VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 4 TN NĂM B
Mc 1,21-28
TIN MỪNG
21 Đức
Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào
hội đường giảng dạy.22 Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người
giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
23 Lập
tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên 24 rằng:
"Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu
diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!
"25 Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này!
"26 Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh
ta.27 Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là
gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các
thần ô uế và chúng phải tuân lệnh! "28 Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi
nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.
21 Then they came to Capernaum ,
and on the sabbath he entered the synagogue and taught.
22 The people were astonished at his teaching, for he taught
them as one having authority and not as the scribes.
23 In their synagogue was a man with an unclean spirit;24 he cried out, "What have you to do with
us, Jesus of Nazareth ? Have you come to destroy us? I know
who you are--the Holy One of God!"
25 Jesus rebuked him and said, "Quiet! Come out of
him!"
26 The unclean spirit convulsed him and with a loud cry came out
of him.
27 All were amazed and asked one another, "What is this? A
new teaching with authority. He commands even the unclean spirits and they obey
him."
28 His fame spread everywhere throughout the whole region of Galilee .
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ
đề của hình này là gì?
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
* Bạn
hãy viết câu Tin Mừng Mc 1,25
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
II. TRẮC NGHIỆM
01. Tại thành này Đức Giêsu giảng
dạy và chữa lành 1 người bị thần ô uế ám. (Mc 1,21)
a.
Thành Giêrusalem
b.
Thành Nadarét
c.
Thành Caphácnaum
d.
Thành Bêlem
02. Thiên hạ có thái độ thế nào về
lời giảng dạy của Đức Giêsu? (Mc 1,22)
a. Hoan
hỉ
b. Sợ
hãi
c. Sửng
sốt
d. Ngạc
nhiên
03. Thần ô uế tuyên xưng Đức Giêsu
là ai? (Mc 1,24)
a. Đấng
cứu chuộc trần gian.
b. Con
Đấng Tối Cao.
c. Đấng
Thánh của Thiên Chúa.
d. Thiên
Chúa quyền uy.
04. Dân thành Caphácnaum nghĩ gì
về Đức Giêsu sau khi chứng kiến việc người trục xuất thần ô uế? (Mc 1,27)
a. Giáo
lý thì mới mẻ.
b. Người
dạy lại có uy quyền.
c. Trục
xuất được các thần ô uế.
d. Cả
a, b và c đúng.
05. Danh tiếng của người đồn ra
mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền nào? (Mc 1,28)
a. Miền
Galilê.
b. Miền
Samaria.
c. Miền
Giuđê.
d. Miền
Thập Tỉnh.
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Danh tiếng của người đồn ra
mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền nào? (Mc 1,28)
02. Đức Giêsu đã trục xuất ai ra
khỏi người thanh niên này? (Mc 1,26)
03. Dân thành Caphácnaum nghĩ giáo
lý của Đức Giêsu thì thế nào? (Mc 1,27)
04. Tại thành này Đức Giêsu giảng
dạy và chữa lành 1 người bị thần ô uế ám. (Mc 1,21)
05. Thần ô uế tuyên xưng Đức Giêsu
là Đấng Thánh của ai? (Mc 1,24)
06. Sau khi chứng kiến việc Đức
Giêsu trục xuất thần ô uế, dân thành Caphácnaum nghĩ người dạy có gì? (Mc 1,27)
07. Đức Giêsu trục xuất thần ô uế
vào ngày này. (Mc 1,21)
Hàng dọc:
Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂU
THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
Tôi
biết ông là ai rồi:
ông là
Đấng Thánh của Thiên Chúa!
Tin Mừng thánh Máccô 1,24b
Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 4 TN NĂM B
Mc 1,21-28
I. HÌNH TÔ MÀU
*
Chủ đề :
Chúa Giêsu trừ quỷ
*
Câu Tin Mừng Mc 1,25
25 Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này!
II. Lời giải đáp TRẮC NGHIỆM
01. c. Thành
Caphácnaum (Mc 1,21)
02. c. Sửng sốt
(Mc 1,22)
03. c. Đấng Thánh của
Thiên Chúa
(Mc 1,24)
04. d. Cả a, b và c đúng (Mc 1,27)
05. a. Miền Galilê (Mc 1,28)
III. Lời giải đáp Ô CHỮ
01. Galilê (Mc 1,28)
02. Thần ô uế (Mc 1,26)
03. Mới mẻ (Mc 1,27)
04. Caphácnaum (Mc 1,21)
05. Thiên Chúa (Mc 1,24)
06. Uy quyền (Mc 1,27)
07. Sabát (Mc 1,21)
Hàng dọc:
Lời
Chúa
GB. NGUYỄN THÁI HÙNG
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 4 Thường Niên - Năm B
Lời Chúa: Dnl 18,15-20; 1Cr 7,32-35; Mc
1,21-28
Tài liệu về Lời Chúa
***********************************************
Ma quỷ
Năm 1970, cuốn phim
Quỷ Ám được trình chiếu và đã phá kỷ lục về số vé bán ra. Chuyện phim được xây
dựng trên một trường hợp có thật của một cậu bé 14 tuổi, sống tại bang Maryland
vào năm 1949. Tờ Newsweek đã mô tả như sau: Tranh ảnh, bàn ghế và cả chiếc
giường của cậu bé đột nhiên di động. Về đêm cậu bé không thể nào chợp mắt. Sau
khi được nhận vào bệnh viện trường đại học Geogetown cậu bé bắt đầu lâm râm
trong miệng những lời nguyền rủa hung hãn bằng một thứ cổ ngữ. Cuối cùng cậu
được trừ tà và được cứu thoát. Hiện nay cậu đang sinh sống tại thủ đô
Washington. Một vị linh mục già trừ tà cho cậu đã hứa không bàn luận gì về việc
này, nhưng ngài nhấn mạnh rằng kinh nghiệm ấy đã thực sự biến đổi cuộc đời
mình.
Từ câu chuyện trên
chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Với sự việc Chúa Giêsu xua trừ ma quỷ
chúng ta sẽ đưa ra 2 câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất đó là nếu như Đức Kitô đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa 2000 năm rồi, vậy
tại sao đến hôm nay điều ác vẫn còn lan rộng, hay nói cách khác vương quốc của
Satan vẫn còn tác oai tác quái? Dĩ nhiên câu trả lời sẽ như sau: Nước Thiên
Chúa không đến tức khắc, nhưng là một bước tiến từ từ. Nó không phải là một
biến cố chỉ xảy ra trong một lúc nào đó, mà là một chuyển biến liên tục suốt
dọc dòng lịch sử. Ngài khai mạc vương quốc ấy, nhưng lại trao cho chúng ta hoàn
tất. Đó là lý do tại sao trong kinh Lạy Cha chúng ta vốn kêu cầu: Xin cho Nước
Cha trị đến. Đức Kitô đã gieo trồng, còn bổn phận của chúng ta là vun xới và
chăm sóc để Nước Chúa được đâm bông kết trái.
Câu hỏi thứ hai được đưa ra đó là tại sao Nước ấy
lại đến chậm như thế, hay nói cách khác tạo sao vương quốc của Satan lại lâu
tàn lụi như vậy? Tôi xin thưa chỉ vì chúng ta đã không hoàn tất nhiệm vụ của
mình một cách thoả đáng, đã không thực hiện những lệnh truyền của Chúa. Chẳng
hạn có bao nhiêu người trong chúng ta đã thi hành giới luật yêu thương của
Ngài. Sở dĩ chúng ta chưa yêu thương người khác, thậm chí cả những người thân
yêu trong gia đình là vì chúng ta quá bận rộn với những công việc bên ngoài đến
nỗi quên mất sự tuyệt vời của những người ấy. Vì chúng ta không biết dừng lại
để nhìn ra được bản chất đích thực của họ, vốn là những tạo vật xinh đẹp, đáng
được yêu thương, giống như chúng ta đã được chính Thiên Chúa yêu thương vậy.
Hãy sống đạo đức và
thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó Nước Chúa mỗi ngày một trị đến, đồng
thời nhờ đó chúng ta đẩy lui được ảnh hưởng của quyền lực Satan.
Các Bạn Có Tin Ma Quỷ Không?
Guy Morin
Anh chị em có tin
Satan không? Anh chị em có thực sự tin không? Anh chị em không biết phải trả
lời ra sao nữa. Tôi cũng vậy. Tuy nhiên, ma quỷ đang hợp thời trang. Và anh chị
em hãy nhớ lại sự thành công của phim Vị trừ quỷ và những lời của các nhà chính
trị: nhà chính trị Mỹ xem nước Nga như là vương quốc của sự dữ và ông Khomeiny
xứ Iran xem Hoa kỳ như là Satan vĩ đại.
Hình như có những
nhóm nhạc Rock tôn thờ Satan. Một số người nói rằng họ khám phá ra trong đĩa
hát của họ những sứ điệp của Satan.
Những mục linh tinh
trên báo kể lại cho chúng ta những cuộc chém giết rất khủng khiếp như vụ Mc
Donald ở Califonia (hai mươi mốt người bị giết) nên chúng ta có lý mà tự hỏi
xem đây có phải là trường hợp quỷ nhập không. Bệnh tâm thần và đam mê có đủ để
giải thích những tội phạm dường ấy không? Điều chắc chắn là sự dữ có thật,
nhưng thủ lãnh của sự dữ thì sao?
Chúa Giêsu trừ một
tên quỷ.
Trước việc trừ quỷ
này, ta nên tránh hai thái độ trái ngược. Thái độ thứ nhất là chống đối và phủ
nhận sự kiện này vì tính cách lạ lùng của nó. Vào thời Chúa Giêsu, người ta
nhìn thấy ma quỷ khắp mọi nơi. Bệnh kinh phong, sốt, bệnh thần kinh đều được
xem như bị quỷ nhập cả. Nhưng Chúa Giêsu chắc chắn đã đương đầu với những người
bị quỷ nhập thật sự. Đây là trường hợp của bài Tin Mừng hôm nay.
Thái độ thứ hai là
thích thú trước tính cách lạ lùng của đoạn Tin Mừng này. Thích thú về hiểu biết
của Chúa Giêsu về thần dữ.
Thánh Marcô muốn
truyền đạt cho chúng ta sứ điệp nào? Đó mới là điều quan trọng. Ý định của ông
là cho chúng ta thấy Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng bằng cách nào: bằng cách dạy
dỗ và trừ quỷ, việc trước dẫn đến việc sau.
“Đi vào trong hội
đường, Chúa Giêsu giảng dạy”, và những người đã bị đánh động và ngạc nhiên.
Thánh Marcô nói điều này hai lần, ở đầu và ở cuối trình thuật, và ông nêu rõ lý
do. Đây là một giáo huấn mới mẻ có quyền uy khác hẳn việc dạy dỗ của các ký
lục.
Mấy ông này chỉ lập
lại những gì họ đã học nơi các vị kinh sư mà thôi. Nhưng Chúa Giêsu đã không
theo học trường phái nào cả: Ngài có một cái nhìn mới mẻ và nói những lời chưa
bao giờ nghe nói. Không phải là những lời đã học thuộc lòng và với một uy tín
mạnh mẽ như các ngôn sứ. Chúa Giêsu giải thích luật theo một nghĩa giải phóng
và hợp với ý Thiên Chúa.
Giáo huấn mới mẻ và
đanh thép này không chỉ làm cho các thính giả của Ngài kinh ngạc mà thôi. Ngài
còn buộc kẻ bị quỷ nhập ẩn giấu giữa họ phải lộ diện. Quỷ dữ cảm thấy bị đe dọa
bởi một lời quyền năng như thế nên nó đối đầu với Chúa Giêsu, và Ngài đã vạch
mặt nó ngay.
Đồng thời, một khía
cạnh quan trọng của Tin Mừng được mặc khải cho chúng ta: Tin Mừng làm cho người
ta được tự do. Chúa Giêsu giải thoát các thính giả của Ngài khỏi những xiềng
xích mà những giải thích luật Chúa theo cách nhỏ nhen của loài người đã ràng
buộc họ. Ngài đến giải phóng con người khỏi sự dữ và Satan. Ngài đấu tranh vì
con người, cuộc đấu tranh này sẽ dẫn đưa Ngài đến thập giá. Nơi đó, các lực
lượng của sự dữ sẽ bị tiêu diệt.
Được giải thoát đến
mức nào?
Cuộc chiến thắng dứt
khoát của Chúa Kitô được cụ thể hóa trong thời gian theo cách chúng ta đón nhận
Tin Mừng. Một cách nghịch lý, chiến thắng đã đạt rồi nhưng cuộc chiến vẫn tiếp
tục.
Hôm nay chúng ta được
mời gọi kiểm chứng ảnh hưởng giải phóng của chiến thắng ấy nơi chúng ta. Ta
được mời gọi phát hiện những thông đồng của ta với sự dữ và với ma quỷ. Satan
là “thủ lãnh của việc giết chóc” và “cha của sự dối trá”. Đối với đồng loại,
chúng ta có sử dụng bạo lực và áp chế không, hay chúng ta là đầy tớ của họ?
Chúng ta có sống trong sự thật với Thiên Chúa và với anh em chúng ta không?
Nguyện cho thánh lễ
này, trong đó chúng ta tham gia vào cử chỉ giải phóng của Chúa Giêsu Kitô, làm
cho chúng ta được tự do hơn nữa để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.
Đấng Thánh Của Thiên Chúa
Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho
Tàng’)
Đôi khi vẻ đẹp và sự
thật đến từ những nguồn mạch không trông đợi. Các bạn sẽ không trông đợi những
người trẻ đã sáng tác ra những bản nhạc lừng danh, nhưng một đứa trẻ thiên tài
Moza đã làm kinh ngạc những người đồng thời của ông. Và khi Chúa Giêsu xuất
hiện trong hội đường Caphanaum không một người nào trông đợi một người bị thần
ô uế ám, một người bị quỷ nhập tuyên bố sự thật về Người. Những lời của ông ám
chỉ Chúa Giêsu có một chân lý sâu xa: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Hội đường là một nơi
chứa đựng một vẻ đẹp và chân lý. Đó là nơi Lời của Thiên Chúa được linh ứng
trong những cuốn Thánh Kinh Do Thái đã được tuyên bố và suy niệm ở đây. Một
thầy Rabbi giảng dạy ý nghĩa của Thánh Kinh và hướng dẫn cầu nguyện. Từ khi bắt
đầu sứ vụ công khai của mình, Chúa Giêsu đã được biết như một thầy Rabbi, một
vị kinh sư. Sau đó, mọi người đã nhận biết Người như một tiên tri, không đơn
giản là một vị thầy nhưng thật sự là tiếng nói của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu có thói
quen đi vào Hội đường vào ngày Sabát. Khi Ngài được chấp nhận vai trò Rabbi,
vào những dịp đó Ngài thường làm viên mãn Lời hứa của Môisê khi tuyên bố với
toàn dân rằng: “Một tiên tri giống như tôi sẽ là Chúa, Thiên Chúa của anh em,
người đó sẽ xuất hiện từ giữa con cháu của anh em; và anh em sẽ phải lắng nghe
“Người”.
Khi Chúa Giêsu bắt
đầu giảng dạy trong hội đường Caphanaum, một người bị quỷ ám đã kêu: “Ông là
Đấng Thánh của Thiên Chúa” một sự bất ngờ chói tai, kẻ bị quỷ ám đã đưa ra “bài
giảng” về sự đồng nhất của Chúa Giêsu. Những gì mà hắn thốt lên là sự thật.
Tiếp đó Chúa Giêsu đã xác định việc làm chứng của kẻ bị quỷ ám bằng hành động
của Ngài: Ngài đã đuổi quỷ ra khỏi kẻ quỷ ám. Thánh Marco đã ghi lại cho chúng
ta câu chuyện đáng chú ý này, Ngài muốn chúng ta hiểu rằng, mục đích đầu tiên
của việc xảy ra này không phải để hấp dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu như là
một người chuyên làm phép lạ, nhưng hướng dẫn chúng ta thân mật với Người vì
Người chính là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã có một nhận định khi
Ngài nghĩ rằng người độc thân có thể phục vụ, làm nhiều điều cho Chúa. Nhưng
kết hôn hoặc độc thân thì tất cả chúng ta đều được kêu gọi dâng chính mình cho
Chúa Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Sau đó trong sứ vụ
công khai của mình, Chúa Giêsu đã đưa ra một bài giảng trong cùng một Hội đường
này ở Caphanaum, Ngài đã hoàn tất lời hứa là Ngài sẽ ban Thân Mình và Máu Mình
như thực phẩm, và là của ăn của uống để ban cuộc sống đời đời.
Những tổ phụ đầu tiên
của chúng ta trong đức tin đã tiếp tục đi tới hội đường trong những ngày Sabát,
tiếp đó, ngày Chúa Nhật họ đã họp nhau để cử hành Thánh Thể tại một nhà nào đó.
Khi những người dân ngoại bắt đầu gia nhập Giáo Hội, hội đường phục vụ Thánh
Kinh, bài giảng, và cầu nguyện nối kết với hy tế Thánh Thể vào ngày Chúa Nhật.
Lời và Bí tích, Thánh Kinh và Thánh Thể trở thành nối kết thân thiết, chúng đã
hình thành một sự độc nhất của việc thờ lạy.
Ngày Chúa Nhật chúng
ta được đặc ân là thông dự vào hành động này của việc thờ lạy mà bây giờ chúng
ta gọi cách đơn giản là Thánh Lễ. Chúa Giêsu vẫn hiện diện với chúng ta trong
Lời và trong Bí tích Thánh Thể. Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng “đó là chính
Đức Kitô, Người đã nói với chúng ta trong Thánh Kinh, khi Thánh Kinh được tuyên
bố trong phụng vụ”. Đó là sự thật Chúa Kitô nói với chúng ta bằng ngôn ngữ của
loài người. Giáo Hội nhấn mạnh rằng đó là chính Đức Kitô đã đến với chúng ta
trong Thân Mình và Máu Người dưới hình bánh, rượu. Việc rước lễ làm viên mãn
lời hứa của Chúa Giêsu trong hội đường Caphanaum rằng Ngài đã cho chúng ta Thịt
làm của ăn và Máu làm của uống. Mỗi khi tham dự Thánh Lễ chúng ta được trao cho
cơ hội để đến với Chúa Giêsu như là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu Kitô đã thắng satan
Achille Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày
Chúa Nhật’)
Đoạn Phúc Âm này đặc
biệt hữu ích vì nó đặt chúng ta trước một sự biêu dương hết sức rõ rệt về quyền
năng của Thiên Chúa trên ma quỷ. Thực ra, ý định của Maccô cũng muốn nhắm tới mục
đích ấy: là chứng minh quyền lực chiến thắng của Chúa Giêsu trên các sức mạnh
của tà thần, đặc biệt trên các tà thần được mệnh danh là ma quỷ.
Sự phát triển của Mạc
khải qua tiến trình của Cựu Ước, vào thời Chúa Giêsu, đã đưa tới niềm tin rằng:
có những tà thần cũng là loài thọ tạo của Thiên Chúa, nhưng đã phản loạn chống
lại Thiên Chúa. Chúng là địch thủ của con người. Chúng chỉ theo đuổi sự dữ, dốc
tâm làm hại con người mà qua họ, chúng hy vọng làm hại được Thiên Chúa. Nhưng
Thiên Chúa vô cùng quyền phép hơn chúng. Phúc Âm chứng tỏ cho chúng ta thấy
Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, đến giải thoát con người khỏi quyền lực của ma quỷ.
Đoạn phúc âm hôm nay kể lại cho chúng ta nghe một phần của cuộc chiến thắng
giải thoát ấy cuả Đức Kitô.
Vào thời Chúa Giêsu,
não trạng dân chúng là nhìn thấy ma quỷ ở khắp những nơi có sự dữ. Thực ra, sự
dữ cũng là kết quả của sự tự do con người khi tự do đó bị lạm dụng hoặc trệch
ra khỏi đường ngay nẻo chính. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà một sự
thất bại nào đó của tự do đã đem con người vào vòng đau khổ của bệnh tật và
chết chóc. Quan niệm thông thường vào thời Chúa Giêsu lại có xu hướng gán cho
ma quỷ đã tra tay vào mỗi khi có bệnh tật. Những câu chuyện ‘đuổi quỷ’ trong
phúc âm lệ thuộc vào não trạng đương thời và phải được hiểu cách đơn giản, là
Chúa Giêsu có quyền thế trên sự dữ nói chung và trên bệnh tật nói riêng. Rất
nhiều trường hợp được coi là quỷ ám, thực ra chỉ là những thứ bệnh. Nhưng câu
chuyện mà thánh Luca đưa ra trong bài hôm nay trình bày một vụ quỷ ám thực sự
mà Chúa Giêsu đã dùng quyền năng Ngài để giải thoát. Đoạn Phúc Âm này có thể
hiến chúng ta nhiều đề tài suy tư. Chúng ta hãy dừng lại ở điều này.
1. Quỷ đã tỏ hiện
trước khi Chúa Giêsu ra lệnh cho nó đi. Chắc chắn là Chúa biết có quỷ ở
đó, nhưng Ngài bận tâm lo giáo huấn con người, bằng cách tỏ ra với họ thái độ
tích cực của kẻ mang chân lý đến nên chính ma quỷ đã không chịu nổi sự hiện
diện của Chúa và nó liền bắt đầu gào thét. Sự kiện đó đầy ý nghĩa. Để tóm tắt,
khi chúng ta nhớ lại những gì đã xảy đến với các thánh tông đồ và hết các môn
đệ lỗi lạc của Chúa từ nguyên thuỷ cho đến nay, chúng ta có thể nói được rằng:
người bạn đích thực của Đức Kitô hôm nay vẫn còn sử dụng được đặc ân gây khó dễ
cho mọi sức mạnh tà thần. Người bạn đó phải hiểu biết điều ấy. Người bạn đó
phải lo hành động tích cực để truyền thông sứ điệp Tin mừng, rồi sẵn sàng chờ
đợi một sự ‘la lối’ nào đó nổi lên trên con đường hành động của mình. Nối ưu tư
duy nhất của mình chỉ là sự kết hiệp với Chúa Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa,
Đấng đã chiến thắng ma quỷ.
2. Phúc Âm nhắc nhở
chúng ta: là ma quỷ có thực. Một ‘lối’ mới ngày nay xuất hiện trong Giáo Hội muôn liệt chuyện ma quỷ
vào hàng huyền thoại. Nhưng Giáo Hội vốn trung thành với Phúc Âm, lấy chuyện có
ma quỷ làm một quả quyết của đức tin. Chúng ta phải luôn nhớ rằng sự dữ không
phải là một sự trừu tượng chỉ có trong đầu các nhà trí thức. Nhưng có một thực
tại thuộc nhân cách. Sự hỗn loạn mà sự dữ reo rắc vào thế gian chỉ có thể đến
từ hành động cá nhân. Không phải nhìn thấy ma quỷ khắp nơi, và phải biết rằng
sự yếu đuối con người có thể biện bạch cho nhiều chuyện bất hạnh, song để đề
phòng cho bản thân, chúng ta đừng bao giờ quên là bằng cách công khai hay nham
hiểm ma quỷ luôn luôn chống lại Phúc Âm.
Người trừ quỷ
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Anh chị em có tin ma
quỷ không? Anh chị em có thực sự tin không? Anh chị em không biết phải trả lời
ra sao nữa. Tôi cũng vậy. Tuy nhiên, ma quỷ đang là vấn đề thời sự. Anh chị em hãy nhớ lại sự thành
công của một cuốn phim mang tựa đề: “Exorcist” (Người trừ quỷ) được ra mắt khán
giả vào năm 1970 đã phá kỷ lục bán vé. Chuyện phim kể lại một chàng thanh niên
bị quỷ ám, giống hệt anh chàng trong Tin Mừng hôm nay. Cuốn phim được xây dựng
dựa trên một trường hợp có thật của một cậu bé 14 tuổi, sống tại vùng Mt.
Rainier, bang Maryland, vào năm 1949.
Một hôm trong phòng
của cậu bé, các tranh ảnh, ghế bàn và chiếc giường của cậu bé đột nhiên di
động. Ban đêm hầu như cậu ta không thể nào ngủ được, vì luôn bị quấy phá. Sau
khi được nhận vào bệnh viện, cậu bé bắt đầu lầm bầm trong miệng những lời
nguyền rủa hung hãn bằng những thứ cổ ngữ, và đến một lúc nào đó, dù cậu đang
bị cột vào chiếc giường ngủ, thì trên thân xác cậu lại hiện ra những vết cào
dài nhuốm máu. Cuối cùng cậu đã được cứu sống nhờ được một linh mục trừ tà, và
hiện nay cậu đang sinh sống tại vùng Thủ đô Washington. Một linh mục già từng
tham gia vào việc trừ tà cho cậu bé đã thề hứa sẽ không bàn luận gì về việc ấy,
ngài nhấn mạnh rằng kinh nghiệm này đã thực sự biến đổi cuộc sống của ngài tốt
đẹp hơn.
Thưa anh chị em, như
đám đông dân chúng chứng kiến Chúa Giêsu trừ quỷ ở Hội đường Caphanaum đã bàn
tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Ông ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng
theo”. Chúng ta cũng thắc mắc: Đâu là ý nghĩa sâu xa ẩn chứa đàng sau quyền
năng của Chúa Giêsu xua đuổi ác thần, quyền năng mà Chúa Giêsu đã trao ban cho
Giáo Hội của Ngài?
Để trả lời cho câu
hỏi này, Chúa Giêsu nói: “Ta trừ quỷ chính nhờ quyền năng Thiên Chúa, và
điều ấy chứng tỏ rằng Nước Thiên Chúa đã đến với các ngươi rồi” (Lc 11,20). Ý
nghĩa sâu xa hơn ẩn chứa đàng sau việc Chúa Giêsu trừ quỷ chính là Vương quốc
của Satan từng kiềm kẹp nhân loại dưới vòng nô lệ kể từ khi Ađam phạm tội, giờ
đây đang nhường chỗ cho Vương quốc của Thiên Chúa: Nước đã đổi chủ. Nước Thiên
Chúa đã đến. Điều này gợi ra cho chúng ta một vấn nạn khác: Nếu Chúa Giêsu đã
khai mạc Vương quốc Thiên Chúa từ 2000 năm nay, vậy thì tại sao đến ngày hôm
nay, điều ác vẫn còn lan rộng trên thế giới? Nói cách khác: Nếu Chúa Giêsu đã
khai mạc Vương quốc Thiên Chúa khi Ngài còn sinh thời, thì tại sao Vương quốc
Satan cũng vẫn còn tác oai tác quái trong thời đại chúng ta ngày nay?
Dĩ nhiên câu trả lời
sẽ là: Vương quốc Thiên Chúa không đến tức khắc. Đó là một bước tiến từ từ. Nó
không phải là biến cố xảy đến chỉ một lúc, mà là một chuyển động liên tục xuyên
suốt dòng lịch sử. Đức Giêsu đã khai mạc Vương quốc Thiên Chúa, nhưng Ngài trao
phó cho chúng ta công việc hoàn tất: Đó là lý do tại sao trong lời Kinh Lạy
Cha, chúng ta vẫn cầu nguyện: “Xin cho Nước Cha trị đến”. Chúng ta có thể sánh
ví Vương quốc Thiên Chúa như một cây non. Chúa Giêsu trồng cây ấy, nhưng Ngài
giao cho chúng ta nhiệm vụ vun xới, bón phân, tưới nước cho nó. Nhiệm vụ của
chúng ta là chăm sóc làm sao cho Vương quốc ấy sinh hoa kết trái theo đúng ý
định của Thiên Chúa.
Nhưng tại sao Vương
quốc Thiên Chúa lại chậm đến như thế? Tại sao Vương quốc Satan lại lâu lụi tàn
như thế? Đó là vì chúng ta đã không hoàn tất nhiệm vụ của chúng ta một cách
thỏa đáng. Chúng ta đã không thực hiện trách nhiệm làm hoàn tất Vương quốc ấy
đúng như chúng ta đã có thể làm. Thậm chí, có khi chính chúng ta lại đồng lõa
với Satan, với thế lực của sự ác để làm lùi bước tiến của Nước Chúa.
Chúa Giêsu đã khai mở
Nước Thiên Chúa trên mặt đất, nhưng cuộc chiến với Satan còn kéo dài đến tận
thế. Chúng ta phải cộng tác để Nước Chúa mau thành tựu.
Anh chị em thân mến,
Satan, ma quỷ thường được mô tả như một con vật xấu xí và đáng sợ. Nếu thế thì
chúng ta rất dễ nhận ra nó, và nó cũng khó lòng cám dỗ được ta. Trong thực tế,
ma quỷ không bao giờ hiện nguyên hình của nó để cám dỗ chúng ta. Nó luôn ẩn nấp
dưới những hình dáng xinh đẹp và hấp dẫn. Nó tấn công chúng ta bằng thủ đoạn
tinh vi, ngọt ngào. Nó nắm rõ điểm yếu nhất của từng cá nhân cũng như tập thể.
Xưa nay, người bị quỷ nhập thực sự chắc không nhiều. Nhưng chắc hẳn nhiều người
bị quỷ lèo lái mà không biết. Kitô giáo không bịa ra ma quỷ để hù dọa tín đồ.
Ma quỷ là những mãnh lực xấu xa, cố kéo chúng ta xa Chúa. Chúng chống lại Thiên
Chúa và hạnh phúc đích thực của con người. Chúng phỉnh phờ con người bằng thứ
hạnh phúc giả tạo. Chúng ta tự hào mình không bị quỷ ám. Nhưng thế giới hôm nay
vẫn bị ám bởi nhiều thứ quỷ: quỷ tham vọng và dục vọng, sợ hãi và oán thù, ích
kỷ và hưởng thụ… Có những điều vốn
không xấu cũng trở thành ngẫu tượng: tiền bạc, tiện nghi, thời trang, công việc
làm ăn, phim ảnh… Cái ám nào cũng làm ta mất tự do, mất trong trắng. Cái ám từ
ngoài vào, ở lại trong ta, trở nên ô uế. Nó bắt chúng ta phải nghĩ, phải sống
như theo một lập trình vi tính. Chúng ta không thể làm khác, không thắng được
bản năng và thói quen. Chúng ta thấy mình bất lực, nên cần “Đấng Thánh của
Thiên Chúa”. Hôm nay Chúa muốn nói với tà thần ở trong tôi: “Hãy xuất ra khỏi
người này!”. Nhờ ơn Chúa, tôi cũng muốn ra lệnh cho ma quỷ hãy xuất ra khỏi thế
giới này.
Hôm nay chúng ta được
mời gọi kiểm chứng cuộc chiến đấu của chúng ta với Satan, để phát hiện những
thông đồng của chúng ta với sự ác và với ma quỷ. Satan là “thủ lãnh của việc
giết chết” và “cha của sự dối trá”. Đối với đồng loại, chúng ta có sử dụng bạo
lực không, hay chúng ta sống yêu thương và phục vụ? Chúng ta có sống trong sự
thật với Thiên Chúa và với anh em chúng ta không?
Nguyện cho Thánh lễ
này, trong đó chúng ta tham gia vào cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trên ác
thần, trên tội lỗi và sự chết, làm cho chúng ta được tăng cường sức sống của
Chúa để cộng tác với Ngài chiến đấu và chiến thắng sự ác trong ta và trong thế
giới.
Xua đuổi ma quỷ
Arthur Tone
Một nông dân giàu có
nhất trong huyện và rất keo kiệt. Ông đã hối cải, khi ông ý thức rằng. Ông chỉ
là một người quản lý đất đai và một người giữ tiền. Không lâu sau đó, một người
lối xóm nghèo bị chấy hết cửa nhà, đến gõ cửa xin đồ ăn. Nông dân giàu có này
định cho người ngheo một đùi heo trong bếp. Trên đường xuống bếp. Ma quỷ nói
thầm bên tai ông: “Cho hắn cái đùi heo nhỏ nhất”.
Người giàu có này
chiến đấu với tính keo kiệt cố hữu của ông. Cuối cùng lòng quảng đại đã thắng.
Ông lấy cái đùi heo lớn nhất. Ma quỷ cười nhạo ông: “Mày khùng quá”. Nhưng
người nông dân bịt miệng y: “Nếu mày không đứng im, tao cho hết mọi đùi heo tao
có”.
Chúng ta vừa nghe Đức
Giêsu đuổi ma quỷ ra khỏi người bị ám.
Thời đại chúng ta có
nhiều chuyện liên quan đến ma quỷ, không những do những cuốn sách, những phim
ảnh; gọi là “người trừ quỷ”, nghĩa là một người có thể xua đuổi ma quỷ, mà còn
do những nhóm người kỳ dị, họ thờ cúng Satan.
Thật là một lầm lẫn
lớn thường thấy ngày nay khi nghĩ rằng ma quỷ ở đâu xa, một nơi nào đó. Nó ở
trong một người nào khác chứ không có trong tôi. Thực sự, ma quỷ có mặt nơi mỗi
người chúng ta. Cảm tạ Chúa, chúng ta không hoàn toàn dưới sự kiểm soát của
chúng. Nhưng cái tinh thần ma quỷ thì ở trong hầu hết mọi con người.
Người hà tiện trong
câu chuyện đã đánh bại con quỷ keo kiệt. Nhưng nó vẫn còn cám dỗ ông keo kiệt
tiếp. May thay ông lại đánh bại nó.
Con quỷ kiêu hãnh ở
trong nhiều người chúng ta. Chúng ta phải đánh bại nó hoài hoài, nói được là
mọi lúc. Nhưng chúng ta phải luôn cảnh giác kẻo nó đưa chúng ta lên khi nghĩ
rằng chúng ta thật là một nhân vật quan trọng do công nghiệp của riêng mình.
Quỷ mê ăn uống, nó cố
gắng làm chúng ta ăn uống thái quá, nhất là uống rượu quá độ. Nó không bao giờ
từ bỏ ý định xô đẩy chúng ta ra khỏi tinh thần tiết độ.
Quỷ khoái lạc là một
con quỷ có mặt nạ dễ thương, có nhiều bạn trợ giúp như Tivi, phim ảnh, tòa án
ly dị, sách báo đồi trụy và bạn bè xấu nết. Tuy nhiên nó cũng phải bị đánh bại.
Hàng triệu người đã đánh bại nó.
Bất chấp ma quỷ đến
với chúng ta dưới hình thức nào. Chúng ta luôn luôn có thể nương tựa vào Đức
Kitô hộ giúp. Trên trần gian Chúa chúng ta đã trừ quỷ nhiều lần trong đời Ngài
như trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng Satan vẫn trở lại, và thành công trong
việc giết Đức Kitô trên thập giá. Xem như ma quỷ đã hoàn toàn thắng. Nhưng sự
Phục Sinh đã đem lại cho Đức Kitô sự chiến thắng.
Trong mỗi thánh lễ,
trên chiến long trời, lở đất này tái diễn: Đức Kitô chết – Đức Kitô sống lại.
Trong sự lập lại chiến thắng của Chúa chúng ta. Bạn và tôi được thêm sức mạnh
và can đảm để xua đuổi ma quỷ ra khỏi cuộc sống của mỗi người. Hãy tìm kiếm con
quỷ trong cuộc đời riêng của bạn và với sự trợ giúp của Đức Kitô; Bạn trục xuất
hắn ra.
Xin Chúa chúc lành
cho bạn.
Hãy xuất khỏi người này
Suy Niệm
Một ông thợ ở Nadarét
được mời giảng trong hội đường.
Maccô không cho ta
biết Đức Giêsu đã giảng gì. Chỉ biết nội dung của lời giảng thì mới mẻ, và cách
giảng thì khác hẳn với các kinh sư.
Kinh sư thì giải
thích Kinh Thánh với thẩm quyền. Còn Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh với uy
quyền. Ngài chẳng phải dựa vào sách vở, vào truyền thống có sẵn.
Một cách mới mẻ và
đầy uy quyền, Đức Giêsu loan báo Triều đại Thiên Chúa đã đến, triều đại của
Xa-tan phải bị đẩy lui.
Quả vậy, sự hiện diện
của Ngài trong hội đường ngày hôm ấy đã khiến cho thần ô uế phải chường mặt ra
và khiếp sợ. Đức Giêsu ra lệnh: "Hãy câm đi và xuất khỏi người này."
Thần ô uế chẳng muốn từ bỏ căn nhà nó đã ở. Nó chỉ ra sau khi đã vật vã người
ấy và thét lên.
Đức Giêsu đã chiến
thắng và giải phóng ta khỏi nô lệ. Ngài khai mở Nước Thiên Chúa trên mặt đất.
Nhưng cuộc chiến với Xa-tan còn kéo dài đến tận thế. Chúng ta phải cộng tác để
Nước Chúa mau thành tựu.
Quỷ thường được vẽ
như một con vật xấu xí đáng sợ. Nếu thế thì ta rất dễ nhận ra nó, và nó cũng
khó lòng cám dỗ được ta. Trong thực tế, quỷ mang dáng dấp xinh đẹp và hấp dẫn.
Nó tấn công ta bằng những thủ đoạn tinh tế, ngọt ngào. Nó nắm rõ điểm yếu nhất
của từng cá nhân, tập thể.
Xưa nay, người bị quỷ
nhập thực sự chắc không nhiều. Nhưng hẳn nhiều người bị quỷ lèo lái mà không
biết.
Kitô giáo không bịa
ra quỷ để hù dọa tín đồ.
Quỷ là những mãnh lực
xấu xa, cố kéo ta xa Chúa. Chúng chống lại Thiên Chúa và hạnh phúc đích thực
của con người.
Quỷ phỉnh phờ con
người bằng thứ hạnh phúc giả tạo. "Nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, tôi sẽ
cho tất cả". Làm gì có hạnh phúc vững bền khi ta quay lưng với Thiên Chúa!
Chúng ta tự hào mình
không bị quỷ ám. Nhưng thế giới hôm nay vẫn bị ám ảnh bởi nhiều thứ khác: tham
vọng và dục vọng, sợ hãi và oán thù, ích kỷ và hưởng thụ...
Có những điều vốn
không xấu cũng trở thành ngẫu tượng: tiền bạc, tiện nghi, thời trang, công việc
làm ăn, phim ảnh...
Cái ám nào cũng làm
ta bớt tự do, bớt là mình.
Cái ám từ ngoài vào,
ở lại trong ta và không chịu ra.
Cái ám khi trở thành
tuyệt đối thì làm ta trở nên ô uế.
Nó bắt ta phải nghĩ,
phải sống như theo một lập trình. Ta không thể làm khác, không thắng được bản
năng và thói quen.
Ta thấy mình bất lực,
nên cần Đấng Thánh của Thiên Chúa.
"Hãy xuất ra
khỏi người này": Hôm nay Chúa muốn nói với tà thần ở trong tôi như vậy.
Tôi cầu xin Ngài trục
xuất khỏi tôi điều gì?
"Hãy xuất ra
khỏi thế giới này": Nhờ ơn Chúa, tôi cũng phải ra lệnh cho ma quỷ như vậy.
Gợi Ý Chia Sẻ
Lời xin cuối của kinh
Lạy Cha: Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Theo sách Giáo Lý Công Giáo, sự dữ ở
đây để chỉ một nhân vật, đó là Xa-tan, là vị thiên thần đã chống lại Thiên Chúa,
là ma quỷ (số 2851). Bạn tin có Xa-tan, có ma quỷ không? Ma quỷ đã có tác động
xấu nào trên đời bạn?
Ma quỷ là kẻ dối trá
và hay đánh lừa con người (Ga 8,44). Có khi nào việc bạn làm lúc đầu thấy là
tốt, sau cùng lại thấy nó dẫn đến điều xấu không? Bạn có khi nào bị ma quỷ đánh
lừa không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, thế giới hôm
nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ
vơ lạc hướng vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã
chết từ lâu mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị
ám ảnh bởi thần ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người
mang đủ thứ bệnh hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị
sống bên lề xã hội, dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con
nhìn thấy họ và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết, xin
cho chúng con nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Ma quỷ thời đại mới
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Từ ngàn xưa, ma quỷ
luôn luôn là một mối bất hạnh cho con người. Ma quỷ luôn tìm cách làm hại con người
không những bằng xúi giục con người làm điều tội lỗi mà còn hành hạ, khống chế,
trói buộc, bắt con người làm nô lệ cho chúng. Trong cuộc chiến với ma quỷ, con
người không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc. Ngay
trong trận chiến đầu tiên, hai ông bà nguyên tổ đã thua mưu chước ma quỷ. Từ
đó, con người chẳng thể nào tự mình thoát được nanh vuốt ma quỷ giam hãm.
Đức Giêsu đến mở đầu
một kỷ nguyên mới: Nước Thiên Chúa đến chiến thắng nước ma quỷ. Ngay khi Đức
Giêsu xuất hiện, ma quỷ mở lại bài cũ cám dỗ Đức Giêsu đi vào con đường kiêu
ngạo, phô trương, cậy sức mình, ham hố danh, lợi, thú. Nhưng ngay trong lần đầu
tiên giáp chiến, ma quỷ thất bại nặng nề. Đức Giêsu đã toàn thắng vì Người
cương quyết đi theo con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, sống khiêm tốn, đơn
sơ, khiêm nhường, phó thác. Từ đó, Đức Giêsu đi đến đâu là khuất phục ma quỷ,
giải thoát con người đến đấy.
Đọc trong Tin Mừng,
ta thấy Đức Giêsu giải thoát con người ở các khía cạnh sau đây.
Người trực tiếp giải
thoát con người khỏi bàn tay hung ác của satan. Hôm nay, Người xua đuổi thần ô uế
công khai trước mặt mọi người trong hội đường. Lần khác, Người xua đuổi cả một
đạo quân quỷ dữ. Chúng đã xin nhập vào đàn heo đang ăn bên bờ biển, và cả đàn
heo lăn xuống biển chết hết.
Người gián tiếp giải
thoát con người khỏi ách thống trị của satan qua việc chữa bệnh. Theo quan niệm của người Do Thái,
bệnh tật là dấu chỉ của tội lỗi. Vì thế, người bệnh là người sống dưới ách
satan. Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều người bệnh. Nhiều lần Người nói với
người bệnh: “Tội con đã được tha”.
Người tha thiết với
việc cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, nên Người thường lui tới với
những người thu thuế. Người không chỉ nói lời tha thứ bên ngoài, nhưng thực sự
hoán cải họ từ bên trong. Nhất là Người giải thoát họ khỏi những mặc cảm và
giúp họ tái hội nhập vào đời sống cộng đoàn.
Qua những việc làm
của Đức Giêsu, ta thấy Người không chỉ giải thoát con người khỏi bàn tay hung
ác của ma quỷ mà còn quan tâm cứu chữa con người khỏi những thế lực đen tối của
chúng.
Cuộc chiến giữa con
cái Thiên Chúa và ma quỷ vẫn tiếp tục, nên Đức Giêsu khi sai các Tông đồ đi rao
giảng, vẫn luôn kèm theo mệnh lệnh xua đuổi ma quỷ. Hôm nay, Người sai chúng ta
tiếp bước các Tông đồ, đi chiến đấu chống lại ma quỷ. Ma quỷ không hiện hình
cho ta thấy, nhưng chúng ẩn nấp trong các sự dữ, sự ác còn tồn tại trên thế
giới.
Có thứ quỷ nghèo đang
trói buộc con người, không cho họ sống một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm
con người. Có thứ quỷ đói đang giết chết nhân loại dần mòn. Có thứ quỷ dốt giam
cầm những người thất học trong tù ngục tối tăm. Có thứ quỷ bệnh không ngừng
hành hạ và đẩy con người vào hố sâu tuyệt vọng.
Ngày nay, ma quỷ rất
tinh khôn nên thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp
dẫn. Chúng xuất hiện dưới những đồng tiền bất chính và hứa hẹn cho ta một cuộc
sống thoải mái. Chúng xuất hiện dưới chiêu bài tự do hưởng thụ để xúi giục ta
lao mình vào những nơi ăn chơi độc hại. Chúng kích thích sự tò mò của thanh
niên muốn thử sức với ma túy.
Với bàn tay nham
hiểm, ma quỷ âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia
rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Chúng kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta
đến chỗ trộm cắp, kiện cáo và tranh giành. Chúng khơi dậy thói kiêu căng, lòng
tự ái để ta ham hố vinh danh và quyền lực. Chúng vuốt ve thói ích kỷ để xui
giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác.
Chúng lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, mất ý thức về tội.
Hôm nay, Chúa muốn ta
tiếp tục công việc của Chúa, xua trừ ma quỷ ra khỏi đời sống chúng ta. Hãy cùng
nhau xua đuổi quỷ đói, quỷ nghèo ra khỏi thế giới. Hãy góp phần tích cực diệt
trừ quỷ dốt, quỷ bệnh ra khỏi xã hội con người.
Hãy tỉnh táo nhận ra
ma quỷ dưới những khuôn mặt đẹp đẽ của vật chất, tiền bạc, hưởng thụ, cám dỗ.
Nhất là, hãy trục
xuất khỏi tâm hồn ta những con quỷ gây chia rẽ, bất hòa, tham lam, kiêu căng,
tự mãn, gian trá, giả hình, hám danh, ích kỷ, dửng dưng.
Tự sức riêng, ta khó
mà chiến thắng được ma quỷ. Muốn chiến thắng ma quỷ, ta phải nhờ ơn Chúa giúp.
Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện. Ta rèn luyện tinh thần
bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương
xót con, xin cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.
Ma quỷ
Có một bác nông dân
rất giàu nhưng cũng lại rất keo kiệt. Thế rồi bác hối hận và muốn làm lại cuộc
đời. Ngày kia một người hàng xóm bị cháy nhà, đến gõ cửa và xin ăn. Bác định
cho người ấy một đùi heo trong bếp. Trên đường xuống bếp ma quỉ nói thầm bên
tai bác: Cho cái đùi bé bé thôi nhé. Bác chiến đấu với tính keo kiệt cố hữu của
mình và đã lấy cái đùi heo lớn nhất. Ma quỉ nhạo cười bác: Mày khùng quá. Thế
nhưng bác đã nói lớn: Nếu mày không câm miệng lại, thì ta sẽ cho ông ta cả con
heo ngay bây giờ.
Từ câu chuyện trên
chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, kể lại việc Chúa Giêsu xua trừ ma quỉ.
Thời buổi chúng ta có nhiều chuyện liên quan tới ma quỉ, không những do sách
vở, phim ảnh, mà còn do những nhóm người kỳ dị, thờ cúng Satan. Thật là một lầm
lẫn tai hại khi tưởng rằng ma quỉ ở đâu xa, tại một nơi nào đó, hay ở trong một
người nào khác chứ không phải ở trong tôi.
Thực sự thì ma quỉ có
mặt nơi mỗi người chúng ta. Cảm tạ Chúa vì chúng ta không hoàn toàn sống dưới
sự kiểm soát của chúng. Tuy nhiên có điều chắc chắn là cái tinh thần của ma quỉ
thì ở trong hầu hết mọi người. Bác nông dân đã đánh bại con quỉ keo kiệt, nhưng
nó vẫn còn cám dỗ bác và bác lại đánh bại nó.
Con quỉ kiêu hãnh ở trong nhiều người. Hãy chiến
đấu chống lại nó ở mọi nơi và trong mọi lúc, nhưng cũng hãy cảnh giác kẻo nó
đưa chúng ta lên khi nghĩ rằng: Tôi là một nhân vật quan trọng do công nghiệp
và tài năng riêng của tôi.
Con quỉ mê ăn uống luôn thôi thúc chúng ta ăn quá
nhiều, uống quá nhiều đến độ say sứa xỉn, không còn biết tiết độ là gì nữa.
Con quỉ khoái lạc thì đến với chúng ta bằng một bộ
mặt thật dễ thương, đồng thời nó còn nhiều đồng minh trợ giúp như sách báo và
phim ảnh đồi trụy, hay bè bạn xấu…
Tuy nhiên, chúng ta
cần phải chiến đấu chống lại nó. Bất chấp ma quỉ đến với chúng ta dưới hình
thức nào, thì chúng ta vẫn có thể và phải nương tựa vào Chúa. Trong quãng đời
công khai, Ngài đã nhiều lần trừ quỉ như đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại. Thế
nhưng Satan vẫn hoạt động, vẫn bành trướng và đã thành công trong việc giết
chết Ngài trên thập giá. Tuy nhiên, cũng nhờ cái chết ấy, mà Ngài đã đem lại sự
chiến thắng, một sự chiến thắng trọn vẹn và mãi mãi qua mầu nhiệm Phục sinh của
Ngài.
Hãy tìm kiếm xem đâu
là con quỉ chính yếu đang làm mưa làm gió, đang chi phối cõi lòng chúng ta, rồi
sau đó, hãy chạy đến với Chúa để xin Ngài nâng đỡ và chở che như kinh chúng ta
vốn thường đọc: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho
khỏi sự dữ.
Ma quỷ
Ma quỉ vốn là một tạo
vật của Thiên Chúa. Đôi khi nó được phép quấy nhiễu con người và làm cho con
người sợ hãi mà bỏ việc phụng sự Chúa…
Cha thánh Vianney là
một thí dụ. Quỉ thường quấy nhiễu ngài ban đêm, có lúc nó bắt chước tiếng đóng
đinh xuống nền nhà, có lúc nó hát bằng một giọng the thé. Ngài nói:
- Tôi đã nghe nó bảo
rành mạch: Hỡi Vianney, mày làm cái gì đó, hãy cút đi.
Dần dần tôi cũng quen
với sự quấy phá của nó. Nói chung, nó chẳng làm gì được ngài.
Thật ra chúng ta
không nên sợ những con quỉ có sừng hay có đuôi đe dọa. Chúng ta nên sợ Satan
đội lốt thiên thần ánh sáng, lắm mánh khóe và lắm trò bịp bợp. Nó biến chúng ta
thành tay sai cho nó ngay chính lúc chúng ta tưởng rằng mình đang phụng sự
Thiên Chúa.
Vậy phải cảnh giác
trước những quyến rũ ngọt ngào, những hứa hẹn hấp dẫn của nó.
Con đường dẫn tới
Nước Trời phải là con đường nhỏ hẹp khó đi. Thế nhưng có nhiều người tín hữu
hôm nay không tin vào sự hiện diện của ma quỉ.
Nếu đọc lại Phúc Âm
chúng ta sẽ thấy ma quỉ quả thực là một thực tại mầu nhiệm, đang hiện hữu và
hoạt động nhằm làm băng hoại con người. Nó không phải là một ý niệm trừu tượng,
mà là một quyền lực cụ thể đang bành trướng trong thế giới.
Người ta có thể gọi
quyền lực này là Belzebuth, là Lucifer, là con rắn xưa, là tên dối trá, là kẻ
cám dỗ… Tất cả chỉ là một
thực tại duy nhất muốn phá vỡ kế hoạch của Thiên Chúa và đưa con người vào vòng
nô lệ.
Cần phải nhận ra
quyền lực của ma quỉ để hiểu được cái mỏng giòn yếu đuối của thân phận con
người, và từ đó đón nhận ơn giải thoát của Đức Kitô…
Ma quỉ đúng là một kẻ
thù mạnh mẻ đáng gờm, nhưng may mắn thay, Đức Kitô còn là người mạnh mẻ hơn nó
nhiều. Ngài đã phục sinh ngay lúc tử thần đang huênh hoang vì đã tiêu diệt được
Ngài.
Chiến thắng của Ngài
là bảo đảm cho chiến thắng của nước Thiên Chúa vào ngày sau hết và cũng là bảo
đảm cho chiến thắng của chúng ta hôm nay, giữa những cuộc đối đầu với tên thủ
lãnh của thế gian này. Satan đưa chúng ta vào vòng nô lệ, còn Đức Kitô thì giải
thoát chúng ta.
Nhìn vào thế giới hôm
nay, chúng ta thấy biết bao nhiêu hình thức nô lệ, biết bao nhiêu xiềng xích
của ác thần đang trói buộc con người, mà nhiều lúc con người không nhận ra. Nô
lệ cho quyền lực, nô lệ cho tình dục, nô lệ cho ma túy, nô lệ cho cờ bạc, nô lệ
cho rượu chè, nô lệ cho mọi thứ chủ nghĩa cực đoan, nô lệ cho mọi thứ cuồng tín
tôn giáo.
Khi nhìn vào bản
thân, chúng ta thấy mình cũng ít nhiều sống dưới sự thống trị của ma quỉ, mặc
dầu mỗi năm vào đêm Phục sinh, chúng ta vẫn lặp lại lời tuyên xưng từ bỏ ma quỉ
và những gì thuộc về nó. Ma quỉ vẫn còn cám dỗ chúng ta mỗi ngày qua giác quan,
qua trí tưởng tượng, qua lòng tham lam, qua những tương quan lệch lạc…hãy chạy
đến với Chúa và kêu cầu:
Xin chớ để chúng con
sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
Trong đời
Đoạn Tin Mừng hôm nay
là một trong nhiều trường hợp đề cập đến thần dữ hay ác thần, tức là ma quỷ. Ma
quỷ thế nào? Ngày nay chúng còn hoạt động trên trần gian không?
Trước hết, thiết
tưởng cần phân biệt ma và quỷ. Đây là hai loại khác nhau chứ không phải là một
mà người Việt Nam chúng ta thường gọi chung với nhau là ma quỷ. Ma, theo lối
hiểu thông thường, là hồn người chết hiện về để ám ảnh, đe dọa hoặc liên hệ gì
đó với người sống. Còn quỷ là loại thiên thần hư hỏng, đã bị Thiên Chúa đày
xuống hỏa ngục. Như vậy, ma có không? Nhiều người tin mà cũng nhiều người không
tin. Nếu hiểu là một loài vô hình như ma xó, ma trơi hay ma này ma nọ… thì không có. Còn nếu hiểu là hồn
người chết hiện về thì có, nhưng cũng chỉ xảy ra trong một số trường hợp rất
họa hiếm, do sự cho phép đặc biệt của Chúa, để đương sự nhắn bảo một điều gì đó
với người sống, hay do ủy nhiệm riêng Chúa trao phó cho đương sự, như thỉnh
thoảng nghe nói linh hồn này hay linh hồn kia trở về dương gian trong một vài
tích truyện. Còn quỷ thì sao? Phải công nhận là có, vì Kinh Thánh đã nói đến
nguồn gốc của chúng. Chúng được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng. Chính Chúa
Giêsu cũng đã bị chúng cám dỗ.
Như vậy, quỷ có thật,
chúng vẫn có mặt và hoạt động trên trần gian này. Nhưng sự xuất hiện của chúng
tinh vi, kín đáo, khéo léo, nên người ta tưởng rằng dường như chúng không có,
hay có chăng thì cũng bị ánh sáng khoa học đẩy lui và quật ngã rồi. Đây là một
thứ thái cực mới đi ngược lại thái cực cũ. Nghĩa là trước kia, khi khoa học
chưa phát triển và tiến bộ, người ta sợ hãi và thường nói đến ma quỷ như những
thế lực ghê gớm, gây “kinh hồn táng đởm” cho nhiều người, thậm chí lại còn nhìn
thấy chúng ở khắp nơi nữa. Còn bây giờ, khoa học tiến bộ vượt mức, người ta lại
cho ma quỷ là một chuyện hoang đường, bịa đặt, không liên quan gì với cuộc đời
con người tại thế.
Phải công bình nhận
định rằng: khoa học đã có tác dụng lớn lao trong việc trừ ma đuổi quỷ ra khỏi
xã hội con người. Ở đâu dân trí được nâng cao, đời sống văn minh, ma quỷ xem ra
rút lui có trật tự. Chẳng hạn ở những chỗ ngã ba đường tăm tối, quanh co, với
bóng cây đa cổ thụ mà người ta thường tin là nơi có ma quỷ ngự trị, chỉ cần sửa
sang lại đường sá, dựng lên mấy cột điện là đêm hôm người ta có thể ra đó tình
tự hay thẩn thơ hóng gió mà không sợ ma quỷ gì nữa. rõ rệt nhất là ở thành thị,
ít ai nghe nói chỗ này chỗ kia có ma có quỷ, trẻ con có thể chạy chơi trên
những đường phố vắng về đêm. Nhưng ở thôn quê thì khác, chỉ mới nhá nhem tối,
không chỉ trẻ con mà cả người lớn, không dám ra ngoài ngõ, nhất là nếu gần đấy
có nghĩa địa hay mồ mả nào đó, thì người ta lại càng sợ hãi hơn nữa.
Muốn nghĩ thế nào thì
nghĩ, đối với chúng ta, điều chắc chắn là quỷ có thực và không chỉ coi thường
hoạt động cũng như sự phá hoại của chúng trên đời sống con người ở trần gian
này… Dĩ nhiên cũng phải nói ngay: ảnh hưởng và sức phá hoại của chúng nằm trong
phạm vi nội giác và vô hình nhiều hơn, nên chúng ta cũng cần đương đầu với
chúng trên mặt trận ấy, nghĩa là trong cuộc chiến đấu chống các cơn cám dỗ để
giữ lòng trung thành với Chúa và đẩy lui những tấn công nguy hại của chúng.
Tuy nhiên, chúng ta
chớ lầm và đừng vội gán cho Satan, đổ lỗi cho quỷ dữ tất cả những gì xấu xa
trong cõi loài người. Kinh thánh cho biết: Satan là kẻ cám dỗ. Nhưng một điều
đáng suy nghĩ là đối với Đức Kitô, tất cả những ai tìm cách ngăn cản anh em
mình thực hiện sứ mệnh Thiên Chúa, người ấy cũng đáng gọi là Satan, đối thủ hay
là kẻ cám dỗ. Chứng cớ là thánh Phêrô đã bị Chúa quở mắng, gọi là Satan, khi
ông tỏ ý ngăn cản Chúa đi chịu nạn chịu chết để cứu chuộc loài người.
Câu chuyện thánh
Phêrô bị quở mắng và bị coi là Satan làm chúng ta nghĩ đến những câu chửi rủa
mà người Việt Nam hay dùng như: “đồ quỷ”, “thằng quỷ”. “con quỷ”, “quỷ sứ”, “nó
ra ma ra quỷ”, “đến quỷ cũng phải chịu mày”… Những câu chửi rủa đó thường được
áp dụng cho những kẻ nghịch ngợm. Thì ra người Việt Nam cũng đã khám phá ra
rằng: ngoài thứ quỷ mà Kinh Thánh nói tới, còn có những thứ “quỷ đen đầu: có
thực, bằng xương thịt, sống bên cạnh chúng ta hằng ngày, đó chính là những
người anh em nhân loại của chúng ta.
Như vậy, ngoài việc
công nhận sự hiện hữu của quỷ, chúng ta còn nhìn nhận một thực tại khác không
kém phần quan trọng, đó là sự ác, sự xấu và tội lỗi, không phải là những món
hàng hoàn toàn do Satan và bè lũ lén lút nhập cảng vào trần thế, nhưng chính là
những đồ “nội hóa”, được sản xuất ngay từ nội tâm mỗi người. Chúng ta không dè
rằng Satan, kẻ cám dỗ, có thể là chính chúng ta. Không ai muốn nhận mình là
Satan, là kẻ cám dỗ, nhưng rất có thể và đôi khi chúng ta đã cám dỗ anh em mình
hành động trái với chân lý, công bằng và bác ái.
Bởi thế, vấn đề quan
trọng không phải là cái gì cũng đổ lỗi cho quỷ, trái lại, mỗi người phải dứt
khoát chọn sự thiện, chọn con đường của công lý và tình thương. Chúng ta không
nên quá sợ hãi quỷ hay những chước cám dỗ của chúng. Nhưng trước hết, tự mình
đừng bao giờ xúi giục, cám dỗ anh em làm điều xấu, điều ác, điều tội lỗi; đồng
thời cũng phải tỉnh thức đề phòng những chước cám dỗ mà anh em có thể đem đến
cho chúng ta.
Quyền năng
Ralph Waldo Emerson
chiếm vị trí như là một trong những nhân vật văn học vĩ đại của Mỹ vào thế kỷ
19. Vốn là một học giả, một nhà văn tiểu luận và một thi sĩ gây ảnh hưởng rộng
rãi, ông trở nên một trong những tiếng nói quan trọng nhất trên quê hương ông.
Ông là một kẻ thù ác liệt của sự nô lệ và thối nát về mặt chính trị. Một trong
những bài tiểu luận của mình, ông nói một điều gì đó rất phù hợp dưới ánh sáng
của bài Tin Mừng hôm nay:
“Tôi chỉ biết rằng
mình sống đến mức độ này mà thôi. Ngay khi chúng ta biết rằng những lời nói của
người nào mang nặng hơi thở cuộc sống, thì ngay tức khắc, tôi học hỏi được từ
bất cứ thuyết trình viên nào về lối sống của họ. Một người nói từ bên trong,
hoặc từ kinh nghiệm, là sở hữu chủ của sự kiện; người nào nói từ bên ngoài, thì
như một khán giả, hoặc như một người mới làm quen với những sự kiện dựa trên
chứng cứ của một người thứ ba. Không cần phải rao giảng cho tôi từ bên ngoài.
tôi có thể tự mình làm được điều đó”.
Trong bài Tin Mừng
hôm nay, chúng ta đọc được rằng lối giảng dạy của Đức Giêsu đã “làm cho dân
chúng sửng sốt, bởi vì người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không
như các kinh sư”. Tại sao Đức Giêsu gây được tác động như vậy trên các thính
giả của Người? Bởi vì theo lối nói của Emerson, thì “ Đức Giêsu luôn luôn nói
từ bên trong, và theo một mức độ vượt lên trên tất cả những người khác. Nhưng
đây là cách thức mà mọi người nên luôn luôn áp dụng. Tất cả mọi người đều không
ngừng trông đợi sự xuất hiện của một nhà giảng dạy giống như thế”.
Trong đời sống thiêng
liêng, lối nghe gián tiếp ít có giá trị. Ở đây, người duy nhất nói với quyền
năng, chính là người đã sống với điều đang nói đến. Không có quyền năng nào
giống như quyền năng của người đã sống điều mà họ đang nói.
Ngay khi Đức Giêsu
bắt đầu giảng dạy, ngay tức khắc dân chúng nhận ra rằng có một sự mới mẻ và
trong suốt trong lời giảng dạy của Người. Mặc dù Người không có cùng một loại
kiến thức giống như các kinh sư vào thời đó. Nhưng theo một cách thế nào đó,
thì đây lại là một lợi thế. Van Gogh nói “Về một phương diện nào đó, thì tôi
lại vui mừng vì mình không được học vẽ”. Có nhiều cách học hỏi hơn là từ trong
sách vở. Trường đời thật là vĩ đại.
Điều này đã gây được
ấn tượng nhiều nhất nơi nơi các thính giả của Đức Giêsu chính là quyền năng mà
Người đã sử dụng khi giảng dạy, mặc dù Người không hề giữ một vị trí chính thức
nào cả. Nhưng để có khả năng nói bằng năng quyền, người ta không cần phải giữ
một vị trí chính thức nào. Trên thực tế, đôi khi sự thật còn trái ngược lại.
Người giữ một cương vị chính thức không sống theo con người riêng của họ. Người
đó bị bắt buộc phải thúc ép theo đường lối của đảng phái. Trong khi người không
nắm giữ một cương vị chính thức nào, thì có quyền tự do để nói đúng điều cần
phải nói.
Trong thời của Đức
Giêsu, không có một kinh sư nào diễn tả được theo ý riêng của mình. Ông ta luôn
luôn phải mở lời bằng cách nêu ra uy tín của mình. Ông ta dựa vào những lời
trích dẫn từ các thày thông luật vĩ đại trong quá khứ, để hỗ trợ cho câu nói
của mình. Điều cuối cùng mà ông ta làm được, đó là đưa ra một lời phê phán độc
lập.
Đức Giêsu nói với
tiếng nói của riêng Người, với quyền năng của bản thân Người. Người không hề
biện hộ cho tất cả mọi điều mà Người nói, bằng cách trích dẫn Kinh Thánh, hoặc
câu nói của một vị thày thông luật khác. Điều đó sẽ chỉ càng chứng tỏ rằng
người đó thiếu năng quyền mà thôi.
Về một khía cạnh,
chúng ta phải phân biệt giữa quyền năng và ảnh hưởng, và về khía cạnh, phải
phân biệt giữa sức mạnh và sự kiểm soát. Một số người có quyền năng vĩ đại nhất
về mặt luân lý, lại không hề có sức mạnh; và có người gây ảnh hưởng nhất, lại
không cần phải kiểm soát những người mà họ gây ảnh hưởng. Một người có thể có
tất cả quyền năng trên trần gian, lại vẫn thất bại trong vai trò của một người
giảng dạy.
Có một số người có
tính ưu việt về mặt tinh thần, mà không thể giải thích được. Điều này đem đến
cho họ năng quyền vĩ đại về mặt luân lý. Họ có được năng quyền này, không phải
là do chức vụ mà họ nắm giữ, nhưng là do ở chính con người của họ. Đây là năng
quyền vĩ đại nhất và cao cả nhất vượt lên trên tất cả mọi sự. Điều này bắt
nguồn từ chính năng quyền của Thiên Chúa. Nếu không có được năng quyền này, thì
người nắm giữ một chức vụ chỉ là một người thừa hành, chỉ là một người phát
ngôn mà thôi.
Đức Giêsu đã có loại
quyền năng này, với một mức độ mà không có bất cứ người nào khác đạt được. Mỗi
người Kitô hữu, bất kể người đó nắm giữ một chức vụ gì, đều có thể và nên có
loại quyền năng này – loại quyền năng xuất phát từ việc sống theo tính cách của
một con người chính trực trong suốt.
Quyền năng
Ngày nay, chúng ta có
quá nhiều lời nói từ những nhân vật của quần chúng. Nhưng thật đáng chán khi có
thể dự đoán được điều mà họ sẽ nói. Có quá ít người nói bằng quyền năng thực
sự. Lúc này, thật vô cùng đáng nghi ngờ về những lời nói của những kẻ có quyền.
Có thể người ta phải tuân theo những lời tuyên bố về mặt chính sách, nhưng
không ai nghiêm túc coi họ như là những người có quyền năng.
Nếu có nhiều nhân vật
của quần chúng bị thiếu mất sự tin tưởng của dân chúng thì điều gì gây tổn hại
đến lòng tin? Đó là khi người nói không còn tin tưởng vào lời mình đang nói
nữa. Tôi không thể nói được một cách đầy đủ về điều mà tôi không tin tưởng, bất
kể tôi thường xuyên lập đi lập lại những lời nói này đến thế nào.
Vậy thì tính cách của
người nói rất quan trọng. nếu tính cách của người đó bị nhiều khuyết điểm, thì
lòng tin của người đó bị xói mòn một cách trầm trọng. Bạn nhận thấy khó mà uống
loại rượu nào được rót ra từ một cái lon đựng rượu đã bị rỉ sét hoặc dơ bẩn. Và
khi người nói không sống theo những lời nói của bản thân mình, thì có lẽ đây là
điều gây tổn hại nhất. Emerson đã nói về điều đó như sau: “Xin đừng nói nữa.
Điều nào có giá trị trên con người của bạn, thì lại quá vang rền, đến nỗi tôi
không thể nghe được điều trái ngược lại”.
Định mệnh vĩ đại
trong sứ mạng của Đức Giêsu được dành cho việc rao giảng. Và lời giảng dạy của
Người lại quá khác biệt, so với những người rao giảng chính thức vào thời đó –
các kinh sư. Không có một kinh sư nào diễn tả ý kiến của riêng mình. Ông ta
luôn luôn bắt đầu bằng cách nêu ra quyền năng của ông ta. Trái lại, Đức Giêsu
nói bằng tiếng nói của chính Người, và Người không cần đến tiếng nói khác.
Người không hề nêu ra năng quyền nào, và không hề trích dẫn câu nói của bất cứ
chuyên gia nào, tuy nhiên, Người vẫn nói bằng một quyền năng vĩ đại. Người
không hề có bất cứ chức vụ chính thức nào. Vậy thì quyền năng của Người xuất phát
từ đâu? Năng quyền đó đến từ sự kiện là Người đã nói lên sự thật: “Một lời nói
sự thật đáng giá cả thế giới” (Ngạn ngữ Nga). Ngoài ra, lời giảng dạy của Người
mới mẻ, trực tiếp và có sự trong suốt về sự thật. Chẳng hạn một số câu nói như
“Không ai có thể làm tôi hai chủ được… Một thành phố xây dựng trên núi không
thể che giấu được… Con lạc đà không thể chui qua lỗ kim…”
Lời giảng dạy của các
kinh sư không đem lại thỏa mãn cho dân chúng. Còn lời giảng dạy của Đức Giêsu
lại nuôi dưỡng được tâm hồn và tinh thần con người. Có một số người giảng dạy
chỉ cung cấp các sự kiện mà thôi. Người khác lại cung cấp được tầm nhìn, cảm
hứng và ý nghĩa cuộc sống nữa. Và tất nhiên là năng quyền của Đức Giêsu xuất
phát từ tính cách của Người một tính cách khiến cho dân chúng buộc phải lắng
nghe Người. Thế rồi lại có lúc Người chứng tỏ lời nói của Người bằng những hành
động cụ thể. Mặc dù thánh Marcô nói rằng “Dân chúng sửng sốt vì lời giảng dạy
của Người”, ngài không kể cho chúng ta nghe Đức Giêsu nói gì. Dường như điều
này lại càng chứng tỏ rằng con người của Đức Giêsu chính là một bài giảng rồi.
Vào một buổi sáng sớm, có một người đàn ông đang đi dạo bên ngoài. Bầu trời
trong sáng. Ông ta nghe được tiếng ồn của một máy bay phản lực tại một nơi nào
đó. Ông dừng chân nhìn xem, để có thể xác định vị trí. Dõi theo âm thanh, ông
nhận thấy dường như chiếc máy bay đó ở ngay trên đầu ông. Nhưng không phải vậy,
ông đã tìm kiếm, và không thấy máy bay đâu cả. Thật ra ông nhìn thấy một vết
hơi nước trên bầu trời. Nhìn theo dấu vết này, cho đến tận nơi xuất phát của
nó, ông phát hiện ra chiếc máy bay – một hình tam giác màu trắng có thể nhìn
thấy được một cách rõ ràng trên vòm trời xanh. Chiếc máy bay đã bay đi xa rồi,
trong khi âm thanh của nó vẫn còn ở ngay đầu ông. Nhưng âm thanh đó quá lớn, để
có thể đánh thức được cả kẻ chết.
Theo một cách nói,
chiếc máy bay đã hành động trước, rồi phát ra âm thanh sau. Nói một cách lý
tưởng, đây là cách rất hay – hành động nên đến trước lời nói. Người ta sẽ lắng
nghe, nếu một người bắt đầu nói, sau khi đã hoặc đang làm một việc gì đó. Những
lời nói của người này thật nặng ký. Những lời nói đó có quyền năng thực sự.
Người ta có thể nghi ngờ lời bạn nói, nhưng người ta sẽ tin tưởng việc bạn làm.
Nhiều lời nói không có tác dụng, vì trước đó, hoặc đồng thời, hoặc sau đó,
không có những hành động đi đôi với lời nói.
Trong những lời nói
của Đức Giêsu, có của ăn nuôi dưỡng cuộc sống của chúng ta. Nhưng chỉ lắng nghe
mà thôi thì chưa đủ, mà còn phải sống theo Lời Chúa nữa. Nếu không sống theo sự
thật, thì chúng ta sẽ không được nuôi dưỡng đầy đủ.
Mặc chúng tôi
Khi Đức Giêsu đang
giảng dạy trong hội đường ở Capharnaum, một người bị thần ô uế nhập la lên “Ông
Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi liên can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng
tôi?”. Trên thực tế, điều mà người đàn ông đó đang nói là “Hãy để mặc tôi! Tôi
không phải là người tốt lành, tôi là kẻ dữ, tôi không xứng đáng được yêu thương
hoặc săn sóc”.
Đây là một tiếng kêu
mà chúng ta đã từng được nghe trong Tin Mừng, từ những người cho rằng mình bị
quỉ dữ chiếm hữu. “Đừng can thiệp vào chuyện chúng tôi. Hãy để mặc chúng tôi.
Đừng tìm cách thay đổi chúng tôi“. Họ nhận ra rằng sự thay đổi đó gây đau đớn.
Chúng ta không biết rằng họ có bị quỉ dữ chiếm hữu hay không. Nhưng chúng ta
biết rằng họ là những người bị bệnh hoạn, đổ vỡ, cô độc, không được yêu thương,
không hề có nhân phẩm, và giá trị bản thân của họ là con số không.
Trong thế giới của
chúng ta ngày nay, có nhiều người như vậy – trong các nhà tù, bệnh viện tâm
thần v.v… Bất cứ người nào trong chúng ta cũng có thể lâm vào tình huống đáng
tuyệt vọng này. Ít nhất, người đàn ông trong hội đường đã không cố gắng che
giấu tình trạng của mình. Anh ta đến với Đức Giêsu. Người không hề lảng tránh
sự kêu gọi đầy tuyệt vọng của anh ta. “Hãy để mặc tôi!”. Đức Giêsu nghe thấy
rằng đó là một tiếng kêu gọi sự giúp đỡ. Và người đã chữa lành cho anh ta.
Người cảm thấy thật
khó mà thừa nhận rằng họ không thể xoay xở được, đối với những vấn đề của bản
thân mình. Lòng tự hào nói với họ rằng: ta nên tự giải quyết những vấn đề của
mình. Nhưng sự nhận ra mình có vấn đề chính là bước đầu tiên hướng tới sự phục
hồi. Khi chúng ta biết thừa nhận sự yếu đuối và nhu cầu của mình, thì sẽ mở lối
cho sự phục hồi. Những người can đảm mới đi xin cố vấn.
Các nhà tâm lý học
nói với chúng ta rằng đôi khi, người ta không thực sự mong muốn được chữa trị.
Tại sao vậy? Bởi vì việc chữa trị gây đau đớn – Điều này lôi kéo theo một quá
trình đòi hỏi nhiều sự thay đổi, và tất cả những sự thay đổi đều đau đớn. Ý
tưởng được phục hồi thậm chí càng có thể khủng khiếp hơn nữa.
Thông thường, chúng
ta hay e sợ khi phải nói về một điều gì đó gây đau lòng cho chúng ta. Chúng ta
muốn khóa chặt trong tâm hồn mình, để rồi lại cứ day dứt mãi. Có thể chúng ta
không nói rằng “Hãy cứ để mặc tôi” nhưng như thế, chẳng khác gì câu nói “bạn
không thể biết được, bạn không thể hiểu được tôi đâu”. Chịu đựng đau khổ mà
không chịu nói ra, lại càng gây tổn thương hơn, so với nỗi đau khổ nào được bộc
lộ ra.
Vừa khi đứa con trai
chào đời, một bà mẹ trẻ khám phá ra rằng cháu bé bị mù. Chị gọi cả gia đình lại
và nói: “tôi không muốn con trai tôi biết cháu bị mù”.Chị khẩn khoản xin mọi
người tránh sử dụng những từ như “ánh sáng”, “màu sắc”, và “tầm nhìn”, đứa trẻ
lớn lên, trong niềm tin tưởng rằng mình giống như tất cả những người bình
thường khác, cho đến một ngày kia, một bé gái xa lạ nhảy qua bức tường của khu
vườn, và đã sử dụng tất cả những từ bị cấm đoán trên đây.
Câu chuyện trên tượng
trưng cho nhiều thái độ sống của chúng ta. Tất cả chúng ta đều tìm cách che
giấu những điều kỳ lạ và gây đau đớn, và cứ sinh hoạt như thể mọi sự đều bình
thường vậy. Chúng ta làm như mình không hề có vấn đề gì, không có gì là bất
thường, không có nỗi đau, không có vết thương, không biết thất bại là gì cả. Ý
tưởng thôi thúc người ta che giấu rất mạnh mẽ, và còn có thể gây tác hại hơn cả
cố gắng giấu giếm.
Khi chúng ta có can
đảm dám đương đầu với những vấn đề của mình, thì những năng lực mới mẻ trở nên
sẵn có đối với chúng ta. Nỗi sợ hãi, xấu hổ, và mặc cảm tội lỗi làm cho chúng
ta ở lại trong tình trạng cô lập. Chính nhờ sự bộc lộ những vết thương, nhờ để
cho mình đụng chạm và được đụng chạm vào, mà chúng ta được chữa lành. Chính
trong sự đổ vỡ của chúng ta, trong vết thương của chúng ta, mà Thiên Chúa chữa
lành cho chúng ta – nếu chúng ta tạo cho Người một cơ hội.
Quyền năng
Một hoàng tử kia rất
đạo đức, ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh thờ phượng Chúa.
Xảy ra là có một hôm ông ngủ quên, thấy vậy, tướng quỷ Satan đến đánh thức ông.
Khi biết kẻ đánh thức mình là Satan, hoàng tử tỏ dấu thắc mắc, ma quỷ nói với
ông: “Tôi là ai, điều đó không quan trọng, việc tôi đánh thức ngài là một điều
tốt, ngài thấy không, ai làm việc lành cũng là người tốt cả”. Hoàng tử đáp:
“Không bao giờ ma quỷ lại làm điều lành, vậy nhân danh Thiên Chúa, mi phải nói
rõ vì lý do nào mi đánh thức ta? Bấy giờ ma quỷ buộc lòng phải nói thật: “Nếu
ngài ngủ quên không đọc kinh sáng khi thức dậy ngài sẽ hối hận, khiêm tốn và
sửa chữa để sống đạo tốt hơn, còn ngày nào cũng ra vẻ sốt sắng, ngài sẽ tự mãn,
sẽ kiêu ngạo, cho là mình đạo đức đủ rồi”. Nói xong nó biến mất, ma quỷ thật
tinh khôn và hiểm độc.
Ma quỷ không bao giờ
làm điều lành, vì bản chất của nó là gian dối, xảo quyệt, ngay từ đầu nó đã lừa
đảo và xúi giục ông bà nguyên tổ phạm tội chống lại Thiên Chúa, nó vẫn tiếp tục
làm như thế để lôi kéo người ta ra khỏi tình yêu Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới
yêu thương cứu vớt chúng ta. Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Kitô, Ngài đã đến
trần gian để yêu thương cứu chuộc loài người, Ngài là Đấng quyền năng chiến
thắng ma quỷ để giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ.
Bài Tin Mừng cho
biết: thoạt nhìn thấy Chúa Giêsu, thần ô uế đã thét lên: “Ông Giêsu Nagiarét,
chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là
ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Tại sao ma quỷ lại phải thét lên? Vì
không thể có sự tương hợp giữa ô uế và thanh sạch, giữa tội lỗi và thánh thiện,
những điều đó quá quen thuộc để nói về ma quỷ và Thiên Chúa. Cho nên, khi Chúa
Giêsu đến, một kỷ nguyên mới đươc mở ra cho nhân loại, chấm dứt sự thống trị
của thần dữ và đồng thời giải thoát con người khỏi mọi xiềng xích nô lệ.
Là những người tin
vào Chúa Kitô và đón nhận Lời giải thoát, phải chăng câu hỏi đầu tiên mỗi người
chúng ta phải tự đặt ra cho mình là: chính bản thân tôi đã được giải thoát
chưa? Chúng ta phải nói là chưa, vì vẫn còn biết bao thứ “quỷ ám”, biết bao thứ
ngẫu tượng đang ám ảnh chúng ta. Có những người đang bán nhân phẩm bằng những
đồng tiền rẻ mạt, có những người đang thú vật hóa chính mình bằng những hành vi
đê tiện, có những người đang tìm chiếm hữu tất cả, nhưng lại đánh mất chính
mình.
Nói khác đi, lục soát
lương tâm cho kỹ, có lẽ ai trong chúng ta cũng phải thú nhận rằng mình là nô lệ
của rất nhiều ông chủ: có ông chủ là một ý thức hệ luôn trói buộc đôi cánh tư
tưởng chúng ta, có ông chủ là những định kiến đối với cuộc đời, xã hội, con
người mà chúng ta không bao giờ muốn từ bỏ, có ông chủ là thói quen xấu mà
chúng ta tích luỹ như một pháo đài kiên cố không muốn rời bỏ, có ông chủ là thứ
tôn giáo vụ hình thức mà trong đó chúng ta cố gắng tô vẽ cho mình một bộ mặt
đạo đức, nhưng thực ra lại hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng của chân lý, của yêu
thương và tự do đích thực…
Đàng khác, ma quỷ
thường khống chế con người bằng cách pha trộn lòng tin thực sự với những tin
kiêng dị đoan dối trá: tin vào những ngôi sao, hành tinh vận chuyển, tin vào
thẻ bài, cầu cơ, bói toán. Tại sao lại tin vào những cái vô tri không đối tượng
như thế? Càng văn minh người ta càng bị cám dỗ tin dị đoan, càng bị ma quỷ
khống chế trong lãnh vực này. Trên những tờ báo lớn của nhiều nước văn minh
chúng ta thấy dầy đặc những lá số tử vi, người ta dựa vào tử vi, phương hướng
hành trình của tinh tú để đoán định tương lai đời mình, có những người tin
kiêng ngay cả từng bước đi cho đến cuộc đời. Người nào làm ăn phát đạt thành
công là có ngôi sao tốt, người nào gặp thất bại, đau khổ là sinh bởi ảnh hưởng
của một ngôi sao xấu. Như thế là người ta đã làm nô lệ cho những vì sao vô tri
giác, chẳng có quyền hành gì trên mình. Khi người ta nô lệ cho những cái vô tri
như thế chính là người ta nô lệ cho ma quỷ núp sau đó. Người ta có cảm tưởng
rằng tin theo Chúa Giêsu là một điều tốt, là cần rồi, thế nhưng Ngài không giải
thoát được hết những nguy hại trong đời, nên cần tin vào những cái vô tri đó để
kiếm thêm hạnh phúc. Đó chính là một cám dỗ của vườn địa đàng tái diễn để làm
sao tách rời con cái Chúa ra khỏi lòng tin Ngài, ma quỷ dùng cách đó trước khi
làm chúng ta bỏ hẳn lòng tin, nghĩa là trước khi làm chúng ta mất hẳn lòng tin
thì hãy tạm pha trộn tin kiêng như thế đã, và đó là bước đầu của mất đức tin.
Chúng ta nên biết: Thiên Chúa là Đấng có quyền trên cả hồn lẫn xác và cuộc đời
chúng ta, Ngài là Đấng duy nhất chúng ta phải tin thờ, còn những ai tin kiêng
dối trá, dị đoan thì hãy nhớ một điều này “tin ma ma nhát, tin quỷ quỷ làm”, sẽ
mất cả chì lẫn chài, vì thế Giáo Hội khuyên bảo chúng ta hãy coi chừng trong
lãnh vực này, nó lầy lội, người ta dễ bị sa lầy trong đó.
Biết thân phận mình
yếu đuối, bất toàn, dễ sa ngã, chúng ta phải luôn tỉnh thức, đồng thời luôn cậy
dựa vào quyền năng của Chúa, vào ơn soi sáng của Ngài, để khám phá ra mưu mô
hiểm độc của ma quỷ và kiên quyết đánh bại chúng.
Và giả như có bị thua
những cám dỗ, chúng ta càng cần phải tin tưởng vào Chúa hơn, bởi vì Thiên Chúa
là Đấng cao cả vô cùng thì lòng nhân từ của Ngài cũng vô hạn, tội lỗi con người
có nhiều tới đâu, có nặng nề đến mức nào thì cũng như cát, như đá chìm sâu dưới
đáy đại dương của lòng nhân hậu thương xót ấy mà thôi. Không có tội lỗi nào mà
Thiên Chúa không tha thứ được, không có con người khốn khổ nào mà Thiên Chúa
không yêu thương…, chỉ cần chúng ta có lòng khiêm tốn, muốn được tha thứ, muốn
được yêu thương mà thôi
Ma quỷ
Từ ngàn xưa, ma quỷ
luôn luôn là một mối bất hạnh cho con người. Ma quỷ luôn tìm cách làm hại con
người không những bằng xúi giục con người làm điều tội lỗi mà còn hành hạ,
khống chế, trói buộc, bắt con người làm nô lệ cho chúng. Trong cuộc chiến với
ma quỷ, con người không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua
cuộc. Ngay trong trận chiến đầu tiên, hai ông bà nguyên tổ đã thua mưu chước ma
quỷ. Từ đó, con người chẳng thể nào tự mình thoát được nanh vuốt ma quỷ giam
hãm.
Đức Giêsu đến mở đầu
một kỷ nguyên mới: Nước Thiên Chúa đến chiến thắng nước ma quỷ. Ngay khi Đức
Giêsu xuất hiện, ma quỷ mở lại bài cũ cám dỗ Đức Giêsu đi vào con đường kiêu
ngạo, phô trương, cậy sức mình, ham hố danh, lợi, thú. Nhưng ngay trong lần đầu
tiên giáp chiến, ma quỷ thất bại nặng nề, Đức Giêsu đã toàn thắng vì Người
cương quyết đi theo con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, sống khiêm tốn, đơn
sơ, khiêm nhường, phó thác. Từ đó, Đức Giêsu đi đến đâu là khuất phục ma quỷ,
giải thoát con người đến đấy.
Đọc trong Tin Mừng,
ta thấy Đức Giêsu giải thoát con người ở các khía cạnh sau đây.
Người trực tiếp giải
thoát con người khỏi bàn tay hung ác của Satan. Hôm nay, Người xua đuổi thần ô
uế công khai trước mặt mọi người trong hội đường. Lần khác, Người xua đuổi cả
một đạo quân quỷ dữ. Chúng đã xin nhập vào đàn lợn đang ăn bên bờ biển, và cả
đàn lợn lăn xuống biển chết hết.
Người gián tiếp giải
thoát con người khỏi ách thống trị của Satan qua việc chữa bệnh. Theo quan niệm
của người Do Thái, bệnh tật là dấu chỉ của tội lỗi. Vì thế, người bệnh là người
sống dưới ách Satan. Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều người bệnh. Nhiều lần
Người nói với người bệnh: “Tội con đã được tha”.
Người tha thiết với
việc cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, nên Người thường lui tới với những
người thu thuế. Người không chỉ nói lời tha thứ bên ngoài, nhưng thực sự hoán
cải họ từ bên trong. Nhất là Người giải thoát họ khỏi những mặc cảm và giúp họ
tái hội nhập vào đời sống cộng đoàn.
Qua những việc làm
của Đức Giêsu, ta thấy Người không chỉ giải thoát con người khỏi bàn tay hung
ác của ma quỷ mà còn quan tâm cứu chữa con người khỏi những thế lực đen tối của
chúng.
Cuộc chiến giữa con
cái Thiên Chúa và ma quỷ vẫn tiếp tục, nên Đức Giêsu khi sai các tông đồ đi rao
giảng, vẫn luôn kèm theo mệnh lệnh xua đuổi ma quỷ. Hôm nay, Người sai chúng ta
tiếp bước các tông đồ, đi chiến đấu chống lại ma quỷ. Ma quỷ không hiện hình
cho ta thấy, nhưng chúng ẩn nấp trong các sự dữ, sự ác còn tồn tại trên thế
giới.
Có thứ quỷ nghèo đang
trói buộc con người, không cho họ sống một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm
con người. Có thứ quỷ đói đang giết chết nhân loại dần mòn. Có thứ quỷ dốt giam
cầm những người thất học trong tù ngục tối tăm. Có thứ quỷ bệnh không ngừng
hành hạ và đẩy con người vào hố sâu tuyệt vọng.
Ngày nay, ma quỷ rất
tinh khôn nên thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp
dẫn. Chúng xuất hiện dưới những đồng tiền bất chính và hứa hẹn cho ta một cuộc
sống thoải mái. Chúng xuất hiện dưới chiêu bài tự do hưởng thụ để xúi giục ta
lao mình vào những nơi ăn chơi độc hại. Chúng kích thích sự tò mò của thanh
niên muốn thử sức với ma túy.
Với bàn tay nham
hiểm, ma quỷ âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia
rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Chúng kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta
đến chỗ trộn cắp, kiện cáo và tranh giành. Chúng khơi dậy thói kiêu căng, lòng
tự ái để ta ham hố vinh danh và quyền lực. Chúng vuốt ve thói ích kỷ để xúi
giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác.
Chúng lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, mất ý thức về tội.
Hôm nay, Chúa muốn ta
tiếp tục công việc của Chúa, xua trừ ma quỷ ra khỏi đời sống chúng ta. Hãy cùng
nhau xua đuổi quỷ đói, quỷ nghèo ra khỏi thế giới. Hãy góp phần tích cực diệt
trừ quỷ dốt, quỷ bệnh ra khỏi xã hội con người.
Hãy tỉnh táo nhận ra
ma quỷ dưới những khuôn mặt đẹp đẽ của vật chất, tiền bạc, hưởng thụ, cám dỗ.
Nhất là, hãy trục
xuất khỏi tâm hồn ta những con quỷ gây chia rẽ, bất hòa, tham lam, kiêu căng,
tự mãn, gian trá, giả hình, hám danh, ích kỷ, dửng dưng.
Tự sức riêng, ta khó
mà chiến thắng được ma quỷ. Muốn chiến thắng ma quỷ, ta phải nhờ ơn Chúa giúp.
Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện. Ta rèn luyện tinh thần
bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương
xót con, xin cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.
Uy quyền
Ngày 25 tháng 2 năm
1986, Tổng thống Phi Luật Tân, Ferdinand Marcos và phu nhân Imelda bỏ xứ ra đi
đến Hawaii với 22 thùng đựng toàn giấy bạc Phi trị giá 1 triệu 7 trăm ngàn Mỹ
kim. Ngay sau đó dân chúng biểu tình đã tràn ngập vào dinh điện Malacanang, nơi
làm việc và cư ngụ của ông Marcos trong 20 năm làm tổng thống. Đó là một lâu
đài sang trọng và lộng lẫy. Có một phòng ngủ thật rộng lớn, gồm đầy đủ những
dụng cụ ăn chơi giải trí. Riêng bồn tắm bên trong phòng ngủ của bà Imelda, cựu
hoa hậu, vợ ông Marcos, dài 3 mét, xung quanh lát kính phản chiếu, với một bình
nước hoa 4 lít được chế tạo tại Paris mang nhãn hiệu “Đệ nhất phu nhân”. Những
phòng chứa quần áo sang trọng của bà to lớn như cửa tiệm Bloomingdale ở Mỹ, với
3000 đôi giầy đủ kiểu, đủ mầu, 3000 chiếc quần lót mới tinh, trên 100 chiếc ví
da hiệu Gucci, và 100 đôi găng tay da. Ngoài ra người ta còn tìm thấy một cái
hóa đơn của tiệm kim hoàn ở Paris là 2 triệu Mỹ kim, một cái hóa đơn 107 ngàn
đôla của một chiếc áo dạ vũ và 6 chiếc áo bằng tơ lụa. Các hóa đơn nhét đầy các
hộc tủ, cái nào cũng hàng ngàn, hàng trăm đôla.
Nước Phi Luật Tân có
tỷ lệ là 70/o dân chúng sống trong nghèo đói, với lợi tức mỗi đầu người là 200
đôla một tháng. Trong khi đó tài sản của ông Marcos có khắp nơi trên thế giới
trị giá là 10 tỷ Mỹ kim, gấp 3 lần ngân sách quốc gia. Tài sản của ông gồm tiền
mặt, kim cương, chương mục ngân hàng, nhà cửa, đất đai, cổ phần đầu tư, nhiều
nhất là ở Thụy Sĩ, Pháp, Anh và Mỹ. Làm tổng thống trong một đất nước nghèo
khổ, với số lương là 5,700 Mỹ kim một năm, vậy mà ông Marcos sống như một ông
vua dầu lửa Ả Rập thì tiền bạc đó lấy ở đâu ra?
Do đó, ông Marcos
cương quyết không chịu rời chiếc ghế tổng thống! Ông Trần văn Giàu, nhà sử học
của đảng Cộng Sản Việt Nam đã nói một câu thắm thía: “Cái đít con người ta có
trí nhớ. Nó nhớ tới cái ghế!”
Quyền hành đi đôi với
lợi lộc để kết thành quyền lợi. Vì nắm quyền thì có lợi, nên người ta cứ mãi
ham mê quyền hành! Phản ảnh thực trạng xã hội Việt Nam, bạn Bùi Xuân Dũng đã
chia sẻ bài thơ “Khi Sếp Xây Nhà” trên báo Tuổi Trẻ Cười như sau:
Được tin
sếp sắp xây nhà,
Ai cũng muốn “giúp”
bởi là chỗ “thân”.
Công ty
xa xí nghiệp gần,
Xi măng, sắt thép…
cho quân chở về.
Điều
thêm mấy chục thợ nề,
Ưu tiên toàn chọn tay
nghề bậc cao.
Nhà xong
“khách sạn năm sao”,
Chi phí thế nào, sếp
cũng không hay.
Công
trình “chìa khóa trao tay”.
Sếp xem ngày tốt dọn
ngay khỏi chờ.
Ngắm nhà
dân mới rỉ lời,
“Ngôi nhà tình nghĩa”
quê tôi đó mà!
Phúc Âm hôm nay, cũng
diễn tả quyền hành của Chúa Giêsu, nhưng đó không phải là thứ quyền hành trần
gian.
1. Quyền của Chúa
Giêsu là quyền giảng dạy Thánh Kinh, Lời Chúa, và gây dựng Vương Quốc Thiên
Chúa nơi các tâm hồn:
“Ngài giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền”.
Phúc Âm của thánh
Máccô đã được viết vào khoảng giữa những năm 60 và 65 cho những tín hữu gốc Do
Thái, không phải ở Juđêa, mà ở Rôma. Cũng trong thời gian này hoàng đế Nêrô bắt
đầu đi tìm những người Kitô hữu ở Rôma để bắt bớ. Khởi đầu cho cuộc bách hại
đạo Kitô giáo kéo dài khoảng hai thế kỷ rưỡi, từ năm 64 tới năm 313. Nếu chúng
ta đặt mình vào trường hợp một người gốc Do Thái đang sinh sống ở Rôma, nhưng
tin vào Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ phải đối diện với những lựa chọn quyết
liệt. Theo ai và vâng lời ai? Quyền của ai trên hết? Quyền của các thầy Rabbi
Do Thái? Quyền của hoàng đế Nêrô? Hay quyền của Chúa Giêsu Kitô? Sự lựa chọn có
ý nghĩa gì cho chúng ta hôm nay?
Lựa chọn rồi quyết
định, tuân giữ lời Chúa Giêsu dạy, sẵn sàng chịu thiệt thòi, bắt bớ, phải sống
trốn tránh nơi các hang hầm mộ – catacomb – ở Rôma như các tín hữu Kitô giáo
thời sơ khai, không phải là chuyện dễ! Họ là những vị thánh đã sống lời Chúa cách
can đảm, trung thành tùng phục dưới quyền cai trị của Chúa Giêsu giữa những thử
thách bắt bớ của chính quyền trần gian!
Có một câu chuyện kể
về những người Do Thái sống ở Ba Lan trong một ngôi làng rất xa xôi hẻo lánh đã
nhiều năm không có một người thợ sửa đồng hồ nào ghé qua. Sau một thời gian,
những chiếc đồng hồ trong làng đều bị hỏng, mỗi cái chạy mỗi giờ khác nhau. Đa
số những người dân làng đã buông xuôi, không thèm lên giây thiều những chiếc
đồng hồ vô dụng nữa. Sau cùng, có một người thợ sửa đồng hồ tình cờ đã đi ngang
qua ghé vào thăm làng. Dân chúng bèn mang những chiếc đồng hồ đến cho ông sửa
dùm. Nhưng những chiếc đồng hồ của họ đã bị sét rỉ, bị ăn mòn vì lâu năm không
dùng đến, không thể sửa lại được nữa, trừ ra một chiếc đồng hồ mà người chủ của
nó đã kiên trì lên giây thiều mỗi ngày. Mặc dù ông biết rằng nó không chạy đúng
giờ, ông vẫn hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ có một người thợ sửa đồng hồ ghé
qua làng.
Người tín hữu trung
thành cũng giống như người chủ chiếc đồng hồ này. Qua lời cầu nguyện, việc thờ
phượng, đọc Thánh Kinh và suy gẫm Lời Chúa, chúng ta có thể giữ vững tinh thần.
Mặc dù đôi khi chúng ta không chắc chắn được phương hướng rõ rệt Thiên Chúa
muốn định cho cuộc sống của mình. Trong những hoàn cảnh khó khăn và thử thách
đó, Thiên Chúa vẫn hiện diện và hoạt động để bẻ gẫy những nỗ lực của ma quỷ cố
gắng làm cho Ngài mờ nhạt đi.
2. Quyền của Chúa
Giêsu có sức mạnh xua đuổi ma quỷ và chữa lành. Quỷ dữ nhận ra Chúa Giêsu là ai
và phải thét lên vì khiếp sợ: “Tôi biết ông là ai: là Đấng Thánh của Thiên
Chúa!” “Hãy im đi, và ra khỏi người này”.
Xưa kia, khi bắt đầu
mở rộng hệ thống xa lộ đường sá, có một nhân viên vẽ địa đồ của chính phủ mang
dụng cụ đo ngắm tới một nông trại. Anh gọi điện thoại cho người nông dân và xin
phép đi vào nông trại, ruộng vườn của ông để đo đạc và vẽ họa đồ. Người nông
dân này từ chối không cho phép vì sợ rằng hệ thống xa lộ sẽ đi qua miếng đất
của mình. Trong khi anh vẽ địa đồ xuất trình giấy tờ là nhân viên của chính phủ
và khăng khăng cho mình có quyền vào bất cứ nơi nào trên khắp nước để thi hành
nhiệm vụ. Phải đương đầu với nhân viên của chính phủ, người nông dân bèn chịu
thua, ra mở cổng cho vào. Sau đó ông đi đến cuối nông trại và mở thêm một cái
cổng khác, cổng chuồng bò điên dữ tợn nhất trong trại. Nhìn thấy con bò to lớn,
dữ tợn đang cắm đầu xông vào mình, anh nhân viên địa đồ bèn vứt mọi dụng cụ,
cắm đầu chạy thục mạng. Còn người nông dân thì cười đắc thắng và nói: “Có giỏi
thì trình giấy tờ ra cho nó xem! Chỉ cho nó thấy cái quyền bính của mình đi!”
Trong tiếng Hy Lạp,
chữ “quyền bính” – “authority” – là “exousia”, chữ “sức mạnh” – power” – là
“dunamis”. Quyền bính và sức mạnh có những ý nghĩa khác nhau. Anh công nhân vẽ
địa đồ trong câu chuyện ở trên, có quyền nhưng không có sức mạnh đối với con bò
hung dữ. Nhưng trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta biết rằng
Ngài là Thiên Chúa, Ngài có quyền và có sức mạnh xua đuổi ma quỷ và tẩy trừ tội
lỗi để cứu chuộc loài người. Ngài tha tội và chữa lành thương tích trong tâm
hồn chúng ta.
Một linh mục linh
hướng khóa Cursillo, ba ngày học hội Kitô giáo, kể lại tâm sự của một khóa sinh
trẻ, học thức cao với văn bằng Tiến sĩ. Câu chuyện đời của chàng quả thật rất
đặc biệt. Suốt đời chàng nỗ lực theo đuổi rất thành công những việc học hành,
nghề nghiệp, thể thao và nghệ thuật. Nhưng chàng vẫn cảm thấy trống rỗng. Cho
dù theo đuổi bất cứ công việc gì thì cũng chỉ là những nỗ lực cố gắng lấp đầy
cái lỗ trống to lớn trong tâm hồn mình mà thôi. Những thành công không làm
chàng cảm thấy thoải mái hơn. Đến với khóa học chàng cảm thấy như đang đi tìm
một điều gì đó sâu kín trong tâm hồn mà chàng đang khao khát.
Rồi vị linh mục đã
chia sẻ chính cuộc đời của mình cho chàng nghe, những đổ vỡ và thất bại. Hoàn
cảnh thì khác nhau, nhưng cùng một tâm trạng. Mấu chốt của vấn đề là làm thế
nào để học được cách chấp nhận Chúa Giêsu như một niềm hy vọng duy nhất cho
cuộc đời, một niềm vui duy nhất trong cuộc sống. Lúc đầu ngài cũng cảm thấy
rằng việc theo chân Chúa Giêsu là việc khùng điên. Nhưng rồi sau đó ngài cảm
thấy tâm hồn được bình an. Đây cũng chính là điều chàng đang muốn có, sự bình
an. Khi kết thúc khóa học chàng đã công khai công bố Chúa Giêsu là Chúa và là
Đấng Cứu Độ của mình với một lòng xác tín mạnh mẽ và cảm động. Chàng đã chia sẻ
công khai với mọi khóa sinh khác rằng: “Chỉ có Chúa Giêsu mới có quyền ban cho
tôi một ý nghĩa của cuộc sống và chữa lành các thương tích đổ vỡ trong tâm hồn
tôi”.
Phúc Âm của Chúa
Giêsu luôn luôn là Tin Mừng. Nhưng trước khi cảm nhận được sự vui mừng thực sự
của nó, chúng ta sẽ cảm thấy rất khó chịu. Không “vui mừng” tí nào cả! Để tìm
thấy được ý nghĩa của Tin Mừng, để cảm nghiệm được ơn chữa lành đối với những
đổ vỡ trong đời, chúng ta phải thực sự hoàn toàn quy phục dưới quyền bính của
Chúa Giêsu.
Nhưng để đến được với
Chúa Giêsu, những bước chân ban đầu thật khó khăn, không phải là việc tự nhiên
dễ làm. Vì con người chúng ta ai cũng mang sẵn bản tính thích nổi loạn, và ương
ngạnh. Chỉ nhờ ơn Chúa giúp, chúng ta mới có đủ can đảm trở về quy phục dưới
quyền bính và sức mạnh của Chúa Giêsu, đồng thời cũng nhận ra ý nghĩa của cuộc
đời mình. Và nguồn vui hạnh phúc thực sự chỉ đến với chúng ta qua Chúa Giêsu,
Thầy Chí Thánh của chúng ta mà thôi.
Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
Một giáo huấn có uy
quyền (1,21-28)
Trong đoạn văn trên
đây, ở ngay đầu Tin Mừng, Maccô cho ta một trình thuật cô đọng và rất có ý
nghĩa về sinh hoạt mang tính “Mêsia” của Chúa Giêsu: lời Ngài giảng dạy nối
liền với một cuộc trừ quỷ. Lời mở đầu bản trình thuật thật là rõ ràng (c.21).
Sự kiện xảy ra ở Caphanaum. Thị trấn này nằm dọc theo bờ hồ Galilê. Chúa Giêsu
dùng nơi này như trung tâm của việc rao giảng và là chốn qua lại trong công
cuộc truyền giáo (9,33), cũng như những người Do Thái đạo đức thời ấy, Chúa
Giêsu năng lui tới “hội đường”. Nơi đó người ta tụ họp để cầu nguyện và nghe
lời Thiên Chúa. “Ngày Sa bát”, ngày thứ bảy trong tuần, là ngày nghỉ được thánh
hiến cho Thiên Chúa (St 2,2-3). Ta biết việc phụng tự ở hội đường diễn ra thế
nào trong ngày đó (Cv 13,14-15). Sau khi đọc một đoạn luật Môsê và sách tiên
tri, người ta mời một người lớn tuổi cho lời dẫn giải về những đoạn Kinh Thánh
vừa đọc. Nhân dịp này, Chúa Giêsu lên tiếng giảng dạy (x. Lc 4,16-22). Các ký
lục ngồi ở hàng đầu.
Bốn lần (c. 21b-22 và
27) Maccô nhấn mạnh về “giáo huấn” của Chúa Giêsu. Hiếm khi thấy trong cuốn Tin
Mừng này ông cho ta biết nội dung của “giáo huấn” ấy. Nhưng ông lại nhấn mạnh
tới tính độc đáo của giáo huấn. Sự hiểu biết của Thầy vượt xa hẳn các ký lục
(c.22). Là thủ lãnh bè biệt phái, các ký lục là những nhà thông thái. được các
kinh sư nổi tiếng đào tạo về Thánh Kinh, họ là những người diễn giải Sách Thánh
có thẩm quyền, nhưng giáo huấn của họ lại dựa trên những truyền thống của các
bậc thầy họ. Còn Chúa Giêsu, Ngài không giảng dạy như các ký lục, nhưng Ngài
giảng dạy với uy quyền đến từ Thiên Chúa. Ở đây từ Hy Lạp “uy quyền” có nghĩa
rất mạnh. Từ này được lấy ở một đoạn Thánh Kinh Cựu Ước, trong đó Thiên Chúa
ban cho Đấng Mêsia của Ngài một “Quyền lực” tối thượng (Đn 7,13-14).
Chúa Giêsu đã cho
thấy sự trổi vượt của Ngài trên các bậc kinh sư Do Thái (c. 23-24). Để hiểu
được tính khác thường của đoạn văn này, ta cần biết rằng vào thời Thượng cổ tất
cả những sự dữ mà con người phải chịu đều được quy trách cho ảnh hưởng độc hại
của thần dữ. Diễn tiến của câu truyện như ta thấy cũng đã được dùng trong các
trình thuật về phép lạ nơi người Do Thái và người dân ngoại thời Chúa Giêsu. Đó
là một “nghi thức trừ tà”. Lược đồ tổng quát giống hệt nhau. Người trừ tà bắt
tay vào cuộc chiến với thần dữ. Một trong hai bên sẽ xướng tên của đối thủ.
Trong thế giới Sêmit, biết tên của ai là có ưu thế hơn người ấy. Ở đây, thần dữ
biết rõ căn cước của Chúa Giêsu: Ngài là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”, tức là
Đấng Mêsia. Nhưng thần dữ xưng ra điều này với dáng vẻ sợ hãi. Nó cảm nhận được
Chúa Giêsu đến tiêu diệt nó và đồng bọn. Đúng vậy: Đấng Mêsia lâm trận
lần cuối cùng dẹp tan sức mạnh của sự dữ (x. 3,22-30). Chính vì thế Chúa Giêsu
tỏ ra mạnh thế. Ngài xua đuổi thần dữ bằng một lời uy quyền (c. 25-26). Giống
như các câu truyện của thời bấy giờ, việc xua đuổi “quỷ” được Maccô thuật lại với những
hiện tượng mắt thấy tai nghe: nạn nhân vặn vẹo thân mình và kêu một tiếng lớn.
Không có gì đáng sợ cả. Nhưng điều đáng lưu ý chính là những mệnh lệnh Chúa
Giêsu truyền cho thần dữ: “Câm đi!”. Lệnh truyền thật quyết liệt. Lệnh này có ý
nhắm tới lời bộc lộ của thần dữ: “Tôi biết ông là ai rồi, ông là Đấng Thánh của
Thiên Chúa!” (c. 24b).
Tại sao Chúa Giêsu
lại cấm nói về căn cước của Ngài cách nghiêm ngặt như thế? Đó là phát biểu đầu
tiên mà người ta gọi là “bí mật về Đấng Mêsia” trong Tin Mừng Maccô. Chúng ta
sẽ thấy, trong suốt cuốn Tin Mừng này, Chúa Giêsu kién quyết bắt ma quỷ phải
giữ kín căn cước của Ngài (1,34b; 3,12v.v…) cũng như Ngài cấm những người được
chữa lành và các môn đệ tuyên xưng, dù chỉ phần nào, tính “Mêsia” của Ngài
(1,43-44a; 7,36a; 8,31 v.v…). Dường như Maccô đã hình thành nên một thái độ
thường xuyên của Chúa Giêsu đối với những quan niệm dân gian ở thời Ngài. Trong
niềm khát mong Đấng Mêsia, người Do Thái chờ đợi một nhân vật mang ít nhiều
tính thần thoại. Người ta tin rằng, với một chiếc đũa thần Đấng Mêsia sẽ thay
đổi kiếp sống của con người trên mặt đất. Ngài sẽ biến hoang địa thành một kho
chứa đầy cơm bánh (Mt 4,3). Ngài sẽ tiêu diệt hết mọi bệnh tật (Mt 4,24). Một
số người còn ngĩ rằng, chẳng biết Ngài đến từ đâu, nhưng Ngài sẽ không chết (Ga
12,34). Đối với Chúa Giêsu, để cho người ta công bố quá sớm Ngài là Đấng “Kitô”
là “Con Thiên Chúa” là khuyến khích sự tin tưởng sai lầm của người dân về Đấng
Mêsia và gây tổn hại lớn cho việc biểu lộ tiệm tiến sứ vụ và thân thế đích thực
của Ngài. Theo Maccô, thực ra chỉ có cuộc tử nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu
mới mạc khải được dung mạo đích thực của Đấng Mêsia mà người ta phải tin tưởng.
Trước khi những biến cố mặc khải trọn vẹn này xảy ra, ta nên theo lệnh Thầy là
giữ im lặng.
Giống như lúc khởi
đầu, trình thuật này kết thúc bằng việc cố ý nhấn mạnh tới sự mới mẻ mà Chúa
Giêsu mang đến: một lời cứu độ hoàn toàn hiệu nghiệm như Lời của Thiên Chúa. Ta
hiểu được sự kinh ngạc và nỗi thắc mắc bao trùm trên đám đông dân chúng (c.
17a). Chúa Giêsu vừa làm xong một điều chưa từng thấy. Ngay trong ngày Sabbat,
ngày nghỉ ngơi bất khả xâm phạm, Chúa Giêsu biểu dương uy quyền tuyệt đối trên
sức mạnh của thần dữ. Bởi đâu Ngài có uy quyền thế này? Người ta thắc mắc hỏi
nhau như thế. Và thắc mắc này còn gặp thấy qua suốt cuốn Tin Mừng: “Ông Giêsu
Nadaret” này là ai vậy? Sau cùng, Maccô chỉ còn việc cho ta thấy rõ danh tiếng
Chúa Giêsu lan rộng khắp xứ Galilê sau vụ chữa lành này (c.28).
Suy niệm của Noel Quesson
“THẾ NGHĨA LÀ GÌ?
NGƯỜI CÓ UY QUYỀN BIẾT MẤY?”
Trong thư viện của
quốc hội Hoa Kỳ, có người đã thống kê các loại sách và công bố kết quả như sau:
có 1735 cuốn viết về Napoleon; 1755 cuốn viết về Washington; 3172 cuốn viết về
Lincoln; 3172 cuốn viết về W. Shakespeare và 5152 cuốn viết về Đức Giêsu Kitô.
5152 cuốn sách với
nhiều bản in đây, chắc chưa phải là đủ hết số sách viết về Chúa Giêsu trên thế
giới, nhưng cũng đủ cho ta thấy Chúa là một nhân vật gây nhiều ngạc nhiên cho
mọi người có suy nghĩ. Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, ta thấy ngay, khi Chúa vừa ra
mắt dân chúng, người ta đã xôn xao bàn tán về Chúa như một điềm lạ.
Chúa Giêsu bắt đầu
giảng trong hội đường và lời Ngài làm cho người ta kinh ngạc. Một nhà vô tín đã
hỏi một cụ già: “Tại sao cụ tin thờ ông Giêsu, một tử tội chết trần truồng trên
Thập giá?”. Cụ già từ tốn đáp: “Thưa ông, rất đơn giản, vì tôi thấy trong lịch
sử không có ai như ông Giêsu, không ai bằng ông Giêsu, cũng không ai hơn ông
Giêsu”. Thực vậy, những người trực tiếp nghe Chúa Giêsu giảng, đều ngạc nhiên
và cảm thấy lời Ngài khác hẳn những kiểu ăn nói của các luật sư, văn sĩ. Vì lời
Ngài là “giáo lý mới!...lời Ngài ra lệnh cho ma quỷ và chúng phải tuân theo”
(Mc 1,27). Trái lại, các luật sĩ chỉ biết trình bày những điều họ đã nghe, đã
học mà thôi. “Ngài giảng dạy như kẻ có quyền, khác với các luật sĩ” là như thế.
Lời Ngài đi thẳng vào
tâm hồn người nghe, nói thẳng tới khát vọng muôn thuở của dân Do Thái và mọi
nước mọi dân. Người giảng dạy về Thiên Chúa, cũng là giảng dạy về chính mình.
Cuộc sống Thiên Chúa là cuộc sống của Người. Nên Chúa nói về mình là điều vững
chắc nhất, dê dàng nhất, đầy đủ thẩm quyền nhất và cũng dễ thuyết phục người
nghe hơn cả.
Là Kitô hữu, chúng ta
có nghĩa vụ nói về Chúa, loan báo Tin Mừng. Nhưng trong thực tế, chúng ta đã
tiếp nhận Chúa vào cuộc sống chúng ta chưa? Chỉ khi có Chúa sống trong ta, ta
mới có thể nói và làm những công việc Chúa giao phó: -phục vụ những người anh
em đau khổ phần xác, nâng đỡ người đau khổ tinh thần, nhất là những anh em
thiếu hiểu biết về Chúa, những người kém lòng tin; -Theo gương Chúa, chúng ta
dâng hiến thời giờ ngày Chúa Nhật để thực tập việc cầu nguyện, chia sẻ lời
Chúa, thăm viếng giúp đỡ bệnh nhân, quan tâm đến người bạn dự tòng và tân tòng
của mình…
Qua Thánh Kinh, Chúa vẫn
nói với chúng con mỗi ngày, qua bí tích hòa giải, Chúa vẫn trừ quỷ cho chúng
con, qua bí tích Thánh Thể. Chúa luôn hiện diện với chúng con. Xin Chúa giúp
chúng con sống cuộc sống của Chúa để chúng con có thể phục vụ mọi người theo
gương Chúa. Amen.
Chú giải của Noel Quesson
Họ (Đức Giêsu và các
môn đệ) đi vào thành Ca-phác-na-um.
Đó là bản văn chính
xác của Thánh Maccô. Đại danh từ “họ" ở số nhiều trên đây, có vẻ bất định,
nhưng rất có ý nghĩa Đức Giêsu vừa mới kêu gọi được bốn môn đệ. Đó là trang Tin
Mừng ta đã suy niệm Chúa nhật vùa qua. Như thế, Đức Giêsu không còn cô lẻ nữa.
Đã có một nhóm gồm năm người "đi vào" một thành trên bờ hồ Galilê. Từ
đây trở đi, Maccô sẽ giới thiệu cho ta những con người đó luôn cùng sống với
nhau. Họ tạo thành một nhóm "Đức Giêsu và các môn đệ của Người".
Sau này, bằng một thứ
ngôn ngữ thần học hơn, Thánh Phaolô sẽ nói đến "Thân Thể Đức Kitô” mà
chúng ta là các chi thể. Với một cách nói khác, cụ thể hơn, Máccô cũng gợi lên
một thực tại như thế. Điều mà Đức Giêsu sắp làm, thì lát nữa đây, chính
"Người và các môn đệ" sẽ cùng thực hiện! Đó cũng là công trình của
Giáo hội.
Thành Ca-phác-na-um
Ca-phác-na-um chính
là biểu tượng cho xứ "Galilê của dân ngoại", miền đất sẽ trở nên nơi
thuận lợi cho công việc truyền giảng Tin Mừng. Xưa kia người ta nhắc đến
Ca-phác-na-um, cũng như ngày nay người ta nói với Marseille, Amsterdam hay Hồng
Kông! Đó là một hải cảng, một nơi vãng lai, pha tạp nhiều chủng tộc. Bước vào
thành Đức Giêsu và các môn đệ sẽ nhận ra ngay các thủy thủ, thương gia, nông
dân... Những khuôn mặt sạm nắng của dân du mục đến từ sa mạc gần đó, những
người nghèo khó với quần áo tả tơi, cũng như những nhà tư sản Rôma quần là áo
lượt, những binh lính làm nhiệm vụ cảnh sát cho người ngoại quốc và có Matthêu,
người thu thuế bị dân chúng nhục mạ, vì thu thuế cho bọn xâm chiếm. Đó là thế
giới hỗn tạp. Đức Giêsu biết như thế, nhưng Người vẫn chọn lựa. Ngày nay, để
diễn tả một đống đồ lộn xộn, người Pháp đã thường nói: thật là một
“Ca-phác-na-um"!
Ngày Sabát kế đó,
Người vào Hội đường giảng dạy.
Sau khi quay chung cả
"nhóm", giờ đây Máccô giơ máy quay phim, ghi hình cảnh chính, tập
trung vào con người có vẻ đang dẫn đầu nhóm, một người làng Na-da-rét thì phải,
cho đến lúc này anh ta mới chỉ là một thợ mộc quèn trong một thôn xóm, có tên
là Giêsu.
Maccô sắp diễn tả cho
ta một "Ngày tiêu biểu” của ông Giêsu và nhóm này, một ngày hiển hách tại
Ca-phác-na-um, bằng cách kể lại bốn "hành động" đặc trưng của toàn
thể tác vụ Đức Giêsu (cũng như tác vụ của Giáo hội): 1. Đức Giêsu giảng dạy, 2.
Đức Giêsu xua trừ quỷ 3. Đức Giêsu chữa lành người bệnh, 4. Đức Giêsu cầu
nguyện. Tất cả những việc làm đó diễn ra trong một ngày: từ bình minh hôm nay
đến bình minh hôm sau, từ sáng hôm nay đến sáng ngày mai (Mc 1,21,35). Tôi có
nhận thấy mình sống như thế trong ngày sống của Đức Giêsu? trong ngày sống tiêu
biểu của người Kitô hữu không? Mỗi ngày tôi có thực thi như thế cùng với Đức
Giêsu không?
Một hoạt động tiêu
biểu và ý nghĩa như thế, không phải ngẫu nhiên đã bắt đầu "trong Hội đồng
vào một ngày Sa-bát". Hội đường vẩn là nơi hội họp chính thức của Do Thái
giáo là Ngôi nhà chung cho mọi người, là Nhà thi hành Lề luật, ngay từ đầu, Đức
Giêsu đã đến ngay nơi mà có nhiều người tụ họp đông nhất. Người mong được tiếp
xúc.
Người vào Hội đường
giảng dạy. Thiên hạ rất đỗi ngạc nhiên về cách Người giảng dạy, vì Người giảng
dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
Chỉ trong cùng một
câu nói mà Máccô đã ba lần sử dụng từ "didakê", "giảng
dạy". Đối với Đức Giêsu, chính giáo huấn hay "lời dạy" phải đứng
hàng đầu! Thực ra, việc trừ quỷ đã hàm ẩn trong hai khẳng định của lời giáo
huấn Đức Giêsu. Do đó, giảng dạy là vai trò đầu tiên của Đức Giêsu, cũng như
của Giáo Hội. Tôi cố tưởng tượng xem. Tôi cứ nghĩ như mình thuộc cử tọa đang
lắng nghe: Hôm nay, chính Đức Giêsu đang thuyết giảng. Maccô không nói tới nội
dung bài diễn giảng. Trong trang Tin Mừng trước, Người đã phát biểu nội dung đó
qua bốn câu: "Thời kỳ đã mãn... Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi... Anh em
phải sám hối... Anh em hãy tin vào Tin Mừng". Điều làm cho Máccô quan tâm,
đó là phản ứng của thính giả: Họ say mê thực sự... Đức Giêsu là một nhà thông
biện vĩ đại đúng nghĩa... Người ta "kinh ngạc" vì lời Người. Trước
hết, không phải giọng điệu nhằm tạo hiệu quả bề ngoài; nhưng chính là lời
nói đi thẳng vào tâm hồn, nên những câu hỏi đích thực mà mỗi người đều tự đặt
ra cho mình; và mang đến lời đáp trả mà người ta đang mong đợi, bởi vì nó
"đúng thực" tận thâm sâu con người!
Một cách long trọng
hon, Thánh Gioan đã bắt đầu Tin Mừng của ông, bằng cách nói về Đức Giêsu như
sau: “Lúc khởi đầu, vẫn có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi
Lời vẫn là Thiên Chúa... và Ngôi Lời đã làm người". Còn Maccô, bằng một
kiểu nói khác, cũng diễn tả đích xác cho ta cùng một thực tại đó. Đức Giêsu,
Lời của một Thiên Chúa tự mạc khải, Lời gây ngạc nhiên, Lời mang tính quyết
liệt... Đối với lời của Đức Giêsu, là chính sự mạc khải của Thiên Chúa tôi đã
dành tình yêu như thế nào? Tôi đã dành thời gian để suy gẫm lời nói, giáo huấn
của Đức Giêsu ra sao?
Những "kinh sư
" theo truyền thống chỉ biết lặp lại bài vở đã học. Còn Đức Giêsu được
người ta chú ý ngay do “uy quyền" của lời Người, uy quyền phát xuất tự bên
trong Người. Đức Giêsu nói về Thiên Chúa, Đúng vậy! Nhưng Thiên Chúa, cũng
chính là đời sống của Người. Và điều đó dễ được người ta cảm nhận, khi ai đó
nói với vẻ xác tín: "anh ta tin như thế?", rồi anh ta sống thiết thân
với lời nói của mình. Đó không phải là nói "ba láp", nói "ba hoa
chích chòe"... nhưng là nói sụ thật. Đúng vậy, Đức Giêsu luôn sống thiết
thân với lời Người nói. Đó là điều khác với hạng kinh sư. Còn tôi, khi nói về
Thiên Chúa, về Giáo hội, tôi có làm cho người ta cảm thấy tôi tin như thế
không? Tôi là một "kinh sư" hay là một "chứng nhân? Tôi có thích
lặp lại những bài đã học cách bề ngoài, hay muốn Lời Thiên Chúa trở nên
"của tôi", được nội tâm hóa, là chính “thịt xương của xương thịt
tôi" không?
Đúng lúc đó, trong
Hội đường, có một người bị quỷ ám la lên...
Chúng ta đang đứng
trước bối cảnh phương Đông. Cuốn phim của Zefflrelli đã mô tả rất đúng cảnh
này, trong đó thật là náo động, la hét, bạo lực bùng lên. Máccô không ngần ngại
tỏ vẻ cho cảnh bùng nổ trên thêm màu sắc: Trước hết, đó là "tiếng la
hét" vang lên trong khi Đức Giêsu đang giảng! Rồi Đức Giêsu quát mắng
nó": bầu khí thật sôi động kịch liệt! Chính khi "lay mạnh người ấy,
thét lên một tiếng" quỷ mới xuất khỏi anh ta.
Tân ước đã 23 lần bàn
tới "thần ô uế" mà sách bài đọc dịch là "thần xấu', bởi vì thực
ra, từ "ô uế" ở đây không có nghĩa "tình dục" như hiện nay,
nhưng sự ô uế chỉ được hiểu như điều gì đổi nghịch với sự "thánh
thiện". Riêng Maccô, ông sử dụng tới 11 lần từ "thần ô uế ".
"Thần xấu”, chính là "đứa chống lại sự thánh thiện của Thiên
Chúa": chúng ta thấy rõ điều này được mô tả ở đây, Nó "quấy phá"
con người! Nó ngăn cản con người không sống đích thực là người. Con người
"bị quấy phá" trên đây, đó là chính biểu tượng của con người "bị
tha hóa". "Bị chiếm đoạt", vì một thứ sức mạnh ngoài nhân loại
khi chinh phục được con người, đã hoàn toàn thống trị nó.
Trước việc "trừ
quỷ" của Đức Giêsu trên đây, chúng ta có thể phân vân giữa hai thái độ,
thực ra cũng khá giống nhau, khiến chúng ta khó "hiểu biết sâu xa"
cảnh tượng này: thái độ thứ nhất làm ta dễ chán nản và nuốn bác bỏ bản văn kỳ
dị trên như đã cũ rích và lỗi thời.. Ngược lại thái độ thứ hai gây cho ta thích
thú nhìn xem vẻ kỳ diệu bề ngoài của bản văn (theo kiểu nhà đạo diễn phim
“Người trừ quỷ", khai triển mọi vẻ khủng khiếp có tính kịch trên màn
ảnh).: Thực ra, Maccô bắt đầu hoạt động của Đức Giêsu bằng một việc trừ quỷ,
bởi vì ông nhận thấy ở đó bản "tóm lược" trọn vẹn mọi hoạt động của
Chúa: Đức Giêsu đến giải phóng con người nô lệ khỏi những quyền lực đang
tha hóa họ... Thế giới thay đổi chủ... Nước Thiên Chúa đang bắt đầu!.
Này ông Giêsu
Na-ra-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Tôi biết ông là ai rồi: "ông
là Đấng Thánh của Thiên Chúa".
Thực sự cần phải khám
phá ra căn tính đích thực của Đức Giêsu. Cần khởi đi từ danh hiệu bình thường
"Giêsu, người Na-da -rét", đến tước hiệu kỳ diệu: "Đấng Thánh
của Thiên Chúa". Đức Giêsu không phải là kẻ trù quỷ tầm thường ở làng
thôn, như một số ít người lúc đó đang hoạt động rải rác khắp nơi, trong thế
giới Do Thái cũng như trong thế giới dân ngoại: một loại ma thuật hay phù thủy.
Hoàn toàn không thể có sự tương hợp giữa "Thần ác" và "Thiên
Chúa" được: thế nên Sa-tan đã công khai tuyên chiến. ông muốn gây chuyện
gì đây? Có liên quan gì giữa ông và tôi? ông muốn gì? Đó là "tiếng la hét
của quỷ". Còn chúng ta thì sao? Cùng với Đức Giêsu, chúng ta có quan niệm
đời sống Kitô hữu của chúng ta như một cuộc giao chiến lớn lao nhằm giải phóng
không? Những người thuộc nhóm của Đức Giêsu cần phải sẵn sàng ứng chiến. Những
lực lượng thù địch luôn nổi đậy chống lại Người. Tôi có cùng chiến đấu với Đức
Giêsu không? Tôi phải giải thoát anh em tôi, và chính bản thân tôi khỏi sự tha
hóa, sự ác nào?
Đức Giêsu quát mắng
nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này".
Từ Hi Lạp được dùng ở
đây, có nghĩa gì "bịt miệng", “đe dọa”, “quát mắng". Trước giông
bão nổi lên trên biển hồ, Đức Giêsu cũng sử dụng từ này (Mc 4,39). Quyền năng
của Đấng Phục sinh chiến thắng mọi quyền lực ma quỷ được diễn tả qua câu: sự ác
bị đánh bại Thiên Chúa xuất hiện.
Chúng ta nên lưu ý
một chi tiết có ý nghĩa: đó là khi mọi người hỏi nhau và ngạc nhiên về
"nhân cách" của Đức Giêsu... thì ma quỷ đã biến mất rồi. Nhờ bản tính
thiêng liêng, có lẽ quỷ tinh thông hơn con người chăng? Nhưng Đức Gíêsu truyền
cho chúng phải im lặng: câm miệng lại? hãy im đi! Căn tính đích thực của Đức
Giêsu chỉ có thể được mạc khải dần dần: Tuyên bố quá sớm Đức Giêsu là Đấng
Thánh của Thiên Chúa", là."Con Thiên Chúa", có thể chỉ là một
việc làm của ma quỷ. Chỉ đến khi đứng trước thập giá một "con người, một
kẻ ngoại, viên đội trưởng hành quyết, mọi công bố những tước hiệu trên một cách
hợp thức (Mc 15,39).
Mọi người đều kinh
ngạc, bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy
lại có thẩm quyền. Ong ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo".
Đó là những
Lời", một giáo huấn, một sứ điệp... một điều gì "mới lạ" cho
nhân loại.
Đó là những "Dấu
chỉ", những "hành động của Đức Giêsu, các bí tích... quyền năng của
Thiên Chúa". Đừng quên rằng, trong bí tích Rửa tội, chính chúng ta đã được
Chúa Giêsu "trừ quỷ và "dấu chỉ bí tích" này luôn hiện diện: Nó
được hiện thực hơn mỗi khi ta cử hành Thánh Thể... trong đó Đức Giêsu
"nói" với ta, và "cứu độ" ta khỏi sự dữ.
Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúng ta đang ở
trong các tuần đầu mùa quanh năm, là phần "nhập đề" giới thiệu các
nhân vật chính của Nước Trời, đặc biệt là Chúa Giêsu. Thánh lễ hôm nay đề cập
tới thế giá và uy quyền của Chúa Kitô. Chúa Kitô là vị “Đại ngôn sứ " là
Môisen đã nhân danh Thiên Chúa báo trước cho dân Israel. Người thực sự là Đấng
Messia, nhân danh Thiên Chúa mà đến và chỉ nói những lời của Thiên Chúa mà thôi
(Bài đọc 1) Sau này, Chúa Kitô đã tuyên bố đúng như thế (x. Ga 7,10-18). Bởi đó
cần tuyệt đối nghe lời Người. Chúa Kitô còn là Đấng Thánh của Thiên Chúa, mang
một cái gì của Thiên Chúa, nên không lạ gì mà khi Người ăn nói, giảng dạy, thì ai
nấy đều kinh ngạc về giáo lý của Người "vì Người giảng dạy như Đấng có
quyền uy" (Bài Tin mừng). Chính Chúa Giêsu từng nói với Nicôđêmô:
"Đấng Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa" (Ga 3,34; x. Ga
14,10). Vì Chúa có uy quyền như vậy và lời Chúa mang một thế giá siêu việt, nên
Giáo Hội mượn lời Thánh vịnh mà nhắc nhủ ta: "Ước chi hôm nay các bạn nghe
tiếng Người và đừng cứng lòng nữa" đáp ca: Tv 94,8).
2. “Người ta kinh
ngạc về giáo lý của người" (Mc1,22). Ngày nay thì ngược lại: vì nghe và
đọc lời Chúa cách vô ý thức cùng bất kính, ta thấy nhàm chán và đôi khi còn ác
cảm; đi lễ, gặp các bài đọc Thánh Kinh, các bài giảng hơi dài một chút là đã
kêu ca, ngáp ruồi... Bởi đó, mỗi khi cảm thấy chán ngán Lời Chúa, hoặc dửng
dưng với giáo lý của Người, thì cần phải xét lại nếp sống của ta, để gạt bỏ
những ngăn trở những chướng ngại; đồng thời tạo cho tâm hồn có những tâm tình,
khiêm tốn, đơn sơ, ngay thẳng, là những tâm tình rất cần cho việc đón nhận Lời
và giáo lý của Chúa; sau cùng, cũng cần phải gắng công tìm hiểu, học hỏi, chứ
không phải ngồi đó mà nghe qua, đợi chờ cách thụ động, ươn lười, vô bổ.
3. Bài Tin mừng hôm
nay quả là một thánh lễ rút gọn:
c 21. tập họp. Dân
chúng quyết định đi tìm Thiên Chúa và đến cùng Ngài, vì bấy lâu nay họ đã sống
cách vô thần, xoay vần đổi hướng như chong chóng, bây giờ họ muốn đi tìm thứ
hạnh phúc đích thực.
c 22: phung vụ Lời
Chúa. Từ thời Abraham, Thiên Chúa đã ngỏ lời và luôn luôn đáp ứng mọi yêu cầu
của con người. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa lại dạy dỗ, giải thích...
c 23-24: dâng lễ. Để
đáp lại lời đã nghe, con người thưa "xin vâng", tin vào lời Thiên
Chúa phán và hiến dâng đời mình cho Ngài. Chúa Giêsu là Đấng duy nhất đã vâng
lời Chúa Cha cho đến cùng và như thế đã dâng lên Cha hiến tế duy nhất đẹp lòng Cha.
Ở đây người bị quỷ ám đang chiến đấu.
c 25-26: hiệp lễ.
Trong khi dâng niềm tin này, lúc mà mọi hy vọng xem ra mất hút trong đêm tối
(giải thoát khỏi Ai cập-tử Nạn), Thiên Chúa đã can thiệp và thực hiện kế đồ của
ngài. Và quỷ ám đã ra khỏi người kia, để từ đây tâm hồn nên trong sạch.
c. 27-28: sai đi. Nhờ
ơn bí tích, Kitô hữu sau khi trở nên người mới được Chúa Cha chúc phúc và Chúa
Thánh Thần tuôn đổ ơn lành, trở về với cuộc sống thường nhật với mọi người và
quyết dùng cả đời mình để loan láo Tin mừng hầu "danh tiếng Người đồn ra
khắp mọi nơi".
Ðức Giêsu, Ðấng Giải Thoát Ta Khỏi Sự Dữ
Mc 1, 21-28
An Phong, OP
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh
Máccô cho rằng phép lạ đầu tiên Ðức Giêsu đã thực hiện là trừ quỷ. Khi đến trần
gian, Ðức Giêsu đã mang theo Vương quốc Thiên Chúa vào trần gian, Vương quốc
"công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần". Và như thế, quyền
năng cụ thể, rõ ràng và tuyệt đối mạnh mẽ của Ðức Giêsu đã phá hủy vương quốc
Satan; vương quốc sự ác, sự dữ…
Có bao giờ đời sống lại tiện nghi
như hôm nay chưa nhỉ ? Ðủ các loại phương tiện phục vụ đời sống mỗi ngày… các
phương tiện giải trí, các phương tiện truyền thông xã hội… Có lẽ chưa bao giờ
trái đất lại thu hẹp đến như thế. Chỉ cần bật một nút tivi lên, các thông tin
trên khắp thế giới được tường thuật. Chỉ cần nhấc máy điện thoại lên, một người
từ bán cầu này có thể nói chuyện với một người ở bán cầu khác, v.v…
Nhưng có bao giờ đời sống nhiều
lo âu như hôm nay không nhỉ ? Ðủ loại các phương tiện "làm hư" con
người : xì ke, ma túy, mại dâm, tội ác, bạo lực… và mọi hình thức sự dữ rình
rập đè bẹp con người. Tất cả những thứ "làm hư con người" đó đồng
nghĩa với vương quốc Satan, một vương quốc đang càng ngày càng bành trướng, bất
chấp mọi nỗ lực đang cố "làm sạch".
Còn hơn thế nữa, ngay trong con người,
có một vương quốc sự dữ đang hoành hành. Thánh Gioan nói đó là "dục vọng
của bản tính đam mê, của đôi mắt, và sự kiêu căng vì tiền bạc" (1Ga 2,16).
Những đam mê, dục vọng đó hoành hành khắp nơi.
Thế gian và con người cần được
Thiên Chúa giải thoát. Ðức Giêsu đã đến với Vương quốc Thiên Chúa, vương quốc
của công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Nơi nào có Thiên Chúa
hiện diện, nơi đó là chính Nước Thiên Chúa, nơi đó có sự tự do của con cái
Thiên Chúa.
Mỗi ngày, trong Thánh lễ, lời cầu
chúc "Chúa ở cùng anh chị em"; "bình an của Chúa ở cùng anh chị
em" được gởi tới từng anh chị em như lời mời gọi xây dựng Nước Thiên Chúa.
Xin Chúa ở cùng chúng ta, bình an của Chúa ở cùng chúng ta để giải thoát chúng
ta "khỏi mọi sự dữ". Amen.
Lạy Chúa Giêsu,
Chỉ có Chúa là Ðấng giải thoát chúng con
khỏi vương quốc của sự dữ.
Chỉ có Chúa là Ðấng giải thoát chúng con
khỏi vương quốc của sự dữ.
Xin Chúa cũng đồng hành với chúng con
trên bước đường đời
trên bước đường đời
Và cùng chiến đấu với chúng con
trong cuộc chiến hằng ngày.
trong cuộc chiến hằng ngày.
Như Một Ngôn Sứ
Mc 1,21-28
Như Hạ, OP
Lời Chúa vẫn làm những việc kỳ
diệu nơi cộng đoàn dân Chúa. Chẳng hạn Dòng Nữ Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại tại
Houston đang tiến những bước ngoạn mục tại cộng đồng Công giáo địa phương. Số
phận anh em Đa Minh Việt Nam không được may mắn như thế. Nghĩa là bước tiến
không đều nhịp. Niềm vui không trọn vẹn. Nhưng chính nơi niềm vui
không trọn vẹn đó, lời Ngôn sứ Maria trong kinh Magnificat đã được thực hiện
trọn vẹn trong hoàn cảnh hôm nay.
Vị Ngôn sứ đó đã cống hiến cho
đời một Ngôn sứ vĩ đại khiến “thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì
Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mt 1:22).
Hôm nay nhân loại cũng đang mong
ước có một vị ngôn sứ như thế. Nhưng thử hỏi có ai lấp đầy niềm hi vọng đó
không
NHẬN DIỆN NIỀM HI VỌNG
Thời Đức Giêsu, dân Do thái
ngưỡng vọng về một ngôn sứ như Thiên Chúa đã hứa với Môsê : “Thiên Chúa của anh
em sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em ; anh em hãy nghe vị ấy”
(Đnl 18:15). Phải đợi tới bao giờ vị ngôn sứ đó mới xuất hiện ? Toàn dân
có đủ kiên nhẫn chờ đợi thêm nữa không ? Sách Talmud cho thấy “tinh
thần ngôn sứ đã tắt ngúm và cạn kiệt trong dân Israel với ngôn sứ Haggai,
Giacaria, và Malakhi”(Yoma 9b). “Cho tới lúc đó, các ngôn sứ được tiên báo bằng
hành động Thánh Linh ; do đó hãy lắng tai nghe những lời khôn ngoan của ho.”
(Seder ‘Olam Rabbah 30). Chẳng còn ai xứng đáng nói thay Chúa như các ngôn sứ
nữa. Tình thế hoàn toàn thất vọng. Chỉ còn niềm hi vọng cánh chung mới nuôi
sống niềm mong đợi một vị ngôn sứ như Môsê đã hứa (Đnl 18:15-20).
Giữa lúc toàn dân thất vọng như
thế, Đức Giêsu đã xuất hiện như một ngôn sứ “có uy quyền” (Mc 1:27). Uy quyền
đó biểu lộ nơi sức mạnh trấn áp “thần ô uế” (c.23). Người là “Đấng Thánh của
Thiên Chúa” (c.24) “vì là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng-Được-Xức-Dầu, được
thánh hiến, và là Con Thiên Chúa” (Kinh Thánh Tân Ước 1995:185). Sức mạnh Người
đáng sợ đến nỗi ma quỉ cũng phải thét lên trước khi trở về cõi im lặng ngàn
thu, nhường bước cho Ngôi Lời hoạt động để xây dựng Nước Trời. Hoạt
động đó gây “kinh ngạc đến nỗi mọi người bàn tán với nhau : ‘Thế nghĩa là gì
? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền”(Mc 1:27). Khác hẳn
với các người Biệt phái với mớ giáo lý nhàm chán, thái độ kênh kiệu, và những
tập tục phức tạp, Đức Giêsu đến thổi luồng gió mới vào cuộc sống con người và xã
hội Do thái. “Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ trong sách Đệ nhị luật, khai mở
thời đại cánh chung với lời mời gọi sám hối” (Cv 3:22; 7:37) (Faley 1994:129).
Kêu gọi sám hối là đụng tới quyền
lợi của nhiều hạng người trong xã hội. Sám hối là xoay ngược tình thế, vì bắt
mọi người phải từ bỏ lối nhìn, quyền lợi và những thói quen cố hữu. Lúc đó,
“Carphanaum là một thành phố thịnh vượng, giàu có, tội lỗi và sa đọa. Vì
Carphanaum là cơ quan đầu não của quân đội Rôma, tràn lan những ảnh hưởng ngoại
giáo từ khắp đế quốc Rôma” (Life Application Study Bible 1991:1727). Bởi đó,
lời giảng của Đức Giêsu trở thành một thách đố lớn lao cho thính giả của
Người. Trước mặt quần chúng, Người xuất hiện như một Đấng có “uy
quyền”, cao cả như một “Đấng Thánh của Thiên Chúa”, và hành động mạnh mẽ như
một Thiên Sai. Người cho mọi người thấy “thời cánh chung đã điểm với chiến
thắng quyết liệt của Giavê và thảm bại của ma quỉ” (Faley 1994:131). Chiến
thắng đó chính là chiến thắng của sự sống trên sự chết. Tất cả sẽ được đổi mới.
Một mùa xuân đã đến với nhân loại. “Chính việc Đức Giêsu chiến thắng
quyền lực ma quỉ đã mở màn thời đại Thiên sai và loan báo Nước Thiên Chúa”
(Faley 1994:131).
NGÔN SỨ HÔM NAY
Khác hẳn Cựu ước, Tân Ước cung
cấp những ngôn sứ loan báo Tin Mừng, thay vì những lời đe loi, hăm dọa, kết án.
Tin Mừng đó có nguồn gốc sâu xa và nền tảng vững chắc trong Chúa phục
sinh và vinh quang. Bởi vậy làm ngôn sứ có nghĩa là “làm chứng cho Đức
Giêsu” (Kh 19:10) và “làm cho lời Chúa thành hiện thực, sống động và trực tiếp
ảnh hưởng tới cộng đoàn” (Fisichella 1995:794). Không có ngôn sứ, cộng đoàn
không thể thành hình, vì theo thánh Phaolô, “người nói tiên tri thì xây dựng
Hội Thánh” (1 Cr 14:4).
Chính nhờ ngôn sứ, dân Chúa lấy
lại được “can đảm và nghe được sứ điệp cứu độ” (Fisichella 1995:794). Nói khác,
“có đức tin là nhờ nghe giảng mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm
10:17), trung tâm và nền tảng lời ngôn sứ. Một ngôn sứ nhát đảm không thể chu
toàn sứ mệnh đó. Làm chứng cho sự thật, bênh vực công lý, chiến đấu cho hòa bình
và sự sống nhân loại không phải là chuyện dễ. Nhưng đó lại là sứ mệnh đặc biệt
của một ngôn sứ. Chính vì thế ngôn sứ rất cần thiết cho nhân loại, nhưng lại là
một chướng ngại cho những nhà lãnh đạo tắc trách. Đức Giêsu đã trở thành đối
thủ nguy hiểm cho những nhà lãnh đạo Do thái vì “danh tiếng Người đồn ra mọi
nơi” (Mc 1:28), thu hút hết quần chúng (c.Mc 2:13) và đe dọa quyền lợi của họ.
Dù bị đe dọa, Đức Giêsu vẫn can đảm vạch rõ những dấu chỉ về tình yêu Thiên
Chúa muốn cứu độ nhân loại một cách mãnh liệt.
Ngôn sứ hôm nay không thể đi con
đường nào khác. Họ phải “chuẩn bị cho dân Chúa đọc dấu chỉ thời đại, tạo nên
những dấu chỉ mới, làm cho sứ điệp cứu độ thành hiện thực đáp ứng những nhu cầu
thời đại”(Fisichella 1995:796). Không đọc được những dấu chỉ đó, không thể tìm
thấy ý nghĩa cuộc đời và niềm tin chúng ta. Giữa những thách đố hôm nay, không
có lời ngôn sứ, Kitô hữu sẽ chao đảo và không tìm được lối thoát. Họ cần lời
ngôn sứ như một chiếc phao cho niềm hi vọng cuối cùng giữa biển đời mịt mùng.
Nhìn lên Thánh giá của Đức Giêsu Nazareth là dấu chỉ tiên tri rõ hơn mọi
dấu chỉ, người Kitô hữu thấy đươc dung nhan của Đấng chịu đóng đinh như phản
ánh vinh quang Thiên Chúa (x.Fisichella 1995:797), và tìm được sức mạnh vượt
qua mọi thử thách và đau khổ hiện tại. Do đó sứ ngôn trở thành lời tạo niềm
phấn khởi, tin tưởng và hi vọng cho muôn dân.
Nhưng trên hết “các ngôn sứ hiện
diện như những dấu chỉ của một tình yêu tận hiến suốt đời” (Fisichella
1995:797), tình yêu làm nên tất cả, nhất là đã trả lại cho ta ý nghĩa và giá
trị cuộc sống nhờ cái chết và phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Lời Chúa trở thành
sức mạnh vạn năng, “tác nhân thúc đẩy chúng ta khám phá ý nghĩa cuộc sống,
nhưng đồng thời giúp chúng ta trách nhiệm về chính cuộc đời mình” (Fisichella
1995:797). Sứ mệnh rao giảng Lời Chúa đã biến ngôn sứ thành người hướng dẫn
lịch sử nhân loại “trong ánh sáng biến cố của Đức Giêsu Nazareth và trong niềm
mong đợi Chúa đến trong vinh quang”(Fisichella 1995:797). Hôm nay Chúa vẫn hiện
diện trong những biến cố nhân loại. Nước Thiên Chúa đang thành hình qua những
sự việc có thể xảy ra, những thách đố, và những nguy cơ trong cuộc sống hằng
ngày (x.Bergant 1993: 783). Tất cả đều xoay quanh biến cố Đức Giêsu chết và
sống lại để cứu độ muôn dân. Ngôn sứ phải khai quật được ý nghĩa đó mới có thể
hướng dẫn nhân loại hoàn thành lịch sử.
Lịch sử đang xoay vần về Á Châu.
Các ngôn sứ đang ráo riết hoạt động để khai phá một con đường mới cho Đức Giêsu
đi vào lòng người và xã hội. Những bí mật về chương trình cứu độ của
Thiên Chúa đang dần dần được mạc khải qua nếp sống văn hóa và tôn giáo của dân
tộc. Người tín hữu cần được sứ ngôn huấn luyện để đọc được mạc khải đó. Vì
chính ý thức “Đức Giêsu như sứ ngôn của Chúa Cha tóm kết ý nghĩa toàn thể Tân
Ước” (Fisichella 1995:796).
Hãy trở thành vị ngôn sứ chính danh
(Mc 1, 21-28)
Fr. Jude Siciliano, OP
Thưa quí vị, Chủ đề tuần này về
các ngôn sứ được thánh hiến để phục vụ Thiên Chúa và cộng đoàn. Ông Môsê, Chúa
Giêsu và các ngôn sứ chân thực khác trong Cựu ước đã chu toàn nhiệm vụ đó một
cách anh hùng. Tuy nhiên cũng không hiếm các ngôn sứ giả, dụ dỗ cộng đoàn đi
theo con đường sa đoạ. Xin suy nghĩ cặn kẻ đề tài này, ngõ hầu tự xét mình cho
nghiêm chỉnh, chúng ta thuộc thành phần ngốn sứ thật hay giả hiệu?
Chắc hẳn quí vị còn nhớ câu hỏi
của những kẻ được sai đến với ông Gio-an tẩy giả: “Ông có phải là một ngôn sứ
không?” (Ga 1, 21). Suy nghĩ kỹ chúng ta thấy rằng sâu trong tâm khảm dân
Israel, nhất là những người có học thức như tư tế, thượng tế, ký lục, kinh sư
vẫn mong đợi vị ngôn sứ mà ông Môsê đã hứa: “Khi ấy ông Môsê nói với dân Israel
rằng: từ giữa anh em, trong số các anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ
cho xuất hiện một vị ngôn sứ như tôi để giúp anh em. Anh em hãy nghe vị ấy” (
Đnl 18, 15).
Trong bữa tiệc trên núi Chúa
Giêsu nuôi 5 ngàn người đàn ông bằng 5 chiếc bánh và hai con cá. Câu hỏi lại
được nêu lên: “Chắc chắn ông này là một ngôn sứ phải đến trong thế gian.” Như
vậy não trạng dân Do thái là não trạng chờ đợi, nhất là trong những hoàn cảnh
tối tăm như thời đại Chúa Giêsu. Điều đáng lưu ý họ chờ đợi không phải bất cứ
vị ngôn sứ nào, mà là vị ngôn sứ đã được xác định rõ ràng trong lời hứa của
Môsê. Hồi ấy người ta đã đặt tên cho ông là Messiah (Đấng Thiên sai). Dĩ nhiên
bây giờ nhìn lại chúng ta thấy Chúa Giêsu còn hơn một ngôn sứ, việc mong chờ
của Israel thật hữu lý. Chúng ta nên noi gương trong đời sống thiêng liêng của
mình.
Ông Môsê đã gieo niềm mong đợi
trong xã hội Do thái. Chúa Giêsu còn hứa nhiều hơn nữa cho hội thánh. Tại sao
chúng ta thờ ơ? Xin suy nghĩ lại kẻo thua xa dân tộc Do thái! Nhất là quý vị
giảng thuyết phải luôn thắp sáng ngọn đèn hy vọng chứ đừng phí phạm thời giờ
nói hưu nói vượn. Chẳng nhà giảng thuyết nào tài giỏi đến độ không cần học hành
và suy gẫm. Nhưng chúng ta ngày nay lại sao lãng công việc này quá, thì làm thế
nào có đựơc bài giảng chất lượng ?
Ông Môsê là ngôn sứ của Thiên
Chúa. Ông được Thiên Chúa trực tiếp dạy dỗ trên núi Sinai. Ông can đảm đứng lên
giải phóng dân tộc mình và dẫn dắt họ qua sa mạc bốn mươi năm trở về đất hứa.
Qua lời nói và hành động của ông, Thiên Chúa đã dẫn dắt, kiện cường và khích lệ
tuyển dân vượt muôn vàn khó khăn để sống còn, kể cả thể lý và tinh thần trong
sa mạc khô cằn. Không có Môsê thì làm sao dân Israel còn sống mà về đất hứa ?
Không có Chúa Giêsu làm sao Hội thánh đạt đến mục tiêu ? Cho nên Môsê đã cam
đoan với dân chúng về ngôn sứ mới “như tôi”để dẫn dắt dân. Thiên Chúa đã không
bỏ rơi tuyển dân ? Thử hỏi Ngài từ bỏ chúng ta ngày nay làm sao được? Chúa
Giêsu là người ứng nghiệm của lời hứa đó. Chúng ta có bổn phận rao giảng và làm
chứng cho vị ngôn sứ vĩ đại này. Do đó, chúng ta phải vâng lời Môsê: “Anh em
hãy nghe vị ấy”. Nếu không, thì là tín hữu giả hiệu, tông đồ cho “cha kẻ nói
dối”.
Môsê đã gieo trồng trong dân
Israel hy vọng hằng nhiều trăm năm trước Thiên Chúa sẽ ban cho họ một Đấng giải
phóng giống như ông. Đấng ấy sẽ cứu gỡ họ khỏi tay quân thù bề ngoài cũng như
tâm linh. Điều trớ trêu hôm nay là Marcô đặt lời công bố đó vào miệng một người
bị thần ô uế ám: “Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng thánh của Thiên Chúa”.
Lúc sau khi chúa Giêsu đuổi thần ô uế ra khỏi người đàn ông, thì dân chúng đã
bày tỏ niềm hy vọng vào một vị ngôn sứ của tuyển dân: “Điều chi vậy ? Lời giảng
có uy quyền !” Các thầy dạy trong dân chúng không được như vậy, vì họ nói như
con vẹt từ sách thánh, không có tác dụng nào. Còn Chúa Giêsu với thẩm quyền
riêng của mình. Ngài đưa ra những chân lý, những lý lẽ làm cac thính giả phải
“ngạc nhiên”.
Xin nhớ chúng ta đang khởi sự đọc
Phúc âm theo thánh Marcô cho năm phụng vụ B. Chúa Giêsu vào các hội đường Do
thái để giảng dạy. Các phép lạ chỉ kèm theo lời giảng dạy, minh chứng cho lời
giảng dạy, chứ không phải là điểm chính yếu. Nói cách khác củng cố, nhấn mạnh
cho nội dung giảng dạy của Ngài và đã làm cho các thính giả sửng sốt. Chắc chắn
lời rao giảng của Chúa không phải ru ngủ mà làm tỉnh thức về bổn phận tôn giáo.
Điều mà thiên hạ chẳng muốn nghe nhưng vẫn thích nghe.
Trong lịch sử Israel có rất nhiều
ngôn sứ “ghê gớm”. Ông Môsê chỉ là một trường hợp Thiên Chúa với tới dân Ngài.
Nhưng dân Do thái cũng nổi tiếng giết các ngôn sứ. Giống như ngày nay chúng ta
giết hại các kẻ can đảm nói lên sự thật và lẽ phải. Xin đừng quá kiêu ngạo mà
chối bỏ tình hình. Chúng ta ưa thích giết hại các ngôn sứ chân thật để lắng
nghe ngôn sứ giả hiệu, tương tự như dân Do thái thuở xưa. Lịch sử Cựu ước đầy
dẫy những trường hợp như vậy. Chúa Giêsu cũng nhắc đến khi vào thành thánh:
“Giêrusalem ! Giêrusalem ! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai
đến cùng ngươi.” (Mt 23,37).
Nhưng điều nâng đỡ niềm tin của
người Do thái là hy vọng vào lời hứa của Thiên Chúa qua Môsê, ban cho dân tộc
một ngôn sứ giống như tôi. “Ngôn sứ nẩy sinh từ giữa anh em, để giúp đỡ anh em.
Anh em sẽ nghe vị ấy.” Chính xác Phúc âm hôm nay bắt đầu như thế đấy, tại
Caphanaum nơi Đức Giêsu sinh sống và giảng dạy. Ngài là người Do thái, do cha
mẹ Do thái sinh ra đúng như Môsê tiên báo. Đồng chủng tộc với người Do thái.
Thần ô uế trong người đàn ông đã xưng tụng: “Ông Giêsu, người Na-za-reth,
chuyện chúng tôi có can dự gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi.” Theo
thói tục phụng vụ Do thái, ở Hội đường, một thành viên nam hay một vị khách lạ
nào đó được mời để ban lời giáo huấn. Nếu một ký lục làm chuyện này thì họ
thường dựa vào các chuyên viên giải thích lề luật mà nói. Câu truyện giống như
chúng ta hôm nay. Nhưng Chúa Giêsu không làm thế, mà dựa vào thẩm quyền của
Ngài, thẩm quyền của lẽ phải và sự thật. Vịêc Ngài xua trừ tà thần ra khỏi
người đàn ông chứng minh thầm quyền ấy. Đó là mục tiêu của phép lạ, chứ không
phải khoe khoang danh tiếng.
Biến cố trừ quỉ làm ngạc nhiên
cộng đồng và khiến buổi Phụng vụ mất hết vẻ trang trọng. Chúng ta có thể tưởng
tượng sự lộn xộn lớn trong hội đường. Thần ô uế nhận ra Ngài là Đấng thánh,
trong khi thính giả nghĩ Ngài là kẻ mất trí. Tà thần ăn nói trong ngối thứ nhất
số nhiều: Ông đến tiêu diệt chúng tôi. Như vậy, dù thính giả không nhận ra,
nhưng sự thực Ngài vốn là tôn sư có uy quyền. Chúa nhật tuần trước, chúng ta đã
được nghe Chúa Giêsu gọi và chọn bốn tông đồ Simon, Andre, Gia-cô-bê và Gio-an,
chẳng bao lâu nữa, Ngài sẽ gọi Lêvi, tức Mattheo. Hẳn những người này cũng kinh
ngạc về thẩm quyền của Ngài và quyết chí đi theo. Họ đang học biết Chúa Giêsu
là ai và việc theo Ngài gồm những bổn phận nà? Riêng chúng ta thì có phúc hơn,
chúng ta biết Ngài và uy quyền của Ngài. Các phép lạ Ngài thực hiện làm cho
thiên hạ phải kêu lên ngỡ ngàng. Nhưng thực tế, kiến thức của chúng ta đã đủ
thấm thía để theo Chúa như các Tông đồ? Hay chỉ là hời hợt, có thể phản bội bất
cứ lúc nào? Vì bất cứ lợi lộc nào nhỏ nhoi đến mấy?
Nói vậy không phải quá đáng mà
thực tế. Chúng ta hàng ngày bị các thần ô uế bao vây. Không có tinh thần theo
Chúa đích thật thì khó mà chống cự. Theo nghĩa vật chất thì các tiện nghi, các
sung sướng xác thịt chút chút chúng ta cũng đòi thoả mãn: thoả mãn cho đến tận
điểm. Tinh thần thì càng ghê gớm hơn nữa, cứ như Phúc âm hôm nay, nó xâm nhập
vào cả hội đường Do thái. Liệu các nơi thờ phượng của Giáo hội có tránh khỏi ?
Tôi thiết nghĩ không đâu. Thời đại khủng bố này, tới đâu cũng bị kiểm soát, nào
là quần áo, túi sách, hành lý. Nhưng chẳng ai bị làm khó dễ khi tiến vào Thánh
đường, vì nghĩ rằng họ đều là những tâm hồn ngay thẳng, thánh thiện.
Nhưng thực tế không phải vậy.
Chúng ta bị nhiều tà thần đè bẹp, thần ích kỷ, thần tham lam, thần kiêu căng,
thần dâm ô, thần âm mưu lừa đảo vân vân. Chúng ta cố gắng để sống cuộc đời tốt
lành, thì những thần đó dụ dỗ làm những cuộc thoả hiệp, rồi dần dần đưa đến sa
đoạ. Nhiều hình thức lôi kéo rất tinh vi, ngay cả đương sự cũng không nhận ra.
Nào là làm việc có hiệu quả, nào là giao lưu hiệp thông văn hoá, kiến thức.
Thường khi dẫn đến quá mức mà đi vào con đường tội lỗi không kiểm soát được.
Tôi nghĩ đến những cuộc bê bối nổi tiếng đã được đưa lên báo chí, phương tiện
truyền thông. Còn những vụ kín đáo thì vô số không kể xiết.
Tóm lại có quá nhiều tiếng nói
của tà thần trên thế giới hôm nay. Nó bắt nguồn từ Satan, thế gian và xác thịt.
Dục vọng đồi bại núp dưới nhiều hình thức, đòi được thoả mãn. Không hy sinh,
hãm mình, cầu nguyện, khổ chế đố ai cưỡng lại được, kể cả linh mục, tu sĩ.
Chúng ta giống như những người ngồi trong hội đường Do thái, có lẽ còn hơn.
Chúng ta cần một ngôn sứ như Môsê dẫn ra khỏi kiếp nô lệ lầm than của dục vọng,
tội lỗi. Ngôn sứ đó chính là Đức Giêsu thành Nazareth. Đấng rao giảng chân lý
của Thiên Chúa với thẩm quyền, không như những kinh sư nói vẹt. Cứ như Phúc âm,
thì thẩm quyền của Chúa Giêsu chính là sự thánh thiện của Ngài. “Tôi biết ông
là ai? Là Đấng thánh của Thiên Chúa.” Vậy theo luận lý đó, thẩm quyền nơi các
nhà thuyết giảng cũng phát xuất từ đời sống thánh thiện. Kinh nghiệm phổ thông
trong lịch sử Giáo hội chứng minh chân lý ấy. Các vị thánh bao giờ giảng dạy
cũng có uy quyền. An ở bê tha mà giảng dạy, thì hiệu quả thế nào được? Chẳng
qua cũng chỉ vẹt như Pharisêu mà thôi.
Chúng ta không những được chứng
kiến các dấu lạ Chúa Giêsu thực hiện để củng cố lời Ngài giảng dậy. Mà còn được tiếp nhận Ngài vào
cuộc sống của mình và hướng dẫn lời nói, hành động theo những mạc khải của
Ngài. Thiên Chúa đã giữ lời hứa qua Môsê và ban cho chúng ta Đấng rao giảng với
uy quyền để dẫn dắt và dậy dỗ chúng ta. Hơn nữa, lời rao giảng của Chúa, khi
được chúng ta chấp nhận với đức tin chân thật (chứ không phải giả dối) có khả
năng khích lệ và giúp đỡ chúng ta xa lánh những tiếng gọi của thế gian, luôn
luôn chát chúa và lôi cuốn đi theo con đường sa đoạ.
Nghĩa là chúng ta sẽ nên thánh và
sống cuộc đời của Ngài. Thánh Marcô mô tả Chúa Giêsu như một tôn sư giảng dậy
để lật đổ những gì giả dối của thế giới. Ngài không những dậy dỗ bằng lời nói, nhưng
cụ thể hoá nội dung các lời giảng dậy bằng cuộc sống và cái chết, đau khổ và
lên trời, mang hy vọng cho những kẻ theo Ngài. Chúng ta được kêu gọi cộng tác
vào các công việc của Ngài như Phêrô, Gio-an, Gia-cô-bê, Andrê, Lêvi, Phaolô …
Tất cả đã rao giảng có hiệu quả nhờ đời sống thánh thiện. Chẳng lẽ chúng ta tài
giỏi hơn các đấng với cuộc đời dung dưỡng xác thịt ? Kiếm tìm đủ mọi tiện nghi
thế gian ? Khi Chúa Giêsu cất tiếng nói, tà thần rút lui, kêu la thảm thiết.
Chúng ta cũng có thể làm được như vậy, thậm chí còn hơn, như có lần Chúa phán.
Thánh Marcô thỉnh thoảng cho thấy
những hiệu quả ngoại mục khi Chúa rao giảng. Nhưng trớ trêu thay, chính các
thần ô uế lại kêu lên căn cước của Chúa: “Ông là Đấng thánh của Thiên Chúa.” Dĩ
nhiên lời hô hoán đó khác với những điều chúng ta ca tụng trong Bí tích Thánh
thể. Chúng ta cao rao Danh Thánh Chúa tự thâm tâm chứ không chỉ ngoài môi
miệng. Đối với chúng ta khi tung hô Ngài là Đấng thánh của Thiên Chúa, chúng ta
công nhận chỉ có Ngài là Đức Chúa, Đấng cứu chuộc, giải phóng và ban cho sức
sống mới như Môsê đã hứa.
Uy Quyền Chúa Triệt Hạ Sự Dữ
Mc 1, 21-28
Lm. Jude Siciliano, op (Chuyển
ngữ FX Trọng Yên, OP)
Anh chị em thân mến,
Phúc âm thánh Mác-cô tiếp
tục diễn tiến. Chúng ta đọc chỉ chương thứ nhất mà đã có 2 chuyện
về việc Chúa Giêsu giảng dạy: Chúa Giêsu dạy trong đền thờ và Ngài
trừ quỷ. Khi chúng ta đọc mở đầu và kết thúc phép trừ quỷ có vẻ
bề thế và làm chúng ta để ý đến, nhưng đó khong phải là cốt chuyện
chính. Trái lại, thánh Mác-cô viết đến việc Chúa Giêsu giảng dạy.
Phép trừ quỷ chỉ để nhấn mạnh việc Ngài giảng dạy mà thôi. Dân
chúng cũng thấy như vậy. "Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy
của Chúa Giêsu, vì Người đã dạy như là "một đấng có thẩm quyền chứ
không như các kinh sư".
Trong sách Đệ nhị Luật, Môsê
hứa: "Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi
để giúp chúng, các ngươi sẽ nghe ngài". Đức Chúa đã gởi ngôn sứ đến
dân Ngài, để làm chứng sự hiện diện của Ngài. Các ngôn sứ đến
trước Chúa Giêsu đã nói nhân danh Thiên Chúa "Đây là lời của Thiên
Chúa...". Nhưng Chúa Giêsu lại không nói như các ngôn sứ. Ngài nói
từ uy quyền của Ngài: "Tôi bảo thật anh em...". Sau khi Chúa
Giêsu sống lại, các môn đệ mới hiểu rằng, Chúa Giêsu còn lớn hơn Môsê
hay bất cứ một ngôn sứ nào. Ngài không phải chỉ là tiếng nói của
Thiên Chúa, mà chính Ngài là sự hiện diện của Đấng Tối Cao ở giữa
chúng ta. Và hơn nữa, sự hiện diện uy quyền của Ngài không rời khỏi
các môn đệ ngay sau khi Ngài đã chết. Sự sống lại của Ngài đã mở
mắt các môn đệ để nhận ra Ngài là ai, ở giữa các ông. Các ông vẫn nhớ
những lời Ngài nói với thẩm quyền của Ngài, trong những việc Ngài
làm, đồng thời các ông đặt hết niềm tin cậy vào sự hiện diện
của Ngài nơi các ông trong khi đi rao giảng những lời dạy của
Ngài.
Các kinh sư khi giảng dạy,
luôn tuân theo những lời dạy của các thầy dạy hay các lời người khác
phê phán. Các kinh sư không thể nào tự xưng là có thẩm quyền về các
lời họ dạy. Vì thế, thiên hạ sửng sốt về lời giảng của Chúa Giêsu,
vì Ngài không đưa vào lời dạy của ai cả. Ngài nói "như một
người có thẩm quyền dạy ". Làm sao thiên hạ biết được là Chúa
Giêsu tự có thẩm quyền dạy? Để mọi người biết được điều này, Ngài
trừ quỷ. Nhờ vậy, thiên hạ tin ngay vào thẩm quyền của lời Ngài dạy
dỗ.
Trước đó, Gioan tiền hô có
hứa "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi..."(1:7) Và hôm
nay, Phúc âm thánh Mác-cô trình bày: Lời hứa của Gioan Tiền Hô đã
được ứng nghiệm. Chúa Giêsu đến với thế gian đầy quyền lực của Satan
và sự dữ, như người bị quỷ ám trong đền thánh, và loài người không
có sức chống đỡ. Sự dữ đối nghịch với Thiên Chúa. Vì thế chúng ta
cần đến một "Đấng quyền thế" để đè bẹp sức mạnh của sự
dữ. Chúa Giêsu bước vào đền thờ và thánh Mác-cô viết là Chúa Giêsu
thi hành sứ vụ của Ngài: Ngài khử trừ thần ô uế đã ngự trị trên
dân chúng và ngay cả các môn đệ, dưới nhiều hình thức, như khi Ngài
trách thánh Phêrô "Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy!.." (8:33). Chúa
Giêsu giải trừ tội lỗi, sự đau yếu, sự lừa dối, sự tham lam, và ngay
cả sức mạnh của sự chết.
Dân chúng đã trông đợi rất
lâu, cầu mong Thiên Chúa sẽ đến cứu giúp họ. Và những lời giảng dạy
của Chúa Giêsu và các việc Ngài làm đã tỏ cho họ thấy là họ có
thể chống lại quyền lực của sự dữ. Việc trừ quỷ là việc chứng tỏ
rằng, Thiên Chúa có uy quyền thật sự. Chúa Giêsu cũng muốn đem những
người yếu đuối về với xã hội của họ, bằng hình ảnh cụ thể là
việc trừ quỷ. Một người có cung cách kỳ dị, được coi là bị quỷ
ám. Vì vậy, người đó không được cho vào đền thờ, do họ có thể làm
xáo trộn cộng đồng. Và Chúa Giêsu, bằng quyền lực của Ngài, đã đem
lại bình an, hoàn hảo mà quỷ dữ đã quấy rối. Chúa Giêsu đã đem lại
sự lành như Ngài đã rao giảng trong Chúa nhật vừa qua: "Thời kỳ đã
mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần".
Chúng ta hãy xem lại về uy
quyền của Chúa Giêsu trong những lời Ngài giảng dạy. Bây giờ Ngài đã
sống lại và đang ở giữa chúng ta, Ngài vẫn tiếp tục giảng dạy với
uy quyền trên sự dữ của Ngài. Tôi viết bài giảng này vào ngày lễ
ông Martin Luther King, và một ngày trước lễ nhậm chức của Tổng thống
da đen đầu tiên ở Mỹ. Chúng ta nghe lời nói đầy hy vọng của ông King,
nói với dân chúng cách đây hơn bốn mươi năm. Ông ta nói đến thời quá
khứ, nhưng cũng nói đến thời bây giờ và tương lai xã hội này nữa.
Ông ta cũng đưa vào quyền uy của Chúa Giêsu để thách đố xã hội này
dựa vào tính bình đẳng, bất bạo động, và tình thương yêu, ngay cả
đối với kẻ thù của mình. Đời sống của ông King khiến chúng ta thấy
uy quyền của lời Chúa Giêsu mạnh mẽ chừng nào, và những lời của
Chúa giúp chúng ta sống trong hiện tại, và trong những cuộc đấu tranh
chống tệ nạn làm băng hoại cộng đồng loài người, khiến xảy ra bao tranh
chấp chia rẽ.
Tại Montgomery, Alabama, ông
King đã nói: "Tôi biết anh em muốn hỏi tôi hôm nay: Phải đợi bao
lâu nữa? Tôi nói ngay với anh em là, ngay chiều hôm nay, dù có khó khăn
đi chăng nữa, cũng không bao lâu nữa, chân lý sẽ ngự trị ngày càng lớn
dần trên mặt đất
Bao lâu ? Không lâu đâu, vì
không có sự dối trá nào có thể tồn tại mãi được.
Bao lâu ? Không lâu đâu, vì
chúng ta gieo gì thì gặt nấy.
Bao lâu ? Không lâu đâu, vì
móng vòm đạo đức của thế giới còn dài, và nó luôn ngã mình vào
sự công chính.
Bao lâu ? Không lâu đâu, vì mắt
tôi đã trông thấy ánh hào quang của Thiên Chúa đang bừng lên.."
Chúng ta hãy nghe lời
ông King nói. Đây là dòng giống của một ngôn sứ thời hiện đại. Ông ta
nói với giọng hùng hồn đầy quyền uy như giọng của Đấng đang giảng
dạy trong đền thờ làm cho quỷ phải ra khỏi người bị nó nhập. Bằng
giọng hùng hồn, Ông King giúp dân chúng chiến đấu với sự kỳ thị chủng
tộc, với bạo lực và sự bất công, chính những lời nói đó vẫn còn
giúp chúng ta chiến đấu để khử trừ các quỷ dữ.
Thử hỏi ai có quyền lực trên
đời sống của chúng ta? Những lời nói và hành động của ai có thể
lay chuyển chúng ta trở về với đời sống công chính? Ai có thể làm
cho chúng ta có một nhãn quan khác để nhìn vào thế giới hiện tại,
giúp chúng ta thấy được sự lành và tránh xa sự dữ? Đối với các
Kitô hữu, lời của Chúa Giêsu có những quyền uy đó không?
Chúng ta tin tưởng vào lời
Chúa Giêsu, và chúng ta tin Ngài sẽ trung kiên với chúng ta trong khi
Ngài sai chúng ta đi rao giảng như ngôn sứ hiện đại, để làm chứng qua
lời nói và việc làm của chúng ta. Thật ra, chúng ta phải luôn nhìn
vào những điều Chúa Giêsu giảng dạy, để theo gương Ngài, để Ngài
giúp chúng ta chống lại sự dữ và tiến đến mục tiêu tốt lành như
thiên hạ đã nhận xét về Chúa Giêsu khi Ngài rao giảng trong đền thờ:
... Lời giảng dạy của Ngài có uy quyền thật.
Như Đấng Có Thẩm Quyền
Mc 1,21-28
G. Nguyễn Cao Luật, OP
Công bố một lời khác
Bài đọc Tin Mừng trong hai Chúa
nhật liên tiếp kể lại hoạt động của Ðức Giêsu tại Ca-phác-na-um, và cũng là bản
tóm tắt sứ vụ của Ðức Giêsu tại miền Ga-li-lê.
Cùng với các môn đệ đầu tiên, Ðức
Giêsu đã trải qua một ngày sa-bát tại Ca-phác-na-um : tại đây, Người bày tỏ uy
quyền siêu việt của Người về giáo huấn cũng như việc chữa lành những người bị
quỷ ám và các bệnh nhân. Ngay từ những ngày đầu của sứ vụ công khai, danh tiếng
của Ðức Giêsu đã vang dội ra khắp cả miền Ga-li-lê. Sau biến cố Phục Sinh, miền
Ga-li-lê sẽ trở thành điểm xuất phát cho việc loan báo Tin Mừng đi khắp thế
giới.
Hội đường
Lúc này Ðức Giêsu vào hội đường
và giảng dạy. Có ba từ ngữ xác định địa điểm và công việc : Ngày sa-bát, hội
đường, giảng dạy. Tất cả đều cho thấy một bối cảnh tôn giáo, theo đúng những
thói quen và quy định đã có từ xa xưa. Ðây là một khung cảnh giới hạn, quen
thuộc và Ðức Giêsu đã tham dự vào đó, không phải để phá huỷ nhưng để công bố
cho mọi người một lời khác.
Sự đổ vỡ, như đã thấy trong những
câu trước (xem Chúa nhật III thường niên), lúc này không chỉ xảy ra ở bình diện
bên ngoài, nhưng ở cuộc sống bên trong của con người.
Thẩm quyền
Sự rạn nứt đã diễn ra ngay trong
giáo huấn của Ðức Giêsu : Người giảng dạy như một Ðấng có thẩm quyền chứ không
như các kinh sư ! Ðang khi các kinh sư quan tâm trước hết đến việc giải thích
từng chữ của bản văn, dựa trên những lời giải thích họ đã học hỏi từ các thầy
dạy của họ, thì Ðức Giêsu tự diễn tả như một người biết rõ do đâu mình nói, và
Người không chỉ bằng lòng với việc lặp lại điều người ta đã chỉ cho Người.
Không dựa vào ai khác ngoài chính mình, Người tỏ ra là người tự do đối với Lề
Luật.
Người có được thẩm quyền không
phải do nhiệm vụ hay các tước hiệu : Người không hề có một bằng cấp nào. Ngược
lại, các kinh sư không có thẩm quyền nào khác ngoài y phục : họ không có mặt
trong những lời giảng dạy, họ chỉ đọc lại.
Còn Ðức Giêsu, Người dấn thân
trọn vẹn vào điều Người nói và nhận trách nhiệm về giáo huấn của mình.
Người đã giảng dạy với thẩm quyền
là như thế. Người Kitô hữu mở miệng để lặp lại hay là làm chứng ?
Hiểu biết của tên quỷ
Tên quỷ biết Ðức Giêsu là ai,
nhưng nó muốn đóng khung Ðức Giêsu vào tước hiệu nó gán cho Người. Hiểu biết
của nó có tính cách sở hữu : không hề có lối mở cho một cuộc gặp gỡ.
Nhận ra Ðức Giêsu, đó không phải
là để chiếm hữu Người. Trái lại, điều này đòi buộc một thái độ từ bỏ, hay nói
khác đi là thái độ sẵn sàng đón nhận, tâm tình sám hối. Lời của Ðức Giêsu giải
thoát người nghe khỏi thái độ chiếm hữu do một hiểu biết đóng kín nơi chính
mình.
Quyền mặc khải và giải phóng
Một người đang giảng dạy trong
hội đường, đám đông dân chúng thinh lặng lắng nghe. Bôỵng nhiên, một câu hỏi
bật lên và cả đám đông đều nhao nhao : "Ông là ai ? Uy quyền của ông trên
tâm hổn chúng tôi có phải là sắp tiêu diệt chúng tôi không ? Ông còn muốn lôi
kéo chúng tôi đến bao giờ nữa ? Ông muốn nói gì về những điều nghiêm trọng và
nguy hiểm như thế ? Ðiều gì sẽ xảy ra nếu chúng tôi nghe lời ông ?"
Con người không giống như những
người khác ấy giảng dạy điều gì mới để rổi được nhận là Ðấng có thẩm quyền.
Thật ra, nội dung của giáo huấn
không được nói rõ. Có thể nói rằng, nội dung chính vẫn là Lề Luật và lời rao
giảng của các ngôn sứ, tức là mặc khải của Thiên Chúa, thế nhưng được hiểu theo
một chiều kích mới, được giải thích theo những đường hướng khác hẳn với cách
nghĩ của thói quen xưa nay. Cho nên giáo huấn của Ðức Giêsu có đặc tính mới mẻ
không phải vì nội dung, nhưng vì phẩm chất.
Hơn nữa, Ðức Giêsu giảng dạy giáo
huấn với uy quyền ("Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng ... Còn Thầy,
Thầy bảo cho anh em biết ..." (x. Mt 5,21). Người tự xưng mình ở trên Lề
Luật, có quyền giải thích Lề Luật : "Con Người làm chủ luôn cả ngày
sa-bát" (Mc 2,28). Người tỏ ra mạnh hơn Lề Luật ! Lề Luật chỉ có thể xác
nhận và loại trừ, còn Ðức Giêsu tẩy sạch và cho gia nhập vào cộng đoàn. Quyền
bính Người thi thố là quyền năng giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô lệ,
kể cả tội lôỵi (Mc 2,10). Thành ra chính là một quyền năng thần linh biểu lộ
trong giáo huấn của Ðức Giêsu.
Cách Ðức Giêsu giảng dạy còn đặt
ra vấn đề thân thế của Người nữa. Dân làng Na-da-rét đã nói lên điều này : họ
kinh ngạc về nguổn gốc của Ðức Giêsu. Họ xầm xì với nhau : "Bởi đâu ông ta
được như thế ?" Ðức Giêsu không phải là một giáo sĩ ; đúng hơn, Người có
phong thái của một ngôn sứ tiếp xúc trực tiếp với Thiên Chúa, hoàn toàn thông
hiệp với Thiên Chúa. Người chính là Ðấng Thánh của Thiên Chúa, như tên quỷ đã
gọi, và nhận được từ Thiên Chúa nguổn lực tạo nên uy quyền : quyền mặc khải mầu
nhiệm Thiên Chúa và giải phóng nhân loại (x. N.Guillemette, Chú giải Phúc Âm
Chúa nhật Năm B).
Giáo huấn của Ðức Giêsu còn được
coi là mới mẻ vì tính hiệu quả đối với tà thần : Người nói một lời, quỷ phải
tuân hành.
Như thế, một uy quyền, không chỉ
là một giọng nói có uy, nhưng là điều đánh động tâm can, thu hút, thuyết phục,
làm hoán cải. Ðó là lời sự thật có khả năng chữa lành đổng thời xua đuỗi ác thần.
Nhìn nhận Ðức Giêsu là Ðấng có
thẩm quyền cũng đổng nghĩa với việc công nhận rằng điều Người loan báo có sức
làm cho con người được lớn lên, không phải do việc tuân hành cách cứng ngắc
theo một giáo huấn, nhưng là trong Thần Khí, Ðấng giải thoát con người khỏi mọi
tà thần. Chính vì muốn giải thoát con người khỏi những quan niệm cũ kỹ, khỏi
thứ an toàn dễ dãi mà Ðức Giêsu đã đến và nói với uy quyền.
Uy quyền là sứ mạng
Ôi Ðức Giêsu, Các môn đệ của Ngài
đã có lần phải bối rối : "Thầy còn để lòng trí chúng con phải thắc mắc đến
bao giờ ? Nếu Thầy là Ðấng Kitô, thì xin nói rõ cho chúng con biết" (x. Ga
10,24). Ðể trả lời, Ngài lại đặt một câu hỏi : "Còn anh em, anh em bảo
Thầy là ai ?" Người ta có cảm tưởng rằng Ngài được tác động do một ơn gọi
bí mật -có thể cũng đáng sợ-. Ngài đặt câu hỏi với các bạn hữu như thể Ngài chờ
đợi nơi họ một sự xác nhận : "Theo dư luận quần chúng, thì Thầy là ai
?" Và ông Phê-rô đã trả lời : "Thầy là Ðấng Kitô" (Mc 8,27-29).
Ngài vẫn ý thức mình là con bác
thợ mộc, nhưng đổng thời cũng là một người khác, có năng lực lạ lùng.
Dường như Ngài vẫn luôn bị thúc
đẩy bởi một sức mạnh thầm kín. Năng lực này, chính Ngài đã đảm nhận cách can
đảm : "Ai tiếp đón Thầy, là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy" (Mt 10,40).
Chính nhờ năng lực này, Ngài đã chữa lành các bệnh nhân và làm cho người chết
được chôỵi dậy. Chính năng lực này làm cho lời nói của Ngài có được uy quyền và
lòng can đảm làm cho các thính giả đang nghe Ngài phải ngạc nhiên, có khi bất
mãn nữa. Ngài đã chẳng qua một trường lớp nào, nhưng Ngài đã giải thích Sách
Thánh trong các hội đường và dân chúng đã gọi Ngài là Thầy. Ngài đã giảng dạy
như một Ðấng có thẩm quyền, vượt hẳn các kinh sư, và họ đã chất vấn Ngài :
"Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy ? hay ai đã cho ông quyền làm các
điều ấy ?" (Mc 11,28).
Nhưng Ngài đã tránh không trả
lời, bởi vì uy quyền của Ngài không có gì là chính thức, uy quyền ấy là một sứ
mạng riêng tư luôn thôi thúc, ám ảnh Ngài. Phần Ngài, Ngài cảm nhận được tầm
quan trọng của sứ mạng ấy. Ngài vốn là người hiền lành, hiền lành trong lòng,
nhưng khi để nói đến sứ mạng ấy, cung giọng của Ngài trở thành long trọng :
"Ở đây còn có người hơn cả Sa-lô-môn ... Ở đây còn có người hơn cả Giô-na
..." (theo Onimus)
Quyền năng trên ma quỷ
(Mc 1, 21-28)
Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Một hoàng tử kia rất đạo đức,
ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh thờ phượng Chúa. Xảy ra
là có một hôm ông ngủ quên, thấy vậy, tướng quỷ Sa-tan đến đánh thức ông. Khi
biết kẻ đánh thức mình là Sa-tan, hoàng tử tỏ dấu thắc mắc, ma quỷ nói với ông
: “Tôi là ai, điều đó không quan trọng, việc tôi đánh thức ngài là một điều
tốt, ngài thấy không, ai làm việc lành cũng là người tốt cả”. Hoàng tử đáp :
“Không bao giờ ma quỷ lại làm điều lành, vậy nhân danh Thiên Chúa, mi phải nói
rõ vì lý do nào mi đánh thức ta ? Bấy giờ ma quỷ buộc lòng phải nói thật : “Nếu
ngài ngủ quên không đọc kinh sáng khi thức dậy ngài sẽ hối hận, khiêm tốn và
sửa chữa để sống đạo tốt hơn, còn ngày nào cũng ra vẻ sốt sắng, ngài sẽ tự mãn,
sẽ kiêu ngạo, cho là mình đạo đức đủ rồi”. Nói xong nó biến mất, ma quỷ thật
tinh khôn và hiểm độc.
Ma quỷ không bao giờ làm điều
lành, vì bản chất của nó là gian dối, xảo quyệt, ngay từ đầu nó đã lừa đảo và
xúi giục ông bà nguyên tổ phạm tội chống lại Thiên Chúa, nó vẫn tiếp tục làm
như thế để lôi kéo người ta ra khỏi tình yêu Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới yêu
thương cứu vớt chúng ta, Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Kitô, Ngài đã đến trần
gian để yêu thương cứu chuộc loài người, Ngài là Đấng quyền năng chiến thắng ma
quỷ để giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ.
Bài Tin Mừng cho biết : thoạt
nhìn thấy Chúa Giêsu, thần ô uế đã thét lên : “Ông Giêsu Na-da-rét, chuyện
chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi
: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Tại sao ma quỷ lại phải thét lên ? vì
không thể có sự tương hợp giữa ô uế và thanh sạch, giữa tội lỗi và thánh thiện,
những điều đó quá quen thuộc để nói về ma quỷ và Thiên Chúa. Cho nên, khi Chúa
Giêsu đến, một kỷ nguyên mới được mở ra cho nhân loại, chấm dứt sự thống trị
của thần dữ và đồng thời giải thoát con người khỏi mọi xiềng xích nô lệ.
Là những người tin vào Chúa Kitô
và đón nhận Lời giải thoát, phải chăng câu hỏi đầu tiên mỗi người chúng ta phải
tự đặt ra cho mình là : chính bản thân tôi đã được giải thoát chưa ? Chúng ta
phải nói là chưa, vì vẫn còn biết bao thứ “quỷ ám”, biết bao thứ ngẫu tượng
đang ám ảnh chúng ta. Có những người đang bán nhân phẩm bằng những đồng tiền rẻ
mạt, có những người đang thú vật hóa chính mình bằng những hành vi đê tiện, có
những người đang tìm chiếm hữu tất cả, nhưng lại đánh mất chính mình.
Nói khác đi, lục soát lương tâm
cho kỹ, có lẽ ai trong chúng ta cũng phải thú nhận rằng mình là nô lệ của rất
nhiều ông chủ : có ông chủ là một ý thức hệ luôn trói buộc đôi cánh tư tưởng
chúng ta, có ông chủ là những định kiến đối với cuộc đời, xã hội, con người mà
chúng ta không bao giờ muốn từ bỏ, có ông chủ là thói quen xấu mà chúng ta tích
lũy như một pháo đài kiên cố không muốn rời bỏ, có ông chủ là thứ tôn giáo vụ
hình thức mà trong đó chúng ta cố gắng tô vẽ cho mình một bộ mặt đạo đức, nhưng
thực ra lại hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng của chân lý, của yêu thương và tự do
đích thực...
Đàng khác, ma quỷ thường khống
chế con người bằng cách pha trộn lòng tin thực sự với những tin kiêng dị đoan
dối trá : tin vào những ngôi sao, hành tinh vận chuyển, tin vào thẻ bài, cầu
cơ, bói toán. Tại sao lại tin vào những cái vô tri không đối tượng như thế ?
Càng văn minh người ta càng bị cám dỗ tin dị đoan, càng bị ma quỷ khống chế
trong lãnh vực này. Trên những tờ báo lớn của nhiều nước văn minh chúng ta thấy
dầy đặc những lá số tử vi, người ta dựa vào tử vi, phương hướng hành trình của
tinh tú để đoán định tương lai đời mình, có những người tin kiêng ngay cả từng
bước đi cho đến cuộc đời. Người nào làm ăn phát đạt thành công được coi là có
ngôi sao tốt, người nào gặp thất bại, đau khổ là sinh bởi ảnh hưởng của một
ngôi sao xấu.
Như thế là người ta đã làm nô lệ
cho những vì sao vô tri giác, chẳng có quyền hành gì trên mình. Khi người ta nô
lệ cho những cái vô tri như thế chính là người ta nô lệ cho ma quỷ núp sau đó.
Người ta có cảm tưởng rằng tin theo Chúa Giêsu là một điều tốt, là cần rồi, thế
nhưng Ngài không giải thoát được hết những nguy hại trong đời, nên cần tin vào
những cái vô tri đó để kiếm thêm hạnh phúc. Đó chính là một cám dỗ của vườn địa
đàng tái diễn để làm sao tách rời con cái Chúa ra khỏi lòng tin Ngài, ma quỷ
dùng cách đó trước khi làm chúng ta bỏ hẳn lòng tin, nghĩa là trước khi làm
chúng ta mất hẳn lòng tin thì hãy tạm pha trộn tin kiêng như thế đã, và đó là
bước đầu của mất đức tin. Chúng ta nên biết : Thiên Chúa là Đấng có quyền trên
cả hồn lẫn xác và cuộc đời chúng ta, Ngài là Đấng duy nhất chúng ta phải tin
thờ, còn những ai tin kiêng dối trá, dị đoan thì hãy nhớ một điều này “tin ma
ma nhát, tin quỷ quỷ làm”, sẽ mất cả chì lẫn chài, vì thế Giáo hội khuyên bảo
chúng ta hãy coi chừng trong lãnh vực này, nó lầy lội, người ta dễ bị sa lầy
trong đó.
Biết thân phận mình yếu đuối, bất
toàn, dễ sa ngã, chúng ta phải luôn tỉnh thức, đồng thời luôn cậy dựa vào quyền
năng của Chúa, vào ơn soi sáng của Ngài, để khám phá ra mưu mô hiểm độc của ma
quỷ và kiên quyết đánh bại chúng.
Và giả như có bị thua những cám
dỗ, chúng ta càng cần phải tin tưởng vào Chúa hơn, bởi vì Thiên Chúa là Đấng
cao cả vô cùng thì lòng nhân từ của Ngài cũng vô hạn, tội lỗi con người có
nhiều tới đâu, có nặng nề tới mức nào thì cũng như cát, như đá chìm sâu dưới
đáy đại dương của lòng nhân hậu thương xót ấy mà thôi. Không có tội lỗi nào mà
Thiên Chúa không tha thứ được, không có con người khốn khổ nào mà Thiên Chúa
không yêu thương..., chỉ cần chúng ta có lòng khiêm tốn, muốn được tha thứ,
muốn được yêu thương mà thôi.
Người đi đến đâu thì thi ân giáng phúc đến đấy
Mc 1,21-28
Phêrô Mai Viết Độ, OP
Thiên Chúa đầy lòng yêu thương
đối với hết mọi loài Chúa đã dựng nên: “Khi Chúa rộng mở tay ban là muôn sinh
vật muôn vàn thoả thuê.” (Tv 145,16). Xuyên suốt hành trình rao giảng Tin Mừng
của Chúa Giêsu, đi đến đâu Chúa cũng giảng dạy và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền
trong dân. Đó là bằng chứng nói lên tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con
người.
Hôm nay, Tin Mừng Thánh Máccô đã
thuật lại biến cố Chúa Giêsu đến thành Ca-phác-na-um, tại đây, Người đã khiến
cho dân chúng phải ngạc nhiên về lời giảng dạy và hành động trừ quỉ của mình.
Họ ngạc nhiên vì thấy Chúa chỉ là người dân bình thương, không có địa vị, không
phải là tư tế, luật sĩ, kinh sư… vậy mà Người giảng dạy “như một Đấng có uy
quyền”. Có lẽ dân chúng ngạc nhiên bởi từ trước tới nay người ta vẫn quen nghe
những kinh sư, biệt phái đứng trên toà cao để giảng dạy. Họ bảo người khác làm,
nhưng chính mình lại không buồn làm. Còn Đức Giêsu, lời giảng của Người đi đôi
với hành động. Sở dĩ dân chúng chăm chú lắng nghe lời rao giảng của Người là vì
họ đã được chứng kiến tận mắt các phép lạ Chúa đã làm.
Thật vậy, Chúa Kitô là Thiên
Chúa, Ngài xuống trần gian không phải để biểu dương quyền lực, mà để đem bình
an và ơn cứu độ cho con người. Sứ vụ này đã được tiên tri Isaia loan báo thuở
xưa rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi
loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam
cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho
người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” Suốt hành trình rao giảng
của Người ở trần gian là để hoàn trọn sứ vụ đó.
Thiên Chúa đã thi ân giáng phúc
bằng nhiều cách thức khác nhau, Người làm những việc lạ lùng sức con người
không thể tưởng tượng nổi: người mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người què đi
được… Không những thế, Chúa con ban Nước Trời cho người tội lỗi, nghèo hèn,
bệnh tật… Chúa muốn tất cả mọi người đều có một cuộc sống yên vui hạnh phúc và
bình an: “Thầy đến để anh em được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Mặc dù Chúa đã về trời, nhưng
Ngài vẫn đồng hành và ban phát những ơn lành cho chúng ta. Trong cuộc sống hằng
ngày, chúng ta có thể cảm nghiệm được điều đó. Chúa ban cho tất cả chúng ta có
sức khoẻ, công việc làm ăn… Chúa cũng gìn giữ và ban cho chúng ta cuộc sống
bình an để chúng ta được sống vui, sống hạnh phúc giữa cuộc đời đầy gian nan và
thử thách này. Tóm lại, trong những giây phút của cuộc đời, chúng ta đã lãnh
nhận biết bao ân phúc của Thiên Chúa. Từ của cải vật chất để nuôi sống thân
xác, đến những của ăn nuôi dưỡng tâm hồn.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa đã nói "Thầy sẽ ở với
các con mọi ngày cho đến tận thế". Chúa đã hứa và đã thực hiện lời hứa đó;
Chúa còn thực hiện một cách kì diệu biết bao: vì Chúa ở lại với chúng con không
những bằng biết bao ân sủng Chúa đổ tràn trên chúng con, mà Chúa còn ở với
chúng con qua bí tích Thánh Thể và trở nên của ăn nuôi dưỡng tâm hồn chúng con.
Xin đừng để chúng con xa lìa Chúa, nhưng luôn trung thành tuân giữ điều răn của
Chúa và sống mãi trong tình yêu Chúa. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét