a dream not to return to Herod, they departed for their country by another way.
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ
đề của hình này là gì?
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
* Bạn hãy viết câu Tin Mừng thánh
Mátthêu 2,11b
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
II. TRẮC NGHIỆM
01. Đức Giêsu ra đời thời vua nào trị vì
đất nước Ítraen? (Mt 2,1)
a.
Vua Đavít.
b.
Vua Ácrippa.
c.
Vua Hêrôđê.
d.
Vua Pharaô.
02. Những người từ phương đông đến bái lạy
Hài Nhi Giêsu là ai? (Mt 2,1)
a.
Các nhà chiêm tinh.
b.
Những người chăn chiên.
c.
Dân thành Giêrusalem.
d.
Các thầy luật sĩ.
03. Khi nghe các nhà chiêm tinh hỏi “Đức
vua dân Do thái mới sinh, hiện đang ở đâu?”, cả thành Giêrusalem thế nào? (Mt
2,3)
a.
Bối rối.
b.
Vui mừng.
c.
Hân hoan.
d.
Xôn xao.
04. Ra khỏi thành Giêrusalem, cái gì đã dẫn
họ đến nơi Hài Nhi ở? (Mt 2,9)
a.
Bảng chỉ đường.
b.
Ngôi sao.
c.
Những người chăn chiên.
d.
Các tư tế.
05. Những bảo vật các nhà chiêm tinh dâng
cho Hài Nhi là gì? (Mt 2,11)
a.
Vàng, nhũ hương, rượu.
b.
Nhũ hương, mật ong, mộc dược.
c. Nhũ
hương, mộc dược, vàng.
d.
Mộc dược, bạch ngọc, nhũ hương.
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Đây là những người được nhà vua triệu
tập để hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu? (Mt 2,4)
02. Các nhà chiêm tinh đã đi theo cái này
đến nơi Hài Nhi ở. (Mt 2,9)
03. Đức Giêsu ra đời thời vua nào trị vì
đất nước Ítraen? (Mt 2,1)
04. Các nhà chiêm tinh đã dâng thứ này cho
Hài Nhi Giêsu? (Mt 2,11)
05. Nơi Hài Nhi Giêsu ra đời. (Mt 2,1)
06. Các nhà chiêm tinh đến thành này để hỏi
“Đức vua dân Do thái mới sinh, hiện đang ở đâu? (Mt 2,3)
07. Khi nghe các nhà chiêm tinh hỏi “Đức
vua dân Do thái mới sinh, hiện đang ở đâu?”, cả thành Giêrusalem thế nào? (Mt
2,3)
08. Những người từ phương đông đến bái lạy
Hài Nhi Giêsu là ai? (Mt 2,1)
Hàng
dọc: Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
Họ vào nhà,
thấy Hài Nhi với
thân mẫu là bà Maria,
liền sấp mình
thờ lạy Người.
Tin Mừng thánh
Mátthêu 2,11a
GB. NGUYỄN THÁI
HÙNG
Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
LỄ HIỂN LINH
NĂM B
Tin Mừng thánh Mátthêu 2,1-12
I. HÌNH TÔ MÀU
*
Chủ đề :
Các Nhà Chiêm Tinh
* Tin Mừng thánh Mátthêu 2,11b
Rồi họ mở bảo
tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.
II. Lời giải đáp trắc nghiệm
01. c.
Vua Hêrôđê (Mt 2,1)
02. a.
Các nhà chiêm tinh (Mt 2,1)
03. d.
Xôn xao (Mt 2,3)
04. b.
Ngôi sao (Mt 2,9)
05. c.
Nhũ hương, mộc dược, vàng (Mt 2,11)
III. Lời giải đáp ô chữ
01. Kinh
sư (Mt 2,4)
02. Ngôi
sao (Mt 2,9)
03. Vua
Hêrôđê (Mt 2,1)
04. Nhũ
hương (Mt 2,11)
05. Bêlem
(Mt 2,1)
06. Giêrusalem
(Mt 2,3)
07. Xôn
xao (Mt 2,3)
08. Nhà
chiêm tinh (Mt 2,1)
Hàng
dọc: Hiển Linh.
GB. NGUYỄN THÁI
HÙNG
Các bài suy niệm LỄ HIỂN LINH - A - B - C
Lời Chúa: Is 60,1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12
Tài liệu về Lời Chúa
***********************************************
Gặp gỡ Chúa
Những hạng người nào đã được diễm phúc gặp gỡ Hài
Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem? Trước hết là các mục đồng,
những người canh giữ đoàn vật. Họ là những người nghèo và hơn thế nữa, họ còn
là những người bị khinh dể bị coi thường. Các luật sĩ và Biệt phái thường gọi
họ là bọn dân đen. Cái đám người không biết đến lề luật, họ là những kẻ bị chúc
dữ. Thế nhưng, chính đám người bị chúc dữ ấy, chính đám người không biết đến lề
luật ấy lại là những người đầu tiên được đón nhận Hài Nhi Giêsu.
Tiếp đến là những nhà bác học xa lạ. Đường không quen, nẻo không thuộc. Họ từ xa
mà đến, dám chấp nhận mọi hy sinh gian khổ. Cái nghèo của những người này chính
là thái độ sẵn sàng của họ. Các Luật sĩ và Biệt phái coi họ là dân ngoại. Thế
nhưng, cái đám dân ngoại này lại được diễm phúc gặp được Hài Nhi Giêsu.
Từ những sự kiện trên chúng ta rút ra được hai nhận
định. Nhận định thứ nhất đó là sự gặp gỡ giữa người giàu và kẻ nghèo nơi Hài
nhi Giêsu. Đúng thế, từ xưa cho đến nay vẫn có một hố ngăn cách giữa giàu và
nghèo. Sự ngăn cách này được tạo nên bởi những nghi ngờ và thù oán. Mỗi bên đều
có cái lý của mình. Tuy nhiên trong lịch sử đã có một khoảnh khắc trong đó giàu
và nghèo không còn đố kỵ nhau, đó là khoảng khắc Chúa Giêsu sinh ra. Bởi vì có
những người giàu, giàu về tiền bạc cũng như giàu về kiến thức đã đến viếng thăm
một Hài nhi nghèo nàn, sinh ra không cửa không nhà.Thế nhưng, cái nghèo của Hài
Nhi Giêsu mà ba nhà đạo sĩ khám phá ra đã không đẩy lùi họ, trái lại còn hấp
dẫn họ, không làm cho họ hổ thẹn, trái lại còn làm họ cảm thấy được tôn vinh.
Vì vậy, không ngỡ ngàng, không nghi vấn, họ tự dâng của lễ cho một Hài Nhi của
người nghèo, như triều cống cho một hoàng tử của đế vương.
Nhận định thứ hai đó là các mục đồng và dân ngoại
là những người ít được chuẩn bị nhất lại nhận ra Chúa. Trong khi đó các Luật
sĩ, Biệt phái và tư tế, là những người đã được chuẩn bị nhiều nhất, đã được
thông tin hoàn toàn nhất, bởi vì chính họ đã cho các đạo sĩ biết rõ nơi gặp gỡ
đích thực của vị Vua mới sinh ra, thế nhưng cuối cùng họ đã không nhận ra Ngài.
Họ có dư khả năng để biết nhưng lại không có khả năng để hiểu. Đúng thế, họ
biết được bằng trí tuệ, bằng những phương tiện thông tin đầy đủ có trong tầm
tay, nhưng muốn hiểu thì còn cần đến tấm lòng, cần đến con tim nữa.
Các mục đồng là những kẻ thiếu học, còn các nhà đạo
sĩ là những người thiếu thông tin. Họ không có khả năng để biết, nhưng lại có
khả năng để hiểu. Không phải chỉ sáng trí, có học là đủ để đi vào những mầu
nhiệm của Thiên Chúa. Trái lại, cần phải có thiện chí, cần phải có tấm lòng,
dám chấp nhận những hy sinh, dám từ bỏ cái tự cao tự đại của mình, thì mới có
thể đến gần và gặp gỡ Chúa.
Bởi đó, là những người có đức tin, thế nhưng chúng
ta đã gặp gỡ Chúa như các mục đồng và như ba nhà đạo sĩ phương đông hay chưa?
Một ngôi sao để
đi theo
(Suy niệm của
Jean-Yves Garneau)
Một ngày lễ đầy màu sắc.
Có lễ nào mang nhiều màu sắc hơn lễ Hiển linh? Có
những nhân vật (người ta nói là ba nhưng Tin Mừng không khẳng định điều này)
không biết chính xác đến từ đâu (thánh Matthêu viết rằng từ phương Đông; nhưng
phương Đông lớn lắm!). Người ta không biết tên của họ (dù họ mang tên Mechior,
Balthasar và Gaspar, theo một truyền thống rất cổ xưa mãi từ thế kỷ thứ 5,
nhưng đó không phải là một điều chắc chắn mang tính khoa học). Và có ngôi sao!
Ngôi sao mà người ta đã nói và viết nhiều về nó. Nó hướng dẫn các vị hiền sĩ
của chúng ta (có lẽ là những nhà chiêm tinh và chúng ta đã gọi họ là vua) và nó
đã dừng đúng chỗ, đúng lúc: Trên ngôi nhà có Đức Maria và Hài Nhi Giêsu! Lại có
vàng, nhũ hương và mộc dược nữa…
Hai sứ điệp.
Lễ Hiển linh thật là hấp dẫn, tuy nhiên chúng ta
đừng để mình quá bị chi phối bởi những chi tiết dù có quan trọng đi nữa. Ta hãy
quan tâm tới điều chính yếu: hãy chú ý đến sứ điệp, sứ điệp này gồm hai điều:
Một là, lễ hiển linh nói với chúng ta rằng Chúa
Giêsu không đến trong thế gian vì một số người mà thôi (những người thân cận
với Ngài), rằng Ngài không nhập thế duy chỉ vì một dân tộc (dân tộc Do Thái),
nhưng vì tất cả các dân tộc trên trần thế và vì tất cả mọi người sống trên quả
đất này. Thậm chí quốc gia bé nhỏ nhất cũng không thể bị quên lãng. Không ai,
thực sự không người nào bị loại trừ khỏi những bận tâm của Chúa Giêsu. Ngài
sinh ra cho hết thảy mọi người. Tất cả mọi người, đàn ông đàn bà, lớn bé, giàu
nghèo ở khắp mọi nơi chốn và mọi thời đại đều được mời gọi đến lãnh ơn cứu độ.
Chúa Giêsu đến để soi sáng và cứu vớt toàn thể nhân loại. Những bản văn Thánh
Kinh được công bố hôm nay khẳng định rõ ràng điều đó (x. Ep 3,6: “Mầu nhiệm này
là những kẻ ngoại giáo được thông phần cùng một di sản, cùng một thân thể…” Is
60,3-4: “Chư dân sẽ bước đi hướng về ánh sáng của Ngài… hết thảy họ đều tụ họp
lại…”).
Điều thứ hai của sứ điệp dạy chúng ta rằng Chúa
Giêsu đã bị những kẻ thuộc về Ngài không biết đến, thậm chí còn ruồng bỏ, nhưng
lại được những kẻ xa lạ, các hiền sĩ, tìm kiếm, khám phá, đón nhận và tôn thờ.
Không có chỗ cho Ngài nơi những kẻ thuộc chủng tộc Ngài, nơi quán trọ, ngày
Ngài chào đời! Không có những người trong làng tìm đến máng cỏ đến Giáng Sinh,
chỉ có các mục đồng thôi! Còn Hêrôđê, ông vua thời đó, người ta biết rằng ông
muốn giết Đấng đến để cứu ông!
Hai áp dụng cụ thể.
Ta có thể rút ra từ sứ điệp trên đây hai áp dụng cụ
thể.
Trước hết, ta phải tự nhủ rằng bao giờ cũng có thể
sống bên cạnh Chúa Kitô mà không quan tâm đến Ngài, và cũng có thể biết tên của
Ngài mà không thực sự biết chính Ngài. Lúc đó ta có thể mang nhãn hiệu Kitô
nhưng kỳ thực ta không phải là Kitô hữu. Về mặt lý thuyết, ta khẳng định Chúa
Kitô hiện diện trên thế giới, nhưng ta không rút ra được từ đó một kết luận
thực tiễn nào cả cho những ứng xử của cá nhân mình và cho cách điều khiển xã
hội.
Sau đó ta phải tự nhủ –đây là áp dụng cụ thể thứ
hai- rằng ta luôn luôn phải để cho một ngôi sao hướng dẫn mình, phải luôn luôn
lên đường tìm kiếm Chúa Kitô, luôn luôn cố gắng hiểu rõ Ngài hơn… vì nơi chúng
ta bao giờ cũng còn lại một cái gì ngoại giáo! Ở đây tôi nghĩ đến tất cả những
ngẫu tượng mà ít nhiều chúng ta còn tôn thờ hoặc để cho mình bị chúng thôi miên
mà không hay biết. Những ngẫu tượng này là; tham tiền bạc, cá nhân chủ nghĩa
thúc đẩy chúng ta quên đi số phận của kẻ khác. Ta cũng có thể gọi là ngẫu tượng
óc tiêu thụ quá đáng rất thường điều khiển chúng ta và nhất là cái nhìn hoàn
toàn duy vật của chúng ta về cuộc sống.
Tìm ngôi sao dẫn đến nơi có Chúa Giêsu và Mẹ Ngài,
từ bỏ xứ sở, đi đến một nơi xa lạ, dám sống một cuộc mạo hiểm thiêng liêng
trong đó ta dấn thân hoàn toàn và vì đó ta cho đi cái tốt nhất nơi mình, đấy là
những gì các hiền sĩ đã làm. Còn chúng ta, quá thường sống như người ngoại đạo trong
một đất nước còn mang tên Kitô, chúng ta có can đảm lên đường tìm kiếm Chúa
Kitô không? Chúng ta có biết đi theo ngôi sao của các hiền sĩ còn đang chiếu
sáng cho những kẻ đói khát Thiên Chúa không?
CHÚA TỎ MÌNH RA
CHO NHỮNG TÂM HỒN THIỆN CHÍ
Suy niệm của
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra những chi tiết tương
phản lạ thường.
Tương phản giữa Giêrusalem và Bêlem: Giêrusalem,
thủ đô hoa lệ, trung tâm văn hoá chính trị của nước Do thái, nhưng đã khước từ,
không đón tiếp Đấng Cứu thế. Trong khi đó, Bêlem, một thị trấn bé nhỏ, nghèo
nàn lại là nơi đón tiếp Đấng Cứu thế hạ sinh.
Tương phản giữa những người có đạo và những người
ngoại đạo: Các bậc chức sắc thông thạo Kinh thánh, nhưng chỉ ngồi im tại kinh
thành, không chịu lên đường, nên không gặp được Đấng Cứu thế. Trái lại, ba nhà
đạo sĩ mà ta quen gọi là Ba Vua, là những người ngoại đạo, không am tường Kinh
thánh, nhưng đã biết tìm tòi học hỏi, dấn thân lên đường, nên đã gặp được Chúa.
Tương phản giữa Vua giả và Vua thật: Hêrôđê được
gọi là Vua, nhưng lại cứ nơm nớp lo âu, sợ mất ngai vàng, nên tìm cách tiêu
diệt người khác. Trong khi đó, Đức Giêsu Kitô, Vua Trời lại thản nhiên bình an
trong cảnh khó nghèo, mở rộng vòng tay đón tiếp mọi người xa gần.
Tất cả những tương phản ấy đáng cho ta suy nghĩ.
Đấng Cứu thế không đến theo cơ chế, nhưng rất bất ngờ. Người không đến trong
những cung điện sang trọng nhưng đến trong một chuồng bò tăm tối, hôi tanh.
Người không đến trong quyền lực nhưng trong sự yếu đuối, khiêm nhường.
Tất cả những tương phản ấy khiến ta phải lo sợ.
Không phải cứ có đạo là gặp đựơc Chúa. Không phải cứ giỏi giáo lý là biết Chúa.
Muốn gặp được Chúa phải có thiện chí đi tìm. Muốn biết Chúa, phải dấn thân lên
đường.
Ba Vua là những người ngoại đạo đến từ rất xa,
nhưng đã trở nên gương mẫu cho ta trong việc đi tìm và hiểu biết Chúa. Các Ngài
là những tâm hồn thiện chí.
Là những tâm hồn thiện chí, luôn luôn khao khát
điều lành, nên các Ngài luôn để tâm tìm kiếm. Đêm đêm ngước mắt lên trời cố dò
tìm dấu vết thần linh. Chắc chắn không phải chỉ trong phút chốc mà các Ngài
phát giác ra ngôi sao lạ, nhưng phải trải qua nhiều năm tháng kiên trì chiêm
ngắm bầu trời, cặn kẽ theo dõi đường chuyển dịch của các vì tinh tú, các Ngài
mới có thể nhận biết ngôi sao lạ khi nó xuất hiện.
Việc đi theo ngôi sao lạ cũng không giản đơn. Trước
hết việc lên đường đòi phải ra khỏi nhà, giã từ những tiện nghi dễ chịu, từ bỏ
những sinh hoạt quen thuộc, chấp nhận những thiếu thốn, những nguy hiểm, những
bất tiện trên đường đi. Thiện chí của các Ngài rất cao, nên khi ngôi sao biến
mất, các Ngài vẫn không nản lòng bỏ cuộc, nhưng tìm mọi cách vượt qua khó khăn,
tìm mọi cách để đến gặp được Chúa. Chúa đã chúc lành cho thiện chí của các
Ngài, nên đã cho các Ngài được gặp Chúa.
Đời sống chúng ta là một cuộc đi tìm Chúa. Trong
cuộc đi tìm, ta phải có thiện chí như Ba Vua, biết dấn thân lên đường, biết
phấn đấu chấp nhận hy sinh gian khổ, biết kiên trì không nản lòng bỏ cuộc khi
gặp thử thách.
Ba Vua không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao
dẫn đường. Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta là một ngôi sao lạ, loan báo
tình thương của Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với Chúa. Hãy là ngôi
sao sáng trong đời sống công bình. Hãy chiếu sáng đức thương yêu của Chúa. Hãy
toả ánh sáng ấm áp tình người. Qua những làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận
biết và tìm về với Thiên chúa là ánh sáng chân thật.
Để kết thúc, tôi xin kể một câu chuyện có thật. Một
buổi chiều, một người lái xe con đi trên con đường miền núi vắng vẻ. ở một khúc
quanh, người ấy phát hiện một gia đình bị hỏng xe. Đường vắng, trời tối, họ lo
âu sợ hãi vì đó là đoạn đường thường xảy ra cướp bóc. Biết sửa chữa xe, nên
người ấy đỗ xe, xuống giúp sửa chữa. Xe hỏng nặng. Người ấy phải chui vào gầm
xe, tháo ra từng bộ phận. Tối mịt xe mới nổ máy. Cả gia đình mừng rỡ, muốn trả
công cho người ấy. Nhưng người ấy không lấy công. Cả gia đình cám ơn rối rít và
xin địa chỉ hẹn ngày lên thăm. Khi lên thăm, gia đình mới biết đó là một vị
giám mục. Gia đình đem lòng cảm phục và xin theo đạo cả nhà. Vị Giám mục ấy
chính là một Đức Cha ở cao nguyên Trung phần vào những năm 60.
Nhân dịp đầu năm mới, tôi xin cầu chúc tất cả anh
chị em có một đời sống đạo trong sáng như ngôi sao sáng để đưa dẫn nhiều tâm
hồn về với Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Ba Vua thiện chí ở những điểm nào?
2. Bạn có gặp thử thách trong đời sống đạo không?
Khi gặp thử thách, bạn đã ứng xử thế nào?
3. Theo bạn, cách nào hữu hiệu nhất để làm chứng
cho Chúa: giảng giáo lý, tranh luận, sống bác ái?
4- Tuần này, bạn quyết tâm làm gì để thực hành Lời
Chúa?
Thành tâm thiện
chí sẽ gặp Chúa
(Suy niệm của
ĐTGM Ngô Quang Kiệt)
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra. Việc Chúa sinh
ra được loan báo cho mọi người biết dưới nhiều hình thức khác nhau như: lời các
ngôn sứ loan báo từ nhiều thế kỷ trước, đạo binh thiên thần ca hát, ngôi sao lạ
xuất hiện… Tuy nhiên không phải ai cũng gặp được Chúa.
Có những người không gặp Chúa,
dù biết rõ những chỉ dẫn về Người.
Đó là những kinh sư, biệt phái. Họ hiểu
biết Thánh Kinh. Khi ba nhà đạo sĩ đến hỏi thăm, họ đã đọc vanh vách lời ngôn
sứ loan báo Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bêlem. Nhưng họ không gặp được Chúa, vì họ
hiểu biết lý thuyết mà không thực hành. Ngồi một chỗ mà không chịu lên đường.
Chỉ chú ý tới chữ nghĩa sách vở mà không chú ý tới cuộc sống con người. Chỉ tìm
trong sách vở mà không tìm những dấu chỉ trong đời thường.
Đó là Hêrôđê. Bạo vương này muốn tìm
Chúa nhưng không gặp Chúa, dù ông có binh hùng tướng mạnh trong tay. Ông không
gặp Chúa vì ông tìm Chúa không phải vì Chúa mà vì quyền lợi của ông. Ông tìm
Chúa không phải để thờ lạy nhưng để giết chết. Ông tìm Chúa không phải để tôn
vinh Chúa nhưng để tôn vinh bản thân. Ông tìm Chúa không phải để làm theo ý
Chúa nhưng để bắt Chúa phải theo ý ông. Vì thế Chúa đã vượt thoát khỏi tầm tay
của ông. Vĩnh viễn ông không gặp được Chúa.
Những người xem ra gần gũi nhất, hiểu biết nhất, có
phương tiện nhất đã không gặp được Chúa. Trái lại, những người có vẻ nghèo hèn,
thiếu thốn phương tiện, xa xôi cách trở lại gặp được Chúa. Đó là các
mục đồng và đặc biệt ba nhà đạo sĩ mà ta nhớ đến trong thánh lễ
hôm nay.
Họ đã gặp Chúa vì họ đã lên đường.
Dù không biết lời tiên tri loan báo, không biết lời hứa, không thuộc Thánh
Kinh, nhưng khi thấy ngôi sao lạ, họ đã lên đường ngay tức khắc. Lên đường nói
lên thái độ ngoan ngoãn tuân theo ơn Chúa soi sáng. Lên đường nói lên thái độ
dấn thân. Lên đường nói lên lòng cương quyết đi tìm. Lên đường là chấp nhận
gian khổ để đạt được điều mơ ước.
Họ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao
khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời
tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện,
họ đã nhận biết. Khao khát chân lý nên khi Chúa vừa tỏ mình qua dấu hiệu ngôi
sao, họ đã vội vã theo sát dấu ánh sao đi tìm. Khao khát gặp Chúa nên khi ánh
sao vụt biến mất, họ đã không nản lòng, quyết tâm dò hỏi cho ra.
Họ đã gặp Chúa vì tâm hồn họ đơn sơ
thành thực. Đi tìm Chúa chứ không tìm bản thân. Đi tìm Chúa để thỏa
lòng khao khát chân lý chứ không để thỏa mãn những tham vọng đen tối. Đi tìm
Chúa để thờ lạy Chúa chứ không vì lợi lộc cá nhân. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã
nhận ra ý Chúa, dù ý Chúa chỉ nhẹ nhàng qua một ánh sao. Với tâm hồn đơn sơ, họ
đã nhận ra chính Chúa, dù Chúa có ẩn thân dưới hình dáng một em bé yếu ớt nghèo
nàn, trong khung cảnh rất tồi tàn của chuồng bò hôi hám.
Đời sống đạo của tôi cũng là một cuộc đi tìm Chúa.
Tôi sẽ chỉ gặp được Chúa nếu tôi noi gương ba vua, có tâm hồn đơn sơ thành
thực, có lòng khao khát Chúa vì chính Chúa, và dám dấn thân thực hành những
điều Chúa truyền dạy, đặc biệt là giới răn bác ái, phục vụ Chúa trong những anh
em nghèo khổ.
Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường lối của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Tại sao những kinh sư, biệt phái và Hêrôđê không
gặp được Chúa?
2) Có những người ngoại đạo thành tâm thiện chí như
ba vua. Bạn đã gặp ai như thế chưa? Bạn nghĩ gì về họ?
3) Muốn gặp Chúa, bạn phải làm gì?
4) Ba vua nhờ ngôi sao dẫn đến gặp Chúa. Bạn phải
làm gì để trở thành ngôi sao đưa người khác đến với Chúa?
Gọi tên ngày lễ
ĐGM Vũ Duy
Thống
(Trích trong
‘VỚI CẢ TÂM TÌNH’ – Trg. 31)
Trong dịp tĩnh tâm Mùa Vọng ở một giáo xứ, có người
bạn trẻ đã nêu lên câu hỏi liên quan đến Thánh Lễ hôm nay: “Tại sao ngày nay
Phụng Vụ không sử dụng tên gọi lễ Ba Vua nữa? Phải chăng rốt cuộc chẳng có ông
vua nào đến viếng Hang đá cả?”.
Câu hỏi ấy trực tiếp về mặt kiến thức, không khó
trả lời; nhưng gián tiếp về mặt tâm linh, lại hé mở cho thấy đức tin hôm nay
xem ra đang có nhu cầu tìm hiểu. Đã đành, hiểu chưa phải là tin hay chưa hẳn đã
tin, nhưng một phần nào cũng góp phần dẫn tới đức tin cho người chưa tin, đào
sâu đức tin cho người đã biết, và cũng quan trọng không kém là củng cố sức mạnh
cho những niềm tin đang ở trong tình trạng nhạt nhòa.
Niềm tin là một công trình còn phải dựng xây và là
một hành trình còn phải tiếp tục. Trên cơ sở ấy, xin đi vào Thánh Lễ hôm nay.
1) Từ tên gọi “lễ Ba Vua”…
Đây là tên gọi quen dùng đối với tín hữu Việt Nam,
để chỉ về việc các Đạo sĩ Đông Phương tìm đến Hang đá viếng Chúa Hài Đồng. Gọi
là vua vì họ là những bậc quyền quý đến từ phương Đông theo nhãn giới của bài
đọc thứ nhất; và xác định con số ba vì có ba sắc dân được nói đến trong Isaia
60, mà cũng vì lễ vật tiến dâng được liệt kê ba món rành rành là vàng, nhũ
hương và mộc dược, như chuyện kể của Phúc Âm. Để rồi cứ thế theo truyền thống,
Ba Vua đã trở nên tên gọi cho ngày lễ.
Nhưng điều quan trọng không phải là lo xác định họ
là vua hay không phải là vua, họ có ba vị hay có thể có nhiều hơn nữa, mà chính
là hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một
lòng khát khao chân thành tìm kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt
lành, để rồi với sự trợ giúp của ơn thánh, tới lúc Chúa muốn và bằng muôn ngàn
cách thế linh động theo sáng kiến của Ngài, họ sẽ được dẫn tới gặp gỡ Đấng họ
nỗ lực tìm kiếm.
Dưới cái tên gọi “lễ Ba Vua”, chính là một thiện chí
tìm kiếm đức tin. Nhưng cũng dưới tên gọi ấy, trong bối cảnh của trang Tin
Mừng, người ta lại còn thấy cả một đối chứng đau lòng. Trong khi dân ngoại từ
xa, dẫu chẳng hề biết đến lời hứa để mà hy vọng, chẳng hề có được giao ước để
mà tin tưởng, và cũng chẳng hề được dẫn đường bởi lề luật, nhưng lại chân thành
tìm kiếm và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để mà tìm gặp; thì
ngược lại, dân Do Thái ở gần, dẫu có tất cả thuận lợi của một truyền thống dài
lâu chờ mong Đấng Cứu Thế, lại không mảy may kiếm tìm, và tệ hại hơn nữa, còn
xôn xao về chính việc Chúa đến, không phải vì hối hận về việc mình không sẵn
sàng, mà vì lo ngại rằng Chúa đến sẽ đặt dấu chấm hết cho cả một cơ chế họ đã
bao đời gầy dựng. Không lạ gì nếu cơ chế ấy đã sản sinh ra những khuôn mặt như
Hêrôđê!
Hóa ra, Ba Vua tìm Chúa với lễ vật lòng thành, khi
về đã thấy mình là những kẻ tin; còn Hêrôđê tìm Chúa với ác tâm tận diệt, mãi
mãi sẽ thấy mình chỉ là một bạo chúa.
2) … Đến tên gọi “lễ Hiển Linh”…
Mặc dù tên gọi “lễ Ba Vua” vẫn giữ nguyên giá trị
cổ kính, nhưng ngày nay Phụng Vụ thích sử dụng tên gọi “lễ Hiển Linh” hơn,
chẳng phải vì tên gọi đó nghe kêu hơn hoặc hiểm hóc hơn, cũng chẳng phải để
tránh né những câu hỏi không cần thiết về những chi tiết nhiều khi chỉ làm cho
ngày lễ thêm rườm rà; mà thật ra là để làm nổi bật lên ý định mầu nhiệm chung
nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh. Đó là: Ngài muốn tỏ mình ra cho tất
cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành
kiếm tìm Ngài.
Nếu “Ba Vua” là tên gọi nói lên thiện chí của con
người, thì “Hiển Linh” là danh xưng khẳng định hồng ân của Thiên Chúa. Thiện
chí thôi, dẫu rất lớn, vẫn chỉ là khởi điểm; nhưng chính hồng ân Hiển Linh mới
là kết điểm mở ra những mùa gặp gỡ. Và tới phiên mình, mỗi lần gặp gỡ tại kết
điểm hành trình, lại là một khởi điểm mới cho hành trình tìm kiếm mới, với
những thiện chí mới nhằm vươn lên những đỉnh cao mới.
Và gặp gỡ như thế là một cuộc đổi đời. Vì thiện chí
luôn tìm kiếm hồng ân, mà cũng vì hồng ân luôn đợi chờ một thiện chí biến đổi
cuộc đời. Ba Vua gặp Chúa với cả tâm tình được thể hiện qua những lễ vật tiến
dâng, họ đã được soi sáng để theo đường khác mà về nhà. Và ở đó sẽ là những
cuộc Hiển Linh mới trong đời sống thường ngày.
Gặp ai thì cũng có thể gỡ ra được, nhưng thiện chí
con người một khi đã gặp được Thiên Chúa vốn từ bao giờ đã sẵn tỏ mình ra, thì
sẽ không thể gỡ ra được nữa. Người ta thành người nhà của Thiên Chúa, và trong
mắt nhìn của Phaolô, người ta dẫu xa cũng hóa gần, dẫu lạ cũng nên quen, dẫu
gốc gác thế nào đi nữa “cũng cùng được thừa hưởng gia nghiệp với người Do Thái,
cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (bài đọc thứ
hai). Hiển Linh chính là tên gọi khác của mầu nhiệm Nhập Thể, của danh xưng
Emmanuel và của bốn mùa gặp gỡ.
3) … Để dẫn tới sứ điệp đời sống.
“Lễ Ba Vua” hay “Lễ Hiển Linh”, mỗi tên gọi có
những bước nhấn riêng, nhưng rốt cuộc cũng chỉ là một mầu nhiệm gặp gỡ mà Thiên
Chúa từ bao thuở đã mở ra cho những kẻ biết kiếm tìm. Thế nên đây không chỉ là
một biến cố của ngày đã qua, mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho
những ngày sẽ tới. Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến
gặp Ngài không.
Hôm qua đã có một nghịch lý là những kẻ đến gặp
Chúa đều là những kẻ thành tâm như các mục đồng tại Bêlem, như cụ già Simêon
tại Đền Thánh, như những Đạo sĩ hôm nay từ xa đến; còn toàn thể xã hội tôn giáo
Do Thái lại hầu như vắng bóng, hay nếu có thì chỉ như một lực cản đáng buồn.
Thế đấy! điều tưởng như thuận lợi lại là một cạm bẫy dẫn tới sự thảm bại, còn
điều tưởng chừng như bất lợi lại trở nên lợi thế cho việc gặp Chúa. Liệu nghịch
lý ấy hôm nay còn có mặt trong đời sống đức tin của cộng đoàn cũng như của mỗi
cá nhân?
Trả lời câu hỏi ấy với quyết tâm khởi hành trên con
đường mới, thiết tưởng sẽ là một điều tích cực trong Mùa Giáng Sinh. Nhưng điều
tích cực hơn của ngày lễ hôm nay không chỉ là sứ điệp hoán cải, mà chính là lời
mời gọi mở rộng tấm lòng, mà trân trọng tất cả những người không cùng chia sẻ
một niềm tin với mình, bởi lẽ họ cũng có chỗ đứng trong tấm lòng hiển linh của
Chúa. Ơn cứu độ là phổ quát. Và nếu nét đặc trưng của lễ Hiển Linh là ánh sao
dẫn đường, thì trách nhiệm của những kẻ đã được gặp gỡ Thiên Chúa sẽ không chỉ
thu hẹp trong đời sống cá nhân tu thân tích đức, mà còn hướng tới sứ vụ đối với
những kẻ lân cận mình. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời
sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao
cụ thể soi đường truyền giáo.
Nếu mỗi kẻ tin là ánh sao, con đường gặp gỡ biết
bao sáng ngời, và lời tiên báo của tiên tri Isaia sẽ nên hiện thực hiển linh
cho đời.
Tóm lại, khởi đi từ cách hiểu về tên gọi của ngày
lễ để dẫn tới đời sống đức tin, đó là chủ đích của những điều chia sẻ trên đây.
Nhưng từ hiểu biết đến đức tin, khoảng cách vẫn không nhỏ. Chính Phúc Âm hôm
nay là một kinh nghiệm. Xin đừng để kinh nghiệm ấy mãi còn là một nghịch lý
không thể vượt qua. Nhưng hãy để kinh nghiệm ấy biến thành những kinh nguyện
quyết tâm mở sang cuộc sống mới. Và đó chính là cách gọi tên cụ thể một ngày lễ.
Niềm tin: một
chuyến đi
ĐGM Vũ Duy
Thống
(LÀM NỤ HOA
TRẮNG - Trg. 13)
Phúc Âm hôm nay rất sống động. Cứ như cuốn phim mô
tả cuộc hành trình đầy kịch tính của những khách lạ phương xa: từ ngạc nhiên
khám phá ngôi sao lạ, qua xáo động tại Giêrusalem, tới Bêlem nghiêng mình thờ
kính, rồi dắt díu nhau lặng lẽ tìm đường khác về nhà. Cứ như xô đẩy nhau xuất
hiện trên màn ảnh những cuộc đối đầu càng lúc càng thêm căng thẳng: giữa chính
diện và phản diện, giữa lo sợ của bên này và thanh thản của bên kia, giữa tìm
gặp hướng tới và lạc mất nẻo đi. Cứ như í ới cơ man nào là tiếng nhỏ to bàn bạc
chen lẫn tiếng ồn ào bàn tán của những kẻ bị xem là xa nhưng lại biết bàn vào
và của những người được coi là gần nhưng chỉ biết bàn ra.
Nhưng giữa những chi tiết tưởng như bất ngờ trên
hành trình rất dài và rất xa ấy, người ta thấy lấp lánh hình ảnh của niềm tin
như một chuyến đi với những đặc tính tiêu biểu:
1) Niềm tin: một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân
Thiên Chúa.
Những vai chính trong cuộc hành trình tìm tới Bêlem
“triều bái Vua dân Do Thái mới sinh” được truyền thống giới thiệu bằng nhiều
kiểu nói khác nhau, lúc thì gọi là Vua, lúc khác là Đạo sĩ hoặc Chiêm tinh gia.
Gọi sao cũng được: Vua vì những của lễ tiến dâng, Đạo sĩ vì hành trình tìm
kiếm, Chiêm tinh gia vì nhìn thấy ngôi sao và dựa vào ánh sao mà xác định lối
đường. Chỉ biết họ là những người thiện chí kiếm tìm chân lý và vận dụng tốt
những phương tiện đang có để tìm gặp chân lý bằng cách lên đường không mỏi mệt.
Khởi điểm cuộc hành trình là một ánh sao lạ xuất hiện
phía trời Đông, tượng trưng cho ơn thánh dẫn khởi từ Thiên Chúa, để ai biết
tiếp nhận, sẽ trở nên ánh sáng soi đường. Nhìn thấy ánh sao hằng hà sa số trên
bầu trời đêm là một điều bình thường ai cũng có thể làm được, nhưng nhận thấy
giữa muôn vàn lấp lánh ấy chỉ một ánh sao lạ thôi lại là chuyện chẳng bình
thường chút nào, nếu không muốn nói là do tổng hợp giữa kiếm tìm và gặp gỡ, hay
đúng ra giữa ơn Trời ban và lòng người biết mở ra tiếp nhận.
Tương tự, niềm tin trước hết là hồng ân đến từ tình
thương Thiên Chúa dành cho hết mọi người, nhưng chỉ những ai biết tiếp nhận với
tâm thành chí thiện, họ mới có thể có được niềm tin vào Chúa để sẵn sàng khăn
gói lên đường khởi sự chuyến đi. Ra khỏi nếp nghĩ thường ngày để tiếp nhận ý
Chúa, ra khỏi thói quen khô cứng lâu đời do cha ông truyền lại để mạo hiểm một
phen bước theo ánh sáng trời cao, ra khỏi những tiện nghi đủ đầy dậm chân tại
chỗ để cơm mắm cơm muối gieo bước lữ hành.
2) Niềm tin: một chuyến đi biết chấp nhận những thử
thách
Là hồng ân Chúa ban, nhưng đức tin cũng còn là nỗ
lực đóng góp không ngơi nghỉ của con người, để vượt qua những thử thách và kinh
qua những thử luyện được xem là những thách đố trong chiều dài cuộc sống. Đây
không chỉ là chuyện “thức lâu mới biết đêm dài” để con người chứng minh sức bền
tin tưởng tháng năm, mà còn là chuyện “lửa thử vàng gian nan thử đức” trong
những lúc Thiên Chúa xem ra ẩn mặt và hồng ân xem ra vắng bóng, như lúc “ba Vua
toan mất hướng, ánh sao bỗng vụt lặn”. Đấy là chưa kể đến những lúc phải đối
diện với âm mưu chủ ý của những người đồng đạo, cũng tin Chúa nhưng không thành
tâm, thậm chí còn gài bẫy ngọt ngào giả nhân giả nghĩa như Hêrôđê; hay cũng
biết cách quy chiếu Thánh Kinh nhưng không để tìm ra lối sống ngay chính, trái
lại, chỉ lợi dụng để toa rập lừa gạt phỉnh phờ người khác như một số thượng tế
và kinh sư trong dân.
Đêm Noel Chúa sinh ra đem xuống niềm vui, nhưng
thành phố nào đó của Iran chẳng những không có niềm vui mà còn phải chịu động
đất làm chết nửa thành phố. Chúa như vắng mặt. Thử thách. Đêm Noel thiên thần
hát khúc bình an mà tại Bêlem chính nơi Chúa sinh ra hôm nay vẫn còn chiến
tranh, chết chóc. Chúa như vắng mặt. Se lòng.
Thử thách đối với đức tin như gió đối với lửa: gió
thổi tắt lửa yếu, nhưng làm bừng lên lửa sáng. Vấn đề là cần biết can đảm và
bền chí. Những thử thách trong cuộc sống niềm tin không phải là dấu hiệu Thiên
Chúa bỏ rơi con người, mà là những cơ hội để con người chứng minh phẩm chất
niềm tin. Niềm tin không thử thách: niềm tin dễ dàng; niềm tin thất bại trước
thử thách: niềm tin dễ dãi; niềm tin chấp nhận thử thách mới là niềm tin đích
thực cho dẫu nhiều khi chẳng dễ chịu chút nào.
3) Niềm tin: chuyến đi biết đón nhận đồng hành
Không phải vô tình mà lễ Hiển Linh vẫn được truyền
thống gọi là lễ Ba Vua, có nơi kể tên các vị đến hàng chục (theo kiểu đồng bằng
sông Cửu Long thì còn có cả chục 12, chục 16 cơ đấy), nhưng chừng như hữu ý cho
thấy niềm tin không phải là cuộc đơn hành mà là một chuyến đi biết đón nhận
đồng hành, không chỉ vì lý do “càng đông càng vui” mà vì giới luật yêu thương
là biểu hiện rõ nhất của đức tin cũng là cách cụ thể sống động nhất để diễn đạt
đức tin. Con người thời nào cũng thế, không thích bị chinh phục bởi giáo điều
nhưng lại tự nguyện buông mình chịu khuất phục vì gương sáng đức tin. Nhớ lại ở
Thăng Long thuở hạt giống Tin Mừng mới được gieo vào thửa đất Việt Nam, tín hữu
thương nhau quá trời đến nỗi người ngoài đời đã gọi tín hữu là những người theo
“Đạo yêu nhau”, tức là những người cùng đi với nhau trên nẻo sáng yêu thương.
“Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn”, tín hữu đồng
hành bên nhau còn để nâng đỡ nhau, nhất là trong cơn nguy biến như Ba Vua gặp
Chúa tại Hang đá rồi, phải dìu nhau lên con đường khác để tránh âm mưu đen tối
của Hêrôđê. Ngoài miệng thì bảo là đi triều bái, còn trong hành động lại làm điều
trái, tàn sát thê lương, “giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ
hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh”.
Con đường khác ấy sẽ mới hơn, lạ hơn và cũng có thể sẽ gặp rủi ro nhiều hơn,
nhưng đã có bạn bè thân quen bên cạnh đồng hành, nên cứ an lòng nương tựa vào
nhau mà dấn bước.
Giống như Kinh Tin Kính, dẫu tín hữu tuyên xưng
mang tính bản thân cá nhân “Tôi tin”, nhưng không là đơn độc một mình giữa nhà
thờ trống vắng mà là giữa cộng đoàn Phụng Vụ một ngày lễ trọng, nên bỗng lấp
lánh như thể đồng thanh tuyên tín “Chúng tôi tin”. Tôi và chúng ta chỉ là những
cách biểu lộ khác nhau của cùng một niềm tin đón nhận đồng hành.
Tóm lại, dựa vào hành trình của những vai chính
ngày lễ Hiển Linh để phác vẽ niềm tin như một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân
Thiên Chúa, biết chấp nhận thử thách và biết đón nhận đồng hành là cùng lúc
tích cực hòa mình vào biến cố Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Nếu Chúa luôn có cách
tỏ mình của Ngài thì tín hữu cũng cần lên đường đúng cách Chúa tỏ ra cho mình
biết. Như thế niềm tin mới là chuyến đi đẹp lên ý nghĩa kiếm tìm và gặp gỡ. Và
đó cũng là những hình ảnh sinh động mang tính hiển linh của kẻ tin trước mắt
người đồng thời, giống như hình ảnh của những vai chính trong chuyến đi hôm
nay: ở bước truy tìm họ được mệnh danh là Chiêm tinh gia, khi đã bước lên đường
họ được gọi là Đạo sĩ và khi tới đích với lễ dâng thành kính họ được xưng tụng
là Ba Vua.
Chú giải mục vụ
của Claude Tassin
CÁC ĐẠO SĨ
Đoạn Tin Mừng đề cập đến các vị đạo sĩ gắn kết với
đoạn trước bằng cái tên “Giêsu”. Ngoài ra, Mt 1,23 đã loan báo rằng trinh nữ
“sẽ sinh hạ”; còn ở 2,2 các đạo sĩ vấn hỏi: vua dân Do Thái “đã sinh hạ” ở đâu.
Tuy sự thể đã quá hiển nhiên như vậy rồi, truyền thống kể lại ở đoạn Mt 2,1-12
lại chắc chắn có trước thời Matthêu; ví dụ: như việc không đề cập gì đến sự
hiện diện của Giuse (x. c.11) mặc dù ở Mt 1,18-25 lại nói nhiều đến Giuse.
Ý nghĩa phong phú của đoạn này nằm ở chỗ chứa đựng
rất nhiều câu ám chỉ. Trước hết ta nên dựa vào bố cục của đoạn văn, căn cứ vai
trò của ngôi sao lạ mà chia nó thành hai phần để phác họa rõ nét hơn sự đối
kháng giữa thái độ của các đạo sĩ với thái độ của Hêrôđê.
Trong phần đầu (1-8) tấn tuồng được hình thành:
Câu 1-2: các đạo sĩ quan sát thấy một ngôi sao loan báo sự ra đời của vua dân Do
Thái và họ phải đến kính viếng. Văn bản chỉ nói rằng ngôi sao đã chỉ đường cho
họ, thế thôi. Họ đi đến Giêrusalem, trung tâm của thế giới Do Thái, và hỏi ra
vị vua này ở đâu?
Câu 3-6: Ở Giêrusalem, Hêrôđê vua dân Do Thái và toàn thể công nghị (thượng tế và
luật sĩ) tập thể đại diện cho dân Do Thái đặc trách việc chú giải Kinh Thánh,
đã nghiên cứu những lời tiên báo về Đấng Mêsia. Hơn cả ngôi sao, Kinh Thánh mới
là cuốn chỉ nam dẫn đường cho các đạo sĩ.
Câu 7-8: Giới chức Do Thái giải thích rất chính xác các lời tiên tri nhưng không
hề ra tay hành động. Còn bản thân Hêrôđê lúc nào cũng e ngại một đối thủ xuất
hiện nên đã ghi nhớ điều mặc khải này như đoạn sau sẽ cho thấy.
Phần hai (9-12) tấn tuồng được diễn:
Câu 9-11: Các đạo sĩ lại được ngôi sao hướng dẫn đến tận chỗ ở của Đấng Mêsia sau
khi họ được Kinh Thánh soi rọi.
Câu 12: Mưu mô giết chóc của Hêrôđê bị thất bại bởi vì Thiên Chúa lại ra tay can
thiệp một lần nữa “các đạo sĩ trở về xứ qua một lối khác”.
Ngoài ra bản văn còn cho ta những chìa khóa khác
nếu ta nghiên cứu kỹ lưỡng các nhân vật (các đạo sĩ, Hêrôđê), dấu hiệu ngôi sao
và câu trích dẫn (c.6)
1. Các đạo sĩ: Vừa là những bậc thông thái lại là những nhà thuật sĩ, các “đạo sĩ” Đông
Phương hành nghề bói toán, y học, chiêm tinh và giải mộng. Trước đó, Môsê đã
từng đụng độ họ ở cung điện vua Pharaon, sau này các tông đồ cũng đôi lần gặp
phải các nhân vật nhóm này (x. Cv 8,9; 13,8). Kinh Thánh không yêu thích gì họ.
Và chỉ có dân ngoại mới làm đạo sĩ bởi vì ở xứ Israel, “phù thủy” là nghề bị
cấm chỉ.
Các vị đạo sĩ trong Mt 2 đến từ Đông Phương bởi vì
các thuật sĩ Đông Phương nổi tiếng hơn, nhất là các người Chaldé xứ Babylone.
Matthêu không nói rõ họ thuộc dân xứ nào. Những lễ vật họ mang theo gợi ta đoán
là xứ Ả Rập. Cũng có thể là xứ Ba Tư. Theo hai tác giả La tinh, khoảng năm 66
có các đạo sĩ Ba Tư tuân theo các ngôi sao chỉ đường, đã đến Rôma để triều yết
hoàng đế Neron, khi trở về họ chắc rồi cũng “đi theo lối khác”. Tuy nhiên,
Matthêu không dẫn dắt các đạo sĩ đến với Neron mà là đến với Chúa Giêsu và cũng
rất mỉa mai khi xảy ra sự thể là: đang khi giới hữu trách Do Thái hằng được
Kinh Thánh soi sáng lại không biết cách làm thì các đạo sĩ ngoại giáo chỉ dựa
vào hiểu biết khoa học chứ không phải do Kinh Thánh soi sáng hoặc do tuân giữ
Kinh Thánh lại làm được: đó là bài học truyền giáo đầu tiên của tác giả Tin
Mừng.
Giáo Hội Đông Phương cho rằng có ba vị đạo sĩ (dựa
vào số món quà đem theo) và gọi họ là ba vua. Sự tôn vinh này khá phổ biến
trong Cựu Ước. Thực vậy, theo Thánh Vịnh 72, 10-15 thì các kẻ cầm đầu các dân
nước đến dâng hiến châu báu xứ sở lên cho Đấng Mêsia. Nhưng Matthêu không gọi
họ là vua: họ là những dân ngoại khiêm hạ nhất đã đến với Đức Kitô.
2. Ngôi sao lạ: Chắc chắn tác giả Tin Mừng sẽ giật mình khi biết rằng hậu thế mình đã ra
công cất sức truy tìm những giả thuyết để xác định cho được tinh vân nào hoặc
sao chổi nào có lẽ đã xuất hiện vào thời Chúa Giêsu. Ngôi sao của Matthêu không
phải là vì tinh tú mọc trên bầu trời, mà là ở trong Kinh Thánh (Theo Ds 24,17
thì sẽ có ngày “ngôi sao nhà Giacóp” sẽ mọc lên. Và dân Do Thái ở thế kỷ I đã
áp dụng lời tiên tri này cho Đấng Mêsia. Hình ảnh tượng trưng đó rất phù hợp
với câu chuyện về các đạo sĩ ở đây). Bởi vì lời tiên báo trong Ds 24 cho dân
Israel không phải do một tiên tri Israel nói ra mà bởi Balaam, một kẻ ngoại mà
truyền thống vẫn coi ông ta như là kẻ giải mộng, nghĩa là một “đạo sĩ”.
3. Hêrôđê: Khi Chúa Giêsu ra đời, triều đại Hêrôđê đại đế (năm 37-4 trước Công
nguyên) đã chấm dứt. Ta biết rằng Denys bé nhỏ, một tu sĩ sống vào thế kỷ VII
đã sai lầm khi xây dựng bộ lịch ngày nay. Đúng ra, Chúa Giêsu ra đời vào năm
thứ bảy hoặc thứ sáu “trước khi Chúa Giêsu Kitô ra đời”. Bấy giờ, Hêrôđê rất sợ
kẻ chiếm ngôi đến độ y đã ra lệnh xử giảo ngay cả một số con cái mình: các kẻ
đương thời đã khôi hài với nhau rằng: thà rằng làm con heo (hus theo tiếng Hy
Lạp) của Hêrôđê hơn là làm con đẻ (huios) của y. Tóm lại, những gì ở đây
Matthêu gán cho nhân vật Hêrôđê đều cảm hứng từ thực tế. Nhưng một phần thì
đoạn kể về các thuật sĩ mang tính biểu tượng và mặt khác lúc bấy giờ người ta
lại không hề biết sự ra đời của Chúa Giêsu nhưng cuộc tàn sát ở Bêlem chắc chắn
có để lại dấu ấn trong lịch sử Do Thái, đều là những sự kiện thực tế. Hình
tượng nhân vật Hêrôđê được truyền thống Tin Mừng xét theo hai cách:
a) Đàng sau lời sứ thần báo tin cho Giuse đúng là một việc khả thi,
giống như lời báo tin của Thiên Chúa cho người cha tương lai của Môsê vậy.
Nhưng lại có truyền thuyết Do Thái cổ xưa khác, cũng thuật lại một giấc mộng
làm Pharaon lo lắng và được các thuật sĩ cắt nghĩa như sau: một Hài Nhi sẽ sinh
ra nơi dân Hy Bá Lai, nó sẽ triệt hạ xứ Ai Cập. Chính vì vậy mà Pharaon đã ra
sắc chỉ tàn sát mọi con trai đầu lòng của người Hy Bá Lai (x. Xh 1,15). Chịu
ảnh hưởng của truyền thống này, ở đây Chúa Giêsu xuất hiện như một Môsê mới và
Hêrôđê đóng vai vị vua tàn ác nhưng chỉ chuốc lấy thất bại.
b) Mặt khác, trong đoạn tường thuật này, Hêrôđê được bao quanh bởi “toàn
thể Giêrusalem” (c.3) và các quan chức Do Thái giáo (tư tế, luật sĩ: c.4). Như
thế cuộc khổ nạn và những kẻ chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu đã
được dựng lên ở đây rồi vậy.
4. Lời tiên tri của Mikha (c.6): Đáp lại câu hỏi ở c.2 “Vua dân Do Thái
sinh hạ ở đâu?”. Dựa vào lời nói của các tư tế và luật sĩ (thực ra là của
Matthêu), bằng cách trưng ra “bố trí” sẵn những câu trích dẫn Cựu Ước. Matthêu
đã trích Mk 5,1-3 và phối kết với 2Sm 5,2 “Ngươi sẽ là mục tử chăn dắt Israel
dân Ta” đó chính là lời hứa đối với Đavít. Ta cũng cần nói thêm rằng tiên tri
Mikha nối kết với câu Is 7,14 đã được trích ra ở trên. Như thế, lời tiên báo
được sắp xếp lại như vậy có ý nghĩa gì?
a) Trung thành với Mikha, và ít lạc quan về tương
lai của Giêrusalem, Matthêu đã tôn vinh làng Bêlem đơn hèn, vì đó chính là ngôi
làng của Đấng sẽ trở nên Mêsia cho những kẻ bé mọn (x. Mt 11,25-30).
b) Nhận chân giá trị của thành vua Đavít và lời hứa
ban cho vị vua này (2Sm 5,2) nối kết tầm quan trọng của tổ phụ Đavít của Chúa
Giêsu như đã nhấn mạnh trong Mt 1.
c) Nếu Chúa Giêsu phải là “mục tử dân Israel” (một
tước hiệu gán cho chính Thiên Chúa x. Tv 80,2) và nếu Giêrusalem đã khước từ
Đấng chăn dắt mình, vậy thì lời tiên tri làm sao nên trọn được? Đó chính là
toàn bộ thảm kịch của sứ vụ Đức Kitô.
Toàn bộ nét biểu trưng đoạn đã biến Tin Mừng về ba
vị đạo sĩ thành một Tin Mừng thu nhỏ lại: vua Đavít mới, Môsê mới ngày kia sẽ
rao giảng trên núi, Người mục tử bị chê bỏ (cf. Mt 26,31) bởi những kẻ kêu gào
phải giết Ngài đi, rồi chế nhạo “Vua dân Do Thái” trên đồi Calvariô (cf. Mt
27,37) để rồi đến một ngày vang dội lệnh truyền khẩn thiết này “hãy đi thâu nạp
môn đồ khắp muôn dân”.
Câu hỏi cốt lõi của đoạn này là: Ở ĐÂU? Những chuỗi
kế đến sẽ liệt kê (Mt 28,19) thêm Ai Cập, Rama, Galilê, Nagiarét trong số nhiều
địa điểm có ý nghĩa của cuộc sống đời Đấng Mêsia.
Chú giải của
Fiches Dominicales
BỊ DÂN NGƯỜI TỪ
CHỐI KHI MỚI SINH RA, ĐỨC GIÊSU ĐƯỢC DÂN NGOẠI TIN NHẬN LÀ VUA KHẮP THIÊN HẠ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Đọc lại dưới ánh sáng Phục sinh...
Luca đã thuật lại việc các mục đồng đến viếng thăm
hang đá, bài tường thuật ấy ăn nhịp với quan điểm lựa chọn người nghèo của ông.
Về phần Matthêu, ông này kể lại chuyến thăm viếng của các vị Đạo sĩ, bởi ngay
từ những trang đầu của Tin Mừng, họ đại diện cho những vùng đất xa xôi mà Đấng
Phục Sinh sẽ sai các môn đệ đến, trong lần gặp gỡ cuối cùng ở Galilê: "Anh
em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành Môn đệ... " (Mt 28,19).
Bên dưới cái bề ngoài có vẻ ngây ngô trẻ con kia,
đoạn Tin Mừng về các vị Đạo sĩ rất quen thuộc này thực ra đã được hình thành
một cách tài tình, bằng một thứ nghệ thuật ngôn ngữ biểu tượng hoàn hảo, và
chứa đầy những ẩn dụ của Cựu Ước mà nó hoàn tất: dưới ánh sáng của Phục sinh,
tác giả Tin Mừng đã tìm về nguồn gốc lai lịch của Đức Giêsu, cho chúng ta khám
phá thấy dưới dạng còn mới tiềm ẩn, những gì rồi đây sẽ hiện tỏ trọn vẹn trong
cuộc đởi và biến cố vượt qua của Người.
A. Marchadour lưu ý chúng ta: "Tác giả Kinh
Thánh, không cố bận tâm về tính xác thực lịch sử như chúng ta ngày nay, là
những kẻ đầu óc mang nặng chủ nghĩa thực nghiệm. Nên nhớ tất cả những trình
thuật về thời thơ ấu của Chúa đều được biên soạn từ các dữ kiện xảy ra về sau,
được đưa vào muộn màng sau này. Phải đọc lại quá khứ dưới ánh sáng của hiện
tại, tầm quan trọng của Kinh Thánh như là những "Lời tiên tri”, vẻ huy
hoàng của biên cố vượt qua, tất cả đều tỏ cho thấy căn tính đích thực của Đức
Giêsu. Tất cả cho phép chúng ta hiểu rằng các trình thuật thơ ấu đều đã được
viết lại và tính xác thực lịch sử không phải là bận tâm hàng đầu của tác giả
Kinh Thánh" (Les dossiers de la Bible, số 44, tr.5).
2. Một tường thuật sử dụng ý nghĩa biểu tượng của
những đối lập:
Người đọc dễ dàng nhận ra được ngay hai phía đối
lập nhau:
1. Phía thứ nhất có khung cảnh là đền thờ
Giêrusalem, nơi triều đình của Hêrôđê.
Các Đạo sĩ có thể là những nhà chiêm tinh xứ
Babylon, chuyên tìm đọc những bí ẩn của những vì sao - đã lên đường đi
Giêrusalem, trái tim của thế giới Do Thái, để đến bái lạy "Đức Vua dân Do
Thái”, bởi thấy sao của Người xuất hiện loan báo (c.1 và 2).
- Tuy nhiên, để gặp được Đấng họ tìm kiếm, ngôi sao
lạ kia không đủ. Các ông cần đến sự trợ giúp của dân Do Thái và Kinh Thánh của
họ.
Khi được các vị đạo sĩ đến hỏi, Hêrôđê và thành
phần lãnh đạo tôn giáo ở Giêrusalem quay sang tra cứu các lời sấm liên can đến
Đấng Mêsia (c.3 và 6).
Để trả lời cho các vị khách phương xa này, nhóm cầm
quyền Do Thái đã chú giải một cách chính xác lời các Ngôn Sứ, nhưng vẫn ở lại
trong thành Giêrusalem (c.7 và 8).
2. Phía thứ hai ở tại Bêlem, nơi Đức Vua Giêsu đang
chờ đón các vị đạo sĩ.
- Được Kinh Thánh chỉ dẫn lại, các vị đạo sĩ tìm
thấy lại ngôi sao lạ. Lần này, nó đưa các ông đến với Đấng Mêsia ở Bêlem (c.9
và 10).
- Đến nơi họ gặp được Chúa Giêsu và sấp mình bái
lạy Người, rồi dâng tiến Người những bảo vật quý giá nhất của xứ sở mình, đó là
"vàng, nhũ hương và mộc dược" (c.11).
Hêrôđê thì chỉ nuôi những ý đồ giết người, nhưng
không thành do sự can thiệp của Thiên Chúa: "được báo mộng là đừng trở lại
gặp vua Hêrôđê nữa, nên các vị đạo sĩ đã đi lối khác mà về xứ mình" (c.
12).
Nếu phân tích kỹ hơn, người ta sẽ phát hiện thấy
một bộ ba những cặp đối lập nhau - một lời báo trước về khổ nạn – làm thành cái
khung của câu chuyện:
1. Giêrusalem, trung tâm chính trị và tôn giáo, đã khước từ Đấng đến để hoàn tất những
lời hứa, đối chọi với Bêlem, nơi hạ sinh của Con Vua Đavid các ngôn sứ từng
loan báo.
2. Các đầu mục dân lsrael (các thượng tế và kinh sư hợp thành thượng
Hội Đồng, cơ quan thẩm quyền đại diện cho Do Thái giáo) là những kẻ tự cho mình
là hiểu biết Kinh Thánh, nhưng lại tỏ ra bất lực không thể ra đi, rời bỏ khỏi
nơi ở của mình là Giêrusalem, họ đối chọi với các vị đạo sĩ ngoại giáo đã biết
tìm kiếm, lên đường và sau cùng đã tìm thấy. Trong lúc phía bên kia “bối rối,
xôn xao" thì phía bên này "mừng rỡ vô cùng”.
3. Hêrôđê, kẻ được tác giả gọi là "vua”, và là kẻ chỉ nơm nớp cho ngai báu của
mình, đối chọi với Hài Nhi Bêlem, Đấng thật sự là vua: - Nơi Người đã ứng
nghiệm lời ngôn sứ Isaia 60 (bài đọc I), loan báo ngày mà dân ngoại lũ lượt
tiến về Giêrusalem, mang theo vô vàn châu báu để triều cống. Nơi Người đã ứng
nghiệm lời ngôn sứ Mica 5,1 nói đến Bêlem như là nơi sinh của Đấng Mêsia:
"Phần ngươi, hỡi Bêlem, nhỏ bé nhất trong hàng các bộ tộc Giuđa. Chính tự
nơi người sẽ xuất hiện cho Ta, Vị có mệnh thống lĩnh Israel”.
Nơi Người đã ứng nghiệm lời tiên tri của Balaam,
một người ngoại giáo, trong sách Dân Số 24, báo trước sẽ có một ngày xuất hiện
"một ngôi sao mọc lên từ Giacob”.
Như thế, qua nét tinh tế của bố cục và lối viết của
mình, câu chuyện đã công bố cho thấy căn tính nhiệm mầu của Đức Giêsu, loan báo
sứ mạng của Người, báo trước việc Người sẽ bị những đầu mục của dân Người chối
từ, cũng như sự kiện dân ngoại sẽ tìm đến với Hội Thánh. Tắt một lời, nói theo
kiểu của Claude Tassin, chúng ta đang có ở đây một thứ "Tin Mừng ở dạng thu
nhỏ”.
Được đặt lại trong toàn bộ Tin Mừng của Matthêu, ý
nghĩa của đoạn văn sẽ trở nên sáng tỏ. Francois Brossier tóm tắt như sau:
"Những kẻ đáng ra phải đón nhận Đấng Mêsia do Thiên Chúa gởi đến, lại
không nhận biết người, bởi đầu óc chúng đã ra cằn cỗi. Đang khi đó, chính những
dân ngoại lại đón nhận và tôn thờ Người. Sự chối từ nơi phần lớn dân Israel và
thái độ đón nhận nơi dân ngoại, một chủ đề sẽ bàng bạc trong khắp cả Tin Mừng,
đó là điều đang được minh nhiên công bố ở đây" (Le Monde de La Bible, số
85, trang 18).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Chúng ta có để mình được Phúc Âm hoá bởi chính
Tin Mừng mà chúng ta có bổn phận phải loan báo?”
(T.Sintas, trong "Parole de Dieu pour la
méditation et l'homélie", Médiaspaul, tr.27).
"Nơi chúng ta, là Giáo Hội, hôm nay, được ký thác
một ánh sáng có khả năng soi dẫn đường đi nước bước cho tất cả những ai đi tìm
Đức Giêsu. Điều đó chẳng do bởi nhân đức thánh thiện của chúng ta, cũng chẳng
do bởi đời sống tốt lành hay đức tin cá nhân của chúng ta. Tất cả chỉ vì đó là
sứ mạng chúng ta đã nhận lãnh từ nơi Đức Kitô. Những gì chúng ta phải loan báo
không có cơ sở chân lý từ chính bản thân chúng ta, nhưng duy nhất từ Đấng đã
giao phó sứ mạng ấy cho chúng ta. Sức mạnh của việc Phúc âm hoá đến từ Thiên
Chúa. Đừng chờ đến khi nào nên thánh rồi mới thi hành nhiệm vụ. Một cách đơn
sơ, khiêm tốn, chúng ta hãy để mình được phúc âm hoá bởi chính Tin Mừng mà
chúng ta có bổn phận phải loan báo".
2. Bạn có biết rõ câu chuyện về Balaam và con lừa
của ông ta chưa?
(H.Denis, trong "100 mots pour dire la soi",
Desclée de Brouwer, tr. 71-72).
"Không có hang đá nào mà lại không có ngôi
sao. Chẳng có lễ Hiển Linh nào mà lại thiếu vắng vì sao lạ ấy... Nhưng sự thực
mà nói, bạn có biết rõ hay không câu chuyện về Balaam? Người ta không biết đích
xác nó xảy ra khi nào (sách Dân Số, ch. 22- 24), nếu không phải là vào khoảng
giai đoạn cuối cuộc xâm nhập của Israel vào Đất Hứa, không xa thành Giêricô bao
nhiêu. Những người dân xứ Moab kinh hoàng trước sức tiến của Israel. Họ tìm đến
với một người tên Balaam nào đó, có lẽ là một thầy bói, để nhờ ông ta trù ẻo
cho Israel (vào thời đó, người ta còn tin vào hiệu năng hầu như ma thuật của
những lời trù ẻo).
Được Thiên Chúa can ngăn trong giấc mộng, lúc đầu
Balaam từ chối, rồi sau đó lại quyết định lên đường và cưỡi con lừa cái của
mình. Thiên Chúa liền nổi giận và hiện ra cho con lừa dưới dạng một Thần sứ với
gươm tuốt trần cầm tay. Con lừa tránh sang một bên đường và phóng xuống ruộng.
Balaam đánh đập và hành tội con vật. Nó lại chui vào một khúc đường trũng và
hẹp, vô phương tới lui hay nhúc nhích bên này bên kia. Con lừa đáng thương quỵ
xuống dưới làn roi tới tấp. Lúc ấy, Thiên Chúa cho nó mở miệng nói: nó trách
móc Balaam đã đối xử với nó sao quá tàn nhẫn. Phút chốc, Balaam nhìn ra được vị
thần sứ với lưỡi gươm trần, ông quì xuống sấp mặt bái lạy. Sau đó, ông được
tiếp tục ra đi, nhưng với một điều kiện: chỉ được phép nói trước mặt các thù
địch của Israel điều Thần sứ bảo nói! Thế là cái ông Balaam của chúng ta xổ ra
một tràng những lời chúc phúc cho Israel: “Làm sao tôi sẽ trù ẻo kẻ Thiên Chúa
không cho trù ẻo? Ai nào đếm được số đông của Giacob và Israel? Một ngôi sao
mọc lên từ Giacob và một vương tướng xuất từ Israel sẽ đập tan Moab lẫn Eđom?
Câu chuyện là như thế, trong đó có nói đến một con lừa biết nói, y như trong chuyện
ngụ ngôn của La Fontaine.
Đó cũng còn là lời loan báo trong trời đất về ánh
huy hoàng của Đấng Mêsia: "Một ngôi sao mọc lên từ Giacob”. Rồi đây chẳng
bao lâu. các nhà đạo sĩ sẽ công bố cái âm hưởng vang vọng khắp địa cầu của cuộc
giáng sinh của Chúa Giêsu. Từ nay, trong Người, toàn thể nhân loại, đã được
chúc phúc.
Tôi muốn nghĩ rằng ngôi sao của Noel bắt đầu từ
chuyện một con lừa cái bị kiệt sức và quỵ ngã, là kẻ đầu tiên nhận thức được
tầm mức lớn lao của biến cố. Đúng thế, nhân loại vừa được sinh ra dưới một ngôi
sao tốt, ngôi sao của Đức Giêsu.
Chú giải của Noel
Quesson
Khi Đức Giêsu ra đời lại Bêlem, miền Giuđê, thời
vua Hêrôđê trị vì.
Đó chỉ là những từ duy nhất, rất ngắn ngủi mà
Matthêu dùng để nói về lễ Giáng sinh. Ít thật! Thực sự, Matthêu có vẻ chú ý quá
ít đến biến cố đơn thuần, khác với Luca. Trái lại, một cách rõ rệt, Matthêu chủ
ý trình bày với các độc giả của mình ý nghĩa của sự sinh ra. Và ông cho họ hiểu
ý nghĩa trong câu truyện này về các nhà chiêm tinh... chính câu truyện được triển
khai tối đa, và được trình bày, nếu chúng ta lưu ý, như một thứ dẫn nhập cho
toàn bộ Tin Mừng theo Thánh Matthêu.
Thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ
Phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu?”
Matthêu so sánh, như hai chất nổ, hai danh hiệu:Vua
Hêrôđê... vua dân Do Thái. Câu hỏi này mà những người nước ngoài sắp nhắc lại
trên các phố phường chật hẹp ở Giêrusalem, đã vang đến tai những người Do Thái
như một sự mỉa mai cay độc. Người ta hiểu rằng nó cũng làm cho Hêrôđê vốn đa
nghi phải giao động. Qua lịch sử, người ta biết rằng cả đời ông bị ám ảnh vì sợ
mất quyền bính, và ông thấy chỗ nào cũng có âm mưu, nên chỉ luôn luôn sống
trong các thành lũy, và cho giết chết ba người con trai, bà mẹ vợ và thậm chí
chính người vợ riêng của mình.
Đấy là về chuyện lịch sử. Nhưng ý nghĩa mà Matthêu
dành cho danh hiệu “Vua dân Do Thái" này lại sâu xa hơn nhiều; Nước Trời
sẽ là một trong những đề tài ông ưa thích. Matthêu, ngay từ đầu loan báo về Đức
Vua của Vương quốc này. Ngay trang đầu trong sách Tin Mừng của ông, có một
vương miện đang tranh chấp: ai thực sự là "vua" dân Do Thái? Hêrôđê,
một nhà vua chuyên chế, hiếu sát và tàn bạo? Hay là Giêsu, người bé nhỏ, yếu
hèn, không có vũ khí sẽ chết như nạn nhân vô tội? Chính ở trang cuối cùng sách
Tin Mừng của mình, theo một phương thức viết hàm ý quen dùng trong văn chương
Sê-mít, mà Matthêu đã đặt lại cho Đức Giêsu "Vua dân Do Thái" này.
Những binh lính sẽ nói "Ngự tâu, Vua dân Do Thái" (Mt 27,29). Philatô
sẽ cho ghi "Này là Vua dân Do Thái" ở trên đầu Đức Giêsu chịu khổ
hình thập giá, để chỉ rõ cái "lý do khiến người bị kết án" (Mt
27,37). Tất cả các kinh sư và đại giáo trưởng sẽ cười nhạo "Nếu y là Vua
dân Do Thái, thì y cứ xuống khỏi thập giá đi" (Mt 27,37).
Từ khi sinh ra, Thánh Matthêu gợi ý, Đức Giêsu chỉ
là một vua khiêm tốn, hình ảnh của "Người đầy tớ chịu đau khổ" của
Isaia vị vua này sẽ chỉ cưỡi trên lưng lừa (Mt 21,5) trong cuộc khải hoàn chóng
qua với những tàu lá, vị vua đến không Phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ
(Mt 20,28), và sẽ yêu cầu các bạn hữu của mình "đừng thống trị, mà hãy làm
cho mình trở thành những đầy tớ" (Mt 20,25-26). Vương quyền của vị vua này
không thuộc về thế gian này, nó không hề giống vương quyền của Hêrôđê: nó chỉ
được tiết lộ một cách nghịch lý trong ngày Người thụ nạn, chúng ta sẽ hàm ý gì
dưới những từ lặp lại trong lời kinh của chúng ta: "Xin cho Nước Cha trị
đến!"...Người trị đến với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh đến muôn muôn thế
kỷ".
Chúng tôi đã trông thấy vì sao của Người xuất hiện.
Ngày nay, Giáo Hội so sánh câu truyện Hiển Linh này
với bản văn của Isaia được chọn lựa giữa vô số bản văn Kinh Thánh loan báo Đấng
Mêsia đến như một ánh sáng. "Hãy đứng lên hỡi Giêrusalem, ánh sáng của
người đã đến và vinh quang của Đức Chúa xuất hiện trên ngươi. Hãy nhìn xem:
bóng tối lại bao trùm mặt đất, nhưng Đức Chúa xuất hiện trên ngươi, và vinh
quang của Người chiếu tỏ trên ngươi. Các dân nước sẽ tiến về phía ánh sáng của
ngươi, và các vua, về phía luống sáng bình minh ngươi (Is 60,1-6) Người ta nhớ lại
ánh sáng của Đấng Cứu Độ được hát vào Mùa Vọng và trong lễ đêm Giáng sinh:
Người đi trong bóng tối đã trông thấy xuất hiện một ánh sáng lớn lao, bởi vì
một Hài Nhi đãsinh ra cho chúng ta" (Is 9,1-5).
Trong chủ đề về ngôi sao, có cả một ý nghĩa mà
Thánh Phêrô chỉ rõ khi người nói về đức tin như “sao Mai xuất hiện trong lòng
chúng ta” (2Pr 1,19). Ngôi sao tượng trưng cho ánh sáng của Chúa, ân sủng của
Chúa, tác động của Chúa trong tâm trí của mọi người, và dẫn dắt mọi người hướng
về Đức Kitô. Vâng, Thiên Chúa nhìn ngắm với tình yêu những nhà chiêm tinh ngoại
giáo tiến về Đức Giêsu. Trong đời tôi, cũng có một ơn hướng dẫn tôi khám phá ra
Đức Giêsu. Tôi có can đảm đi theo ơn đó cho đến nơi mà ơn huệ hướng dẫn tôi
không? Xin hãy dẫn dắt con trong ánh sáng này một bước, một bước, chỉ một bước
hướng tới Chúa!
Và chúng tôi đến bái lạy Người.
"Bái lạy". Động từ này được Matthêu sử
dụng ba lần trên trang này chỉ thái độ sâu xa của các nhà chiêm tinh ngoại giáo
này. Họ đến để thờ lạy. Còn tôi? Đôi khi tôi có bái lạy không? Trước cái gì?
Trước ai? Tôi gán cho một ý nghĩa gì về việc bái lạy của tôi lúc dâng Thánh Thể
trong thánh lễ không? Nhiều bạn trẻ ngày nay, tìm lại được cái cử chỉ bái lạy
lớn lao, ở đó có người nhận biết sự bé mọn của mình, đã hoàn toàn phục dài trên
mặt đất trong lòng tôn thờ của tất cả vạn vật.
Nghe tin ấy vua Hêrôđê bối rối, và cả thành
Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư
trong dân Israel lại.
Giữa câu truyện Hiển Linh, Matthêu đưa ra hai thái
độ mà cháng ta luôn luôn thấy lại trong sách Tin Mừng cha ông: "Một đàng
là sự khước từ của các lãnh tụ chính trị và tôn giáo Do Thái. Đáng lẽ họ phải
là những người đầu tiên nhận ra Đấng Mêsia Thế mà, họ làm gì? họ sợ hãi, họ lo
âu. Họ không động tĩnh. Ngay từ đầu họ tìm giết Đức Giêsu. Người ta tưởng đã
nghe thấy tiếng kêu buồn rầu to lớn Đức Giêsu thốt ra về Giêrusalem: "Khốn
thay! Các kinh sư và các Pharisêu... Hỡi Giêrusalem! Giêrusalem! Ngạo giết chết
những người ta sai đến với ngươi bao nhiêu lần ta đã muốn tập hợp các con cái
ta! Và các người đã không muốn" (Mt 23,27-37).
Đàng khác, trái lại, sự "đón tiếp" của
những nhà chiêm tinh ngoại giáo. Dù không được chuẩn bị bao nhiêu để nhận biết
Đấng Mêsia, chính họ lại đi tìm kiếm Người, họ năng động, và không chút lo âu,
họ cảm thấy "một nỗi vui mừng lớn lao Người ta tưởng chừng nghe thấy câu
kết luận của sách Tin Mừng Matthêu: Các ông hãy đi và hãy làm cho tất cả các
dân nước trở thành môn đệ (Mt 28,19).
Thực ra, trang Tin Mừng này, trong những thế kỷ đầu
tiên, được dành để cố giải thích cho các Kitô hữu gốc Do Thái (Matthêu muốn nói
trực tiếp cho chính họ) hiểu tại sao Giáo Hội gồm có đa số là những Kitô hữu
gốc ngoại giáo khi mà Thiên Chúa lại gắn bó quá mạnh mẽ với Do Thái. Mátthêu,
chứng minh, nơi Giêsu. một Đấng Cứu Độ được mong đợi. Người đến vì tất cả mọi
người: và nước Do Thái mới gồm có những người Do Thái hay ngoại giáo, bái lạy
trước Đức Giêsu. Điều đó được tất cả những lại phát ngôn "có tính chất phổ
độ" loan báo trước: Giêrusalem phải trở nên kinh đô của tất cả các dân
tộc. "Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha: tất cả những
người từ Saba kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca
tụng Đức Chúa" (Is 60,1-6). Người ta nhớ đến, bên Israel. nữ hoàng Saba,
đến từ xa, bà đã lên Giêrusalem để gặp gỡ Salômôn. Thánh Vịnh 71, được hát ngày
lễ Hiển Linh, lặp lại cùng một chủ đề của phần mở đầu: "Các vua xứ Tacsi
và các hải đảo sẽ mang các tặng phẩm đến". Và cũng chính Matthêu sẽ nói
lại trong sách Tin Mừng của ông rằng các dân tộc "sẽ đến từ Phương Đông và
Phương Tây, an phần vào bữa tiệc với Abraham" (Mt 8,11). Một lần nũa,
người ta thấy sách Tin Mừng này được cấu tạo như thế nào. Vâng, các "nhà
chiêm tinh" tượng trưng cho tất cả những người ngoại giáo (và những người
không tin) ở mọi thời đại Và trong những từ này, chúng ta không đưa vào đó một
ý nghĩa xấu nào cả. trái lại!trong số các bạn bè của chúng ta, có đông người
như thế, tất cả những người này hoàn toàn chân thành trong các xác tín của họ,
họ có một cuộc sống ngay thẳng, có một ý thức về công lý, và về việc phục vụ
tha nhân, họ có một đời sống gia đình gương mẫu, và làm trọn một cách hoàn hảo
những nghĩa vụ nghề nghiệp của họ. Dẫu vậy, họ không biết Đức Giêsu Kitô theo
nghĩa mạnh.
Lễ Hiển Linh là lễ của tất cả những người không
biết Đức Giêsu, của tất cả những người có niềm tin khác với chúng ta. Và Thiên
Chúa yêu mến họ, soi sáng cho họ, Thiên Chúa dùng ân điển vô hình để lôi kéo họ
đến với Người. Nhưng, chúng ta, chúng ta phê phán họ như thế nào?
Và đây là điều ngôn sứ đã viết: "Phần ngươi,
hỡi Bêlem. miến đất Giu-đa,... vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân
Ta sẽ ra đời".
Tại sao, hãy nói cho tôi hay, ngôi sao lại không
trực tiếp dẫn lối những nhà chiêm tinh, nếu phải làm, đến Bêlem, gần Đức Giêsu?
Tại sao có đường vòng qua Giêrusalem, qua các "kinh sư và thượng tế” Bởi
vì Thiên Chúa trung thành với những lời Người hứa, và vì, nếu ơn cứu độ được
đưa đến cho tất cả mọi người, thì ơn đó đến qua trung gian những người Do Thái
(Rm 9, 10-11).
Họ mở bảo tráp, lấy tặng vật mà dâng tiến.. Họ đi
lối khác mà về xứ mình...
Việc thờ phường là một trong những chức năng chính
yếu của Giáo Hội: sự thờ phượng thật, chính là dâng tiến lên Thiên Chúa kết quả
lao động của con người và của đất. Như vậy cuối cùng tất cả mọi giá trị mà nhờ
đó các nền văn minh sinh tồn được. Cuộc gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời: một
con đường mới mở ra... Tin Mừng vui biết bao, lạy Chúa!
Chú giải của Giáo
Hoàng Học Viện Đà Lạt
CÁC ĐẠO SĨ
I. Thật và không thật.
Câu chuyện này gây ra 2 cảm tưởng trái ngược nhau:
(a) một đàng có những chi tiết khiến ta nghĩ rằng đây là một chuyện hoang
đường, giả tạo, chẳng hạn: cuộc hành trình dài của các đạo sĩ, ngôi sao lạ di
chuyển dẫn đường rồi cuối cùng chỉ đúng vào chỗ Thánh Gia đang ở, cả thành
Giêrusalem khi hay tin có vua mới sinh ra lẽ ra phải vui mừng mà sao lại bối
rối. Hêrôđê phải triệu tập tất cả các thầy thượng tế để hỏi một câu rất dễ, mọi
người đều biết nơi Hài Nhi sinh ra trong khi Hêrôđê không biết, sao chẳng ai tò
mò đi theo các đạo sĩ để xem Hài Nhi v.v. (b) nhưng đàng khác có nhiều chi tiết
rất hợp với lịch sử, như quan tâm của các chiêm tinh gia phương đông về một vì
vua cứu thế, những hồi nổi cơn bất ngờ của Hêrôđê...
Những nét không thật và những nét thật ấy khiến
chúng ta nghĩ rằng tác giả không chủ ý viết một bài tường thuật đúng nghĩa, mà
chỉ muốn viết một bản văn để diễn tả quan điểm thần học của mình. Trong mục
đích đó, tác giả đã xử dụng văn thể Midrash (xem lại trang 19, số III,4): tường
thuật một sự kiện có thật nhưng giải nghĩa thoáng rộng nhằm đưa ra một bài học
cho độc giả.
II. Vấn đề đặt ra bài học của Matthêu
- Trong cộng đoàn của Matthêu mà đa số là Kitô hữu
gốc Do Thái, người ta rất thắc mắc về sự kiện tại sao trong khi lương dân thì
đón nhận Đức Giêsu Kitô, còn dân Chúa chọn lại từ chối Ngài.
- Matthêu viết chuyện này (theo văn thể Midrash)
nhằm đưa ra câu trả lời: Tại vì lương dân ngoan ngoãn với Thiên Chúa hơn, chẳng
hạn các đạo sĩ. Họ chỉ có hiểu biết rất đơn sơ tự nhiên (chiêm tinh), nhưng nhờ
ngoan ngoãn theo sự hướng dẫn của Chúa (biểu tượng là ngôi sao lạ), nên đã được
dẫn tới đức tin vào hài nhi Giêsu. Ngược lại, các thủ lãnh tôn giáo của người
do thái cùng với Hêrôđê, mặc dù đã có Sách thánh trong tay (họ biết rõ là hài
nhi sẽ sinh tại Bêlem) nhưng vẫn không tin. Sự kiện Đức Giêsu được lương dân
tin thờ gợi nhớ đến lời của ngôn sứ Isaia (49,23 và 60,3-6), cũng như Tv
72,10-15.
- Matthêu vừa giải đáp thắc mắc của cộng đoàn, vừa
xoáy sâu hơn vào luận đề chung của mình trong cả 2 chương nhập đề:
. Bảng gia phả chứng minh sự châm rễ của Đức Giêsu
vào lịch sử dân biệt tuyển.
. Câu chuyện báo tin cho Giuse cho thấy tính siêu
việt của Đức Giêsu.
. Câu chuyện các đạo sĩ này cho thấy tính vương giả
của Ngài, đồng thời hé mở cái nghịch lý vẫn thấy xuất hiện tới lui nhiều lần
trong tác phẩm: dân Chúa đã không chấp nhận Ngài.
III. Giải thích một số chi tiết
- Bêlem: ở 7km phía Nam Giêrusalem, là
quê quán của Booz, Jessé và nhất là của Đavít (1S 16 20,6).
- Hêrôđê: Đây là Hêrôđê Cả, trấn nhậm
miền Judée (37-4 trước công nguyên). Sử sách làm chứng rằng vào những năm cuối
đời, ông nghi ngờ mọi người có ý đồ lật đổ ông, vì thế mà ông không ngại ra tay
tàn sát tất cả những ai mà ông nghi là sắp làm hại ông, kể cả những người trong
gia đình ông.
- Đạo sĩ: Có lẽ đây là những nhà chiêm
tinh ngoại đạo nhưng có tiếp xúc với đạo Do Thái và cùng chia sẻ một số niềm
tin của Do Thái, trong đó có niềm tin vào Đấng Messia sắp đến. Họ sống ở phía
bờ bên kia sông Jordan. Từ thế kỷ V, người ta cho rằng họ là những vị vua số
lượng là 3. Đến thế kỷ 8 người ta còn đặt cho các ông những tên là Gaspar,
Balthasar và Melchior.
- Vua Do Thái mới sinh ở đâu? Matthêu
nhấn mạnh đến tính vương giả của Đức Giêsu. Đồng thời Matthêu cũng cho thấy một
nét mỉa mai: chính lương dân nhận ra tính vương giả này và nói cho dân Do Thái
hay.
- Ngôi sao: Do Thái giáo dựa vào Dc
24,17: "Một ngôi sao sẽ xuất ra từ nhà Giacóp, một vương trướng sẽ chổi
dậy từ nhà Israel" để tin rằng sự xuất hiện một ngôi sao lạ là dấu chỉ
Đấng Messia đến.
- Chúng tôi đến thờ lạy Ngài: Động từ
"thờ lạy" (preskunêô) được Cựu Ước thường dùng để chỉ việc lương dân
đến tôn thờ Giavê trong Đền Thờ. Matthêu dùng động từ này có ngụ ý nói đến tính
đại đồng của ơn cứu rỗi mà Đức Giêsu mang đến.
- Cả thành Giêrusalem bối rối: chi tiết
này rõ ràng là phóng đại. Matthêu phóng đại như vậy để diễn tả ý tưởng cả một
phần lớn dân Do Thái từ chối Đức Giêsu. Chi tiết này càng làm nổi bật cái
nghịch lý mà ta đã nói ở trên.
- cc 4-5: không nhằm chúng minh sự
ngu dốt của Hêrôđê, cũng không chứng minh sự thông thái của các ký lục và thượng
tế, mà đơn giản Matthêu chỉ dùng mấy câu này để dẫn vào câu Sách Thánh mà
Matthêu sắp trích dẫn sau đó.
- c 6: Matthêu trích dẫn phối hợp Mt
5,1-3 và 2S 5,2 để trình bày Đức Giêsu là một vua Đavít mới.
- c 10: Niềm vui của các đạo
sĩ: "Các ông vui mừng hớn hở". So sánh với Lc 2,10
(Tin vui vĩ đại). Đó là niềm vui to lớn của lương dân khi thấy Đức Giêsu mang
đến cho họ ơn cứu rỗi mà bấy lâu nay họ khao khát chờ mong.
- c 11: Cử chỉ của các đạo sĩ cho thấy
vừa tính vương giả vừa tính thần linh của Đức Giêsu. Các lễ vật (vàng, hương và
mộc dược) là những lễ vật được dâng cho bậc vương giả (xem Tv 72,15 vàng, Is
60,6 vàng và hương, Tv 45,8 mộc dược).
Kết luận
Nghịch lý đã khởi sự diễn ra; Hêrôđê và các thủ
lãnh tôn giáo cùng với phần đông dân do thái đã khước từ Đức Giêsu, nhưng lương
dân thì lại đến triều bái và tôn thờ Ngài, cũng giống như cộng đoàn Kitô đang
tập hợp chung quanh Đức Giêsu phục sinh. Như thế thì lời của ngôn sứ Isaia đã
được thực hiện (Is 60 và 62): đông đảo lương dân kéo đến Giêrusalem mới, một
Giêrusalem sáng ngời vinh quang Thiên Chúa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét