VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 6 TN NĂM B
Tin
Mừng thánh Máccô 1,40-45
TIN MỪNG
40 Có
người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài
muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch."41 Người chạnh lòng thương giơ
tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi! "42 Lập tức, chứng
phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch.43 Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh
đi ngay,44 và bảo anh: "Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi
trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê
đã truyền, để làm chứng cho người ta biết."45 Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã
bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Người không thể công khai
vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng
từ khắp nơi kéo đến với Người.
40 A leper came to him (and kneeling down) begged him and said,
"If you wish, you can make me clean."
41 Moved with pity, he stretched out his hand, touched him, and
said to him, "I do will it. Be made clean."
42 The leprosy left him immediately, and he was made clean.
43 Then, warning him sternly, he dismissed him at once.
44 Then he said to him, "See that you tell no one anything,
but go, show yourself to the priest and offer for your cleansing what Moses
prescribed; that will be proof for them."
45 The man went away and began to publicize the whole matter. He
spread the report abroad so that it was impossible for Jesus to enter a town
openly. He remained outside in deserted places, and people kept coming to him
from everywhere.
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ
đề của hình này là gì?
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
* Bạn
hãy viết câu Tin Mừng Mc 1,41
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
II. TRẮC NGHIỆM
01. Ai đã đến gặp Đức Giêsu van
xin người chữa lành? (Mc 1,40)
a. Người
bị thần ô uế ám.
b. Người
mù.
c.
Người bị phong hủi.
d. Người
câm.
02. Thái độ của người bị phong hủi
khi gặp Đức Giêsu thế nào? (Mc 1,40)
a.
La to xin cứu vớt.
b.
Bái lạy Đức Giêsu.
c.
Quỳ xuống van xin.
d.
Khóc lóc.
03. Trước lời van xin của người bị phong hủi, Đức Giêsu có
tâm tình gì? (Mc 1,41)
a.
Vui mừng.
b.
Khó chịu.
c.
Chạnh lòng thương.
d.
Đau khổ.
04. Đức Giêsu chữa người bị phong hủi bằng cách này: (Mc
1,41)
a.
Người đụng tay vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi”.
b.
Anh hãy đi tắm 7 lần trong sông Giođan.
c.
Hãy đến hồ Silôác mà tắm.
d. Người thoa bùn lên người anh và bảo anh
đi tắm thì được sạch.
05. Khi được chữa lành, Đức Giêsu bảo anh ta phải đi trình
diện với ai? (Mc 1,44)
a.
Thượng Tế.
b.
Trưởng Hội Đường.
c.
Quan Tổng trấn.
d.
Tư tế.
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Ai đã chữa cho người bị phong
hủi khỏi bệnh?(x. Mc 1,40-45)
02. Khi người phong hủi được chữa
lành và tung tin ấy khắp nơi, Đức Giêsu không thể thế nào vào thành được? (Mc
1,45)
03. Khi được chữa lành, Đức Giêsu
bảo anh ta phải đi trình diện với ai? (Mc 1,44)
04. Đức Giêsu đã làm gì và đụng vào
anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!”? (Mc 1,41)
05. Đức Giêsu bảo người phong hủi
được chữa lành hãy đi trình diện tư tế để chứng minh điều gì? (Mc 1,44)
06. Khi không công khai vào thành
được, Đức Giêsu phải ở lại những nơi nào ngoài thành? (Mc 1,45)
07. Cách thế của người phong hủi
khi đến gặp Đức Giêsu van xin Ngài cứu chữa. (Mc 1,40)
08. Người đến gặp Đức Giêsu van xin được chữa lành mắc bệnh gì? (Mc 1,40)
Hàng dọc: Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂU
THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
"Tôi
muốn, anh sạch đi!"
Tin Mừng thánh Máccô 1,41
Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 6 TN NĂM B
Tin
Mừng thánh Máccô 1,40-45
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ
đề :
Chúa
Giêsu và người phong hủi.
* Bạn
hãy viết câu Tin Mừng Mc 1,41:
41 Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi
muốn, anh sạch đi! "
II. Lời giải đáp TRẮC NGHIỆM
01. c. Người bị phong hủi (Mc 1,40)
02. c. Quỳ xuống van xin (Mc 1,40)
03. c. Chạnh lòng thương (Mc 1,41)
04.
a. Người đụng tay vào anh và bảo: “Tôi
muốn, anh sạch đi” (Mc 1,41).
05. d. Tư tế (Mc 1,44)
III. Lời giải đáp Ô CHỮ
01. Đức Giêsu x. Mc 1,40-45)
02. Công khai (Mc 1,45)
03. Tư tế (Mc 1,44)
04. Giơ tay (Mc 1,41)
05. Được lành sạch (Mc 1,44)
06. Hoang vắng (Mc 1,45)
07. Quỳ xuống (Mc 1,40)
08. Phong hủi (Mc 1,40)
Hàng dọc: Chữa Lành
GB. NGUYỄN THÁI HÙNG
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 6 Thường Niên - Năm B
Lời Chúa: Lv 13,1-2.44-46; 1Cr 10,31 -
11,1; Mc 1,40-45
Tài liệu về Lời Chúa
***********************************************
Phong cùi
Bệnh cùi là một chứng bệnh hay
lây, và theo quan niệm của người Do Thái, dưới cái nhìn tôn giáo, thì bệnh cùi
là do tác động của một thứ thần ô uế. Người mắc bệnh cùi bị liệt vào hàng những
kẻ dưới quyền lực của ma quỷ và lẽ đương nhiên họ không được quyền chung đụng
với người trong sạch. Theo lề luật Do Thái, có cả những khoản quy định tình
trạng xã hội của những kẻ mắc phải chứng bệnh hiểm nghèo này. Họ bị tách biệt
khỏi cộng đồng loài người, cả về phương diện xã hội lẫn tôn giáo.
Đoạn Tin Mừng tuy ngắn ngủi nhưng
đầy chi tiết giúp chúng ta hiểu được tầm mức và ý nghĩa hành động của Chúa
Giêsu. Thực vậy chính người mắc bệnh phong cùi đã đi bước trước. Anh đến với
Chúa và van xin Ngài cho anh được lành sạch. Lời van xin bao gồm nhiều ý nghĩa.
Anh muốn Chúa Giêsu cho anh được lành và qua đó, cho anh trở thành người sạch
và được gia nhập cộng đồng xã hội.
Hành động của người mắc bệnh quả
là táo bạo. Anh đã liều lĩnh vượt ra khỏi những điều luật lệ quy định là phái
xa tránh người khác, thậm chí còn phải la to để người khác biết mà tránh. Anh
đến với Chúa Giêsu, để trình bày tình trạng của mình, cũng như ý muốn được chữa
lành. Hành động liều lĩnh này hẳn phải xuất phát từ lòng tin tưởng không những
ở quyền năng của Chúa Giêsu có thể chữa lành bệnh, mà nhất là ở lòng nhân từ
thương yêu của Ngài, muốn giải thoát người ta khỏi bệnh tật. Chắc là anh đã
từng được nghe thiên hạ nói về Ngài. Diễn tiến của sự việc cho thấy anh đã
không tin tưởng hão huyền. Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước thái độ và
lòng tin của anh. Và Ngài đã làm phép lạ để cứu chữa anh.
Nhìn vào hành động của Chúa
Giêsu, chúng ta thấy Ngài cũng đã không ngần ngại vi phạm điều lề luật quy định
vì Ngài đã giơ tay đặt trên người bệnh. Dĩ nhiên, không thể coi đoạn Tin Mừng
này như là một sự khuyến khích cho việc vi phạm lề luật, nhưng cách xử sự của
Chúa Giêsu cho chúng ta thấy còn có những cái quan trọng hơn cả việc tuân giữ
lề luật, hay nói cách khác, lề luật vì con người chứ không phải con người vì lề
luật. Bằng chứng là tiếp đó chúng ta lại thấy Chúa Giêsu căn dặn người được
lành hãy đi trình diện cùng trưởng tế, dâng của lễ theo luật Maisen. Một nghi
thức mà tất cả những người được khỏi bệnh cùi, vì lý do nào đều phải làm để
được công khai và chính thức tuyên bố là mình được khỏi, được sạch và do đó
được quyền vào lại trong cộng đồng xã hội.
Người mắc bệnh phong cùi là hình
ảnh tượng trưng cho tâm hồn tội lỗi, vì tội lỗi cũng chính là thứ phong cùi
thiêng liêng, làm cho tâm hồn chúng ta trở nên hôi thối và chết dần chết
mòn. Bời đó, với một lòng tin tưởng, chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu, để
được chữa lành, để được tha thứ, nhờ đó, chúng ta được liên kết với Thiên Chúa
và với anh em, sợi dây liên kết này vốn đã đứt đoạn do tội lỗi của chúng ta.
Tội lỗi còn hơn phong cùi nữa
Yvon Daigneau.
Mở đầu.
Sứ vụ của Chúa Giêsu nơi loài
người đã được khẳng định trong các trường hợp đơn giản và thông thường mà mọi
người đều hiểu được. Chúa Giêsu là Đấng cứu độ. Ngài không đến mang giải pháp
cho vô số vấn đề hàng ngày, nhưng để giải phóng loài người khỏi quyền lực của
tội lỗi và sự chết đang thống trị họ. Giai đoạn đời sống Chúa Giêsu mà chúng ta
đọc trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ cách mới mẻ và
thời sự về sứ vụ của Ngài đối với chúng ta.
Bệnh tật.
Chúng ta thất vọng và chua xót
khi thuốc của chúng ta uống không đạt hiệu quả. Ai mà không tìm cách chống lại
một cơn nhức đầu sổ mũi bằng những liều thuốc thần được quảng cáo khắp nơi, và
cuối cùng cũng phải nhượng bộ trước sức tấn công của bệnh cúm. Vào thời Chúa
Giêsu, người ta hầu như không có cách nào chống lại bệnh tật cả và nó cũng
hoành hành như ngày nay. Nơi người ngoại giáo, người ta thường mặc nhiên gán
cho bệnh tật sự thù ghét của những quyền lực của thần dữ, cho sự trừng phạt của
Thiên Chúa vì tội lỗi, ngay cả những tội lỗi mà người ta không hề biết tới. Tại
Israel, bệnh tồi tệ nhất trong các bệnh là bệnh phong cùi. Đôi khi người ta có
thể lành được nhưng điều ấy có nghĩa là Chúa đã tha tội. Thường thường, phải để
cho cơn bệnh tăng dần theo diễn tiến ghê rợn của nó thôi.
Người phong cùi đến với Chúa
Giêsu xin được tẩy sạch. Anh ta xin một điều lớn hơn là được hồi phục trong
thân xác. Anh ta khẩn nài Chúa Giêsu tẩy sạch tâm hồn anh khỏi những tội lỗi đã
gây cho anh nỗi khốn khổ này. Một khi được tẩy sạch trong lòng, thân xác anh sẽ
được tái sinh.
Thái độ của Chúa Giêsu.
Không ai sẽ ngạc nhiên về thái độ
của Chúa Giêsu cả. Trái lại người ta ngạc nhiên về những lời cảnh cáo nghiêm
khắc của Ngài. Chữa lành người bệnh chẳng đủ rồi ư? Tại sao còn bắt anh phải
giữ thinh lặng, một việc khó khăn như thế, trong lúc mọi người chung quanh đều
nhận thấy anh ta được chữa lành? Tại sao bắt anh ta phải làm một công việc
phiền toái, là đến cho một công chức của đền thờ kiểm tra việc chữa lành đã quá
hiển nhiên như thế.
Chúa Giêsu yêu cầu kẻ Ngài tẩy
sạch khỏi bệnh phong cùi làm một việc hoán cải nghiêm túc và rõ rệt. Sự thinh
lặng mà anh ta phải giữ về biến cố anh được chữa lành sẽ ngăn cản anh khỏi gán
cho mình công trạng của việc thanh tẩy này, hoặc dùng nó để thu hút sự chú ý
đến mình. Sự thinh lặng sẽ gìn giữ anh khỏi chơi trò anh hùng, điều này sẽ gây
ra kiêu ngạo và sinh tội nữa.
Còn việc anh ta phải làm tại đền
thờ sẽ ghi dấu sự kiện anh được tái nhập vào cộng đoàn, mà chỉ có thể thực hiện
một cách công khai thôi. Việc này cũng sẽ cho phép anh bắt đầu lại cuộc sống
trung thành với Chúa. Tuyên dương những kỳ công của Thiên Chúa mà thôi thì chưa
đủ, còn phải sống ngày này qua ngày nọ trong sự khiêm tốn trung thành với ý
Chúa nữa. Việc trình diện nơi đền thờ sẽ khai mào cho sự trung thành mới mẻ
này.
Người phong cùi.
Theo Tin Mừng, người phong cùi
không có vẻ hiểu rõ ý định của Chúa Giêsu về mình. Anh ta không thể giữ miệng
được, anh nói oang oang ra và mọi người đi tìm Chúa Giêsu, mỗi người đều hy
vọng sẽ nhận được phép lạ cho mình hoặc, ít nhất, là được chứng kiến những phép
lạ mà mình sẽ kể cho bà con lối xóm.
Anh chị em hãy ghi nhận rằng Chúa
Giêsu không gọi người ấy tới để nói với anh ta rằng Ngài rút lại việc chữa lành
và anh sẽ bị phong cùi như trước. Ngài để cho anh hưởng niềm vui và cuộc sống
mới, cho dù nó bắt đầu một cách mỏng dòn. Lòng thương xót của Chúa như thế đó,
Ngài vẫn trung thành bất chấp những sự vụng về, chậm tin và thất tín của những
kẻ đã được thương xót.
Kết luận.
Trong lòng mỗi người chúng ta có
một nguồn ô nhiễm lan đến sự sống mà phép rửa đã ban cho chúng ta. Đó là một sự
gắn bó keo sơn với tội lỗi, những tội mà chúng ta tái phạm hoài một cách vô ý
thức. Chúng ta cần được thanh tẩy triệt để, đó là công trình của lòng thương
xót. Chúng ta hãy đến xin Chúa Giêsu, Đấng thanh tẩy chúng ta.
Ai là người đồng thời với người phong cùi?
(Trích trong ‘Mở Ra
Những Kho Tàng’)
Căn bệnh cùi đã lây nhiễm rất
nhiều trong xã hội thời bấy giờ. Vào thời Chúa Giêsu căn bệnh này thì đáng sợ
nhất trong mọi thứ bệnh tật. Những khuôn mặt bị tàn phá của nạn nhân đã cưỡng
bách họ phải sống trong vùng hoang mạc xa cách gia đình và bạn bè, họ không còn
xứng đáng thờ lạy một cách công khai nữa.
Khi người phong cùi tiến đến gặp
Chúa Giêsu để tìm sự chữa lành, ông ta đã ra ngoài giới hạn của mình. Ông không
được phép rời khỏi chỗ lưu đày của mình để đến nơi dân chúng tụ họp lại. Ông là
một người đã bị xã hội ruồng bỏ. Đúng hơn khi yêu cầu sự giúp đỡ của Chúa
Giêsu, ông ta đã kêu lên: “Tôi bị ô uế, tôi bị ô uế” và như vậy là không ai dám đến
gần ông ta.
Đoạn Phúc Âm ngày hôm nay thì rất
đặc biệt, không những Chúa Giêsu tiếp đón người đàn ông đó; mà thật sự Ngài còn
đưa tay ra và đụng đến ông. Ngài không xua đuổi, khinh bỉ người đàn ông biến
dạng khốn khổ này. Và hơn thế nữa, Chúa Giêsu đã kêu xin một quyền lực cao hơn
của luật Lêvi là bất cứ ai đụng đến người hủi là người không thanh sạch và như
thế có nghĩa là người không xứng đáng làm việc thờ lạy. Chúa Giêsu đã ngấm ngầm
loại bỏ điều luật như vậy và Ngài tuyên bố đức Ái cao hơn tất cả các việc khác.
Ngài nói với người hủi hãy đi trình diện với tư tế ở đền thờ để vị tư tế tuyên
bố ông đã được sạch bệnh hủi và chấp nhận cho ông trở lại việc thờ phượng công
khai.
Ngài muốn thay đổi thái độ của
chúng ta hướng đến những người hủi và những người bị loại bỏ trong xã hội.
Chúng ta cần phải chấp nhận một thách đố từ Chúa Giêsu, không nhìn những người
hủi như là chưa bao giờ nhìn thấy, nhưng hãy nhìn những người đó với tất cả sự
quan tâm bởi họ đã bị những người cùng thời khinh miệt.
Căn bệnh đáng sợ nhất trong thời
đại của chúng ta là bệnh Siđa, một cách nào đó như là bệnh hủi trong thời đại
chúng ta bây giờ. Một số người nhanh chóng kết án bất cứ người nào lây nhiễm
HIV, làm như đó là một sự xuống cấp của luân lý, đi xa hơn nữa có thể nói Thiên
Chúa đã phạt họ, rằng họ phải chịu như vậy thì đáng lắm, Chúa Giêsu không hỏi
người cùi về đạo đức của ông. Người không làm một xét đoán nào về ông ta ngay
cả khi Ngài đọc được nỗi lòng của ông. Chúa Giêsu biết Cha của Người là Thiên
Chúa nhân từ và hay tha thứ và Chúa Giêsu đã đến để trợ giúp người phong hủi
này. Điều đó nói với chúng ta thái độ mà chúng ta phải trở thành.
Một số người bạn của chúng ta
muốn người ngoại quốc ra khỏi đất nước của mình. Thái độ đó của họ chính đáng
khi xem những người dân nhập cư như tội nhân, bởi vì họ hay xem thường và hay
phá luật. Giáo Hội không bào chữa cho bất kỳ hành động bất công hay thô bạo
nào, nhưng Giáo Hội vẫn lấy Chúa Giêsu làm gương mẫu đức ái thì cao hơn bất cứ
luật nào khác.
Một số người nhìn vẻ khinh miệt
trên những người lãnh tiền trợ cấp, họ là những bà mẹ không kết hôn, họ rất
nhanh chóng dè bỉu các phần từ khác trong nòi giống hoặc quốc gia có điều gì
hơn bản thân họ. Có ai lắng nghe Phúc Âm rồi lại khinh bỉ người khác không? Có
người nào theo Chúa Giêsu trong hành trình nhân từ và thương xót của Người để
rồi đối xử với người khác cách khinh bỉ không? Có người nào cầu nguyện bằng
kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng
con”, mà lại kết án người khác không?
Ngày nay ít người mắc bệnh hủi
nhưng lan tràn giữa chúng ta là căn bệnh oán ghét, tự cho mình là công chính và
loại bỏ những người bạn của mình, những người có lương tâm không thể có những
tinh thần đó, nó xa lạ với những người theo Chúa Giêsu.
Bệnh phong tâm hồn
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Thời xưa, bệnh phong là một bệnh
nan y, bị mọi người kinh tởm xa lánh. Trong đạo Do thái, người mắc bệnh phong
bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm
làng, nhưng bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong rừng núi hay trong sa
mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu cũng phải kêu to lên: “Ô uế, ô uế”,
cho mọi người biết mà xa tránh. Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là
ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh phong bị con như mắc tội rất nặng. Chẳng ai
dám đến gần người bệnh phong. Người bệnh như thế, không những bị những vết
thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong
tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua
chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà bị con như đã chết.
Nhưng chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống để chịu những nỗi đau đớn còn
hơn cả cái chết gặm nhấm, thiêu đốt.
Một lần nữa, Đức Giêsu lại vượt
qua những biên giới cấm kỵ khi dám đến gần người bệnh phong. Không những Người
đến gần mà còn đưa tay chạm vào thân mình bệnh nhân. Lòng thương yêu đã khiến
Đức Giêsu dám làm tất cả. Vì thương người bệnh, Đức Giêsu đã bất chấp nguy hiểm
bị lây nhiễm, đã bất chấp những điều bị coi là cấm kỵ của đạo Do Thái.
Khi chữa khỏi bệnh phong, Người
đã giải thoát người bệnh khỏi những đau đớn phần xác. Từ nay anh không còn bị
những vết thương hành hạ. Thân thể anh trở nên lành lặn. Da dẻ anh trở lại hồng
hào tươi tắn. Khuôn mặt anh rạng rỡ. Giọng nói anh thanh tao. Anh cũng là một
người như bao người khác.
Nhưng điều quan trọng hơn, đó là
khi chữa anh khỏi chứng bệnh nan y, Đức Giêsu đồng thời cũng giải phóng anh
khỏi những mặc cảm đè nặng tâm hồn anh bao năm tháng qua. Khi Đức Giêsu vuốt ve
thân thể bệnh tật của anh. Người đã vuốt ve tâm hồn anh. Trước kia anh cảm thấy
bị mọi người xa lánh. Nay anh cảm thấy qua Đức Giêsu mọi người gần gũi anh hơn
bao giờ. Trước kia anh cảm thấy bị khinh miệt. Nay anh cảm thấy được trân
trọng. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi. Nay, dưới bàn tay dịu hiền của Đức
Giêsu, anh cảm thấy được yêu thương vỗ về. Những vết thương sâu thẳm trong trái
tim anh đã liền da lành lặn. Đức Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh.
Muốn cho mọi người chấp nhận anh
tái hội nhập vào đời sống xã hội. Đức Giêsu bảo anh đi trình diện với thày cả
theo như luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nay
anh được bàn tay âu yếm ân cần của Đức Giêsu đón nhận anh trở lại xã hội loài
người. Qua vị thượng tế, anh được công khai đón nhận. Nhân phẩm anh được phục
hồi. Danh dự anh được tôn cao. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống giữa mọi
người, như mọi người.
Chúng ta ai cũng có những mặc cảm
đè nặng tâm hồn, những vết thương sâu kín, những niềm đau khôn nguôi, những nỗi
buồn hầu như không ai thông cảm được. Hãy noi gương người bệnh phong chạy đến
với Đức Giêsu. Người sẽ xóa đi những mặc cảm đè nặng hồn ta. Người sẽ chữa lành
những vết thương bao năm gặm nhấm trái tim ta. Người sẽ xoa dịu những nỗi đau
vò xé tâm tư. Người sẽ an ủi những nỗi buồn phủ kín hồn ta.
Phần ta, hãy biết noi gương bắt
chước Đức Giêsu, đừng loại trừ anh em mình ra khỏi đời sống xã hội. Hãy biết
đến với những anh em bị bỏ rơi. Hãy biết an ủi những anh em đang buồn khổ. Hãy
biết tránh cho anh em những mặc cảm nặng nề. Hãy hàn gắn những vết thương trong
tâm hồn anh em. Hãy tôn trọng danh dự và nhân phẩm của anh em. Hãy giúp cho anh
em mình được hòa nhập vào đời sống cộng đoàn, đời sống xã hội. Nước ta đang
quyết tâm thanh toán bệnh phong vào cuối năm nay. Xứ đạo ta cũng hãy quyết tâm
thanh toán bệnh phong trong tâm hồn. Hãy diệt trừ bệnh phong chia rẽ. Hãy tẩy
chay bệnh phong loại trừ. Hãy xóa đi bệnh phong phân biệt. Hãy phá tan bệnh
phong nghi kỵ. Hãy bài trừ bệnh phong kết án. Nếu ta thanh toán được bệnh phong
tâm hồn, thân thể xứ đạo ta sẽ liền da liền thịt, khuôn mặt xứ đạo ta sẽ hồng
hào, rạng rỡ vui tươi phản ảnh được khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.
Lạy Đức Giêsu, xin cứu độ chúng
con. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ
1- Cha Đa-miêng và Đức cha Cát-xe
đã sống với người phong và lây bệnh của họ. Có lần nào bạn đã tiếp xúc với
người bị bệnh hay bị bỏ rơi chưa? Bạn có phải trả giá về hành động này không?
2- Có bao giờ bạn đã là nạn nhân
bị người khác loại trừ chưa? Bạn cảm thấy thế nào? Bạn rút ra được bài học gì
từ kinh nghiệm đó?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về sự
được Chúa an ủi, được Chúa cứu chữa, được Chúa tha thứ bao giờ chưa?
4- Bệnh phong tâm hồn là gì?
Muốn và có thể
(Trích trong ‘Manna’
- Lm Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Mẹ Têrêxa lập quỹ giúp người
phong ở Calcutta. Những thùng quyên tiền của Mẹ mang dòng chữ: "Hãy chạm
đến một người phong bằng lòng trắc ẩn của bạn".
Chạm đến người phong là điều xưa
nay ai cũng sợ. Theo luật Cựu Ước, người phong phải mặc rách, xõa tóc, che râu.
Đi đâu người ấy cũng phải la to: "Ô uế! ô uế!" (Lv 13,45-46). Bị cách
ly với mọi người, bị coi như mắc trọng tội, đau đớn cả xác lẫn hồn, người phong
sống mà như chết.
Người phong trong bài Tin Mừng
hôm nay khá đặc biệt. Anh tự ý đến gặp Đức Giêsu và quỳ xuống trước mặt Ngài.
Lời van xin của anh thật là một lời xin mẫu mực. "Nếu Ngài muốn, Ngài có
thể làm cho tôi được sạch".
Nếu Ngài muốn: anh mời gọi lòng
thương xót của Ngài. Anh để cho Ngài tự do chữa hay không tùy ý. Dù rất muốn
khỏi bệnh, nhưng anh lại phó thác số phận mình cho ý Ngài muốn. Ngài có thể:
anh tin tưởng vào quyền năng của Ngài. Anh không nói như người cha của đứa con
bị động kinh: "Nếu Thầy có thể làm được gì..." (Mc 9,22).
Đối với anh, chắc chắn Ngài có
thể chữa anh lành bệnh. Chỉ cần Ngài muốn là đủ rồi. Chính thái độ tin tưởng,
đơn sơ, phó thác của anh đã đụng rất mạnh đến chỗ sâu nhất trong lòng Đức
Giêsu.
Không cưỡng lại được sự tin cậy
đó, Ngài nói: "Tôi muốn." Phép lạ phát sinh từ lòng tin của người
phong và từ ý muốn đầy quyền năng của Đức Giêsu.
Nhưng Ngài không chỉ muốn, mà còn
đụng vào anh. Ngài không kinh tởm, không sợ lây, không sợ bị ô uế. Bàn tay Ngài
đụng vào da thịt anh với các vết thương. Ngài không bị ô uế, nhưng Ngài làm cho
anh hết ô uế. Chính lòng thương đã khiến Ngài mạnh dạn đụng vào anh, như chính
anh đã mạnh dạn đến với Ngài bằng lòng tin.
Đức Giêsu vừa tự do với Lề Luật,
vừa lệ thuộc Lề Luật. Ngài bảo anh đi trình diện với tư tế và dâng của lễ.
Chúng ta cần nếm niềm vui của
người phong được lành.
Anh hạnh phúc vì được sạch, được
làm người bình thường, được chung sống với cộng đoàn, được hiệp thông với Thiên
Chúa. Anh lấy lại phẩm giá, ra khỏi những mặc cảm. Niềm vui quá lớn khiến anh
đi loan báo khắp nơi. Người phong sau khi được khỏi đã có thể vào thành. Còn
Đức Giêsu lại phải ở ngoài thành, nơi hoang vắng.
Từ khi ông Hansen tìm ra vi trùng
bệnh phong năm 1871, người phong đã có được niềm hy vọng chữa lành. Họ không
còn bị trục xuất ra đảo xa hay bị bách hại. Nhưng để cho họ được sống như mọi
người vẫn là điều khó.
Cũng có những người bị ta xa
tránh như người phong: những cô gái lỡ lầm, những người mắc bệnh sida hay
nghiện ngập, những người có tiền án hay thuộc giai cấp cùng đinh... Hãy đến gần
họ và để họ đến gần mình, vì nói cho cùng, ít nhiều chúng ta đều là người
phong.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khi cầu nguyện để xin ơn, thường
chúng ta ít để cho Chúa được tự do. Chúng ta như muốn bắt Chúa phải làm theo ý
mình. Lời cầu xin của người phong có nhắc nhở bạn điều gì đó không?
Cha Đamiêng, Đức Cha Cassaigne đã
sống với người phong và lây bệnh của họ. Bạn có lần nào đụng chạm hay tiếp xúc
với một người bị bỏ rơi, bị coi là ô uế không? Bạn có phải trả giá về hành động
này không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, có
những ngày đón nhận những người khác là điều vượt quá sức con, vì con kiêu
hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày con không thể nào kính trọng kẻ khác được, vì ý kiến, vì màu da,
vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con có
những ngày mà yêu mến người khác làm cho tim con đau nhói, vì nỗi sợ hãi, nỗi
khổ đau và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
trong những ngày khó khăn đó, xin hãy nhắc cho con nhớ rằng tất cả chúng con
đều là con cái Chúa và đừng để con quên Lời Chúa nói: “Điều gì chúng con làm
cho người bé nhỏ nhất là làm cho chính Ta”
Người bị loại trừ
(Trích trong ‘Niềm
Vui Chia Sẻ’)
Đối với tâm lý người xưa nói
chung và người Do Thái nói riêng, bệnh tật nếu không phải do tội lỗi thì cũng
là trò ma chước quỷ bày ra. Xét theo diện nào, thì bệnh tật cũng đều đáng sợ.
Và bệnh càng nặng, càng ghê tởm, người ta càng phải cẩn thận, đề phòng.
Ở đất Do Thái thời bấy giờ có lẽ
không bệnh nào nan trị bằng bệnh phong cùi. Nó vừa ghê tởm vừa dễ lây. Xã hội
lập tức đã phải có biện pháp đối với những người mắc bệnh phong cùi. Luật pháp
Do Thái trục xuất người phong cùi ra khỏi đời sống cộng đồng xã hội. Người
phong cùi phải ra khỏi nhà, đến ở những nơi hoang vu hẻo lánh, không được tiếp
xúc với ai và cũng không được để cho ai đến gần mình. Gặp ai qua đường, bệnh
nhân phải lên tiếng làm hiệu trước để cho mọi người tránh xa, kẻo bị ô nhiễm
theo luật. Vô phúc cho ai bị ô nhiễm như vậy, vì sẽ bị tuyệt thông, không được
tham dự các nghi lễ nữa, trước khi làm lễ thanh tẩy theo luật dạy. Còn chính
người phong cùi, khi thấy thân xác lành sạch phải đến trình diện các Thầy Tư Tế
để xin khám nghiệm. Nếu đúng đã lành bệnh thật, họ còn phải dâng lễ đền tội và
thanh tẩy trước khi được cấp giấy chứng nhận phục hồi quyền hiệp thông với cộng
đồng xã hội.
Anh chị em thân mến,
Có hiểu số phận thảm thương của
người phong cùi trong xã hội Do Thái thời xưa, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa
đoạn Tin Mừng hôm nay: Một người phong cùi dám đến gần Chúa Giêsu, bất chấp pháp
luật ngăn cấm. Anh đến quỳ xuống van lạy Chúa Giêsu. Thái độ đó chứng tỏ một
lòng tin thật mạnh mẽ. Chúa Giêsu động lòng thương, Ngài cũng bất chấp pháp
luật, Ngài giơ tay ra đụng đến người phong cùi và phán: “Ta muốn anh được
sạch”, tức thì bệnh phong cùi biến mất, người phong cùi được lành sạch.
Ngày nay, quan niệm khắt khe đối
với bệnh phong cùi đã chuyển biến. Nhiều người và nhiều tổ chức từ thiện đã và
đang xả thân chăm sóc, giúp đỡ, điều trị những người phong cùi trên thế giới.
Với đà tiến bộ của y khoa, người ta đã hy vọng sẽ một ngày không xa, sẽ bài trừ
được hết bệnh phong cùi.
Tuy nhiên, có một thứ bệnh phong
cùi mà khoa học không bao giờ chữa được, đó là bệnh phong cùi của tâm hồn, đó
là tội lỗi: hận thù, kỳ thị chủng tộc, ý thức hệ, bạo lực. Chính bệnh phong cùi
này mới đáng sợ, vì nó cô lập con người xa cách Thiên Chúa và cộng đoàn dân
Chúa. Bệnh phong cùi này chỉ có Máu Thánh Chúa Kitô mới thanh tẩy được. Chúa
Giêsu đã đến để giao hòa vạn vật với nhau, nhờ được giao hòa với Thiên Chúa. Vì
Ngài đến để xóa bỏ tội lỗi và làm cho tất cả nhân loại được nên trong sạch,
được đến gần Thiên Chúa, được nên dân Chúa. Chúa Giêsu đã chết và và sống lại
để cho chúng ta được lành sạch, cho chúng ta được làm con Thiên Chúa và làm anh
em hết mọi người. Không loại trừ ai và không bị ai loại trừ. Ngài đã giao hòa
vạn vật trên trời dưới đất, không còn loài vật sạch hay dơ, không còn biên giới
ngăn cách chúng ta với Chúa và với mọi người. Nhưng Chúa Giêsu cũng đã để lại
trong Giáo Hội các Nhiệm Tích, nhất là Nhiệm Tích Hòa Giải là phương thế Chúa
dùng để tẩy sạch bệnh phong cùi của chúng ta và giao hòa nối kết chúng ta lại
với Chúa và với mọi người, để củng cố mối dây liên kết ấy ngày càng bền chặt
hơn.
Thưa anh chị em,
Chúng ta đã biết, theo luật pháp
Do Thái, người mắc bệnh phong cùi phải ở riêng ngoài trại, cách ly mọi người,
không được đến gần ai và cũng không ai được đến gần họ. Nhưng ở đây, với lòng
tin mãnh liệt, người cùi đón đường và tiến đến bên Chúa Giêsu. Còn Chúa Giêsu,
thay vì xa lánh bệnh nhân như luật buộc, “Ngài đưa tay ra đụng đến người phong
cùi”. Đối với Chúa, không có vấn đề kỳ thị, cấm kỵ, loại trừ. Chúa là tất cả
cho mọi người, không kỳ thị chủng tộc, văn hóa, giàu nghèo, bệnh tật…
Thái độ tin tưởng của người phong
cùi và hành động nhân hậu của Chúa Giêsu cho chúng ta một bài học: chúng ta
đừng bao giờ tự biến thành người mắc bệnh phong cùi nghĩa là đừng tự cô lập
mình với anh em, đừng tự giam mình trong pháo đài ích kỷ, thù hận nhưng hãy
biết quảng đại yêu thương bằng việc sẵn sàng quên mình vì mọi người.
Noi gương Chúa Giêsu, mỗi người
chúng ta hãy biết nhìn người anh em đồng loại như một “cái mình khác” của chính
mình. Một khi nhìn nhận như thế, chúng ta phải trở nên anh em của bất cứ người
nào, không trừ một ai, và phải đi đến với mọi người để phục vụ trong tình yêu
thương. Người già cả, người nghèo khó, người bệnh tật, người cô đơn hay hèn
kém… Tất cả đều kêu gọi lương tâm Kitô giáo của chúng ta, và chúng ta hãy nhớ
lại Lời Chúa: “Tất cả những gì anh em làm cho một người bé nhỏ nhất trong các
anh em Ta, là anh em đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Chúng ta hãy nhìn nhận
trong mọi người sự có mặt của Chúa Kitô. Mọi người đều là anh em mà chúng ta
phải yêu mến một cách thật tình. Bằng chính lời nói, hành động yêu thương mà
chúng ta làm chứng cho tình yêu của Chúa Kitô và thông hiệp với những người
khác trong mầu nhiệm tình yêu của Cha trên trời.
Có lẽ ông bà anh chị em đã được
nghe nói đến Đức Cha Jean Cassaigne, nguyên Giám Mục Giáo phận Sài Gòn của
chúng ta trước đây. Sau 15 năm làm Giám Mục Sài Gòn, Đức Cha Jean Cassaigne đã
tình nguyện về sống giữa những bệnh nhân phong cùi thân yêu của ngài ở trại
phong cùi Di Linh (Lâm Đồng), trong một ngôi nhà gỗ nhỏ hẹp. Tuy không giữ một
địa vị nào trước mặt xã hội, nhưng ngài thật là một người bạn của người phong
cùi, một chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa, một con người hy sinh phục vụ
người phong cùi, chấp nhận mang lấy bệnh phong cùi của họ và chết đi ở giữa họ.
Mười tám năm trời, ngài sống
trong thinh lặng giữa rừng núi thâm u, với những bệnh nhân phong cùi, không mấy
ai biết đến. Nhưng khi ngài mất đi vào năm 1973, mọi người hay biết đều cảm
phục tấm gương hy sinh anh dũng của ngài, ngài đáng được gọi là: “Cha của người
phong cùi”.
Tấm gương bác ái cao cả đó, không
phải ai cũng có thể noi theo được, nhưng trước mắt chúng ta, còn có những
người, những tập thể mà chúng ta xa lánh kiểu dân Do Thái thời Cựu Ước xa lánh
người phong cùi. Có khi chúng ta đã gán cho họ những nhãn hiệu thù nghịch, để
rồi không bao giờ muốn tiếp xúc với họ, sợ mình trở thành “cùi” như họ. Có khi
chúng ta đã từ chối tiếp xúc, hợp tác với cá nhân này hay tập thể nọ, chỉ vì họ
không cùng tôn giáo hay lập trường với chúng ta. Nếu chúng ta làm như vậy là
chúng ta khinh thường, làm nhục sứ mạng giao hòa mọi người mọi vật, sứ mạng mà
Chúa Giêsu đã nhận lãnh từ Chúa Cha, đã thi hành bằng cách hiến mạng sống mình,
đổ đến giọt máu cuối cùng trong trái tim của Ngài.
Trong Thánh Lễ hôm nay, khi chúng
ta tưởng niệm Mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu, mầu nhiệm là cho
chúng ta được giao hòa với Chúa và với nhau, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng
ta luôn xa lánh tội lỗi để được hiệp thông với Chúa và với anh em, biết sống
quảng đại mối giao hòa với hết mọi người mà Chúa Giêsu Kitô đã đem đến cho
chúng ta.
Đối với Thiên Chúa, không ai là người bị bỏ rơi
(Trích trong ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’ - Achille Degeest.)
Khi mới đọc qua, đoạn Phúc âm này
làm chúng ta ngạc nhiên vì một sự tương phản: Chúa Giêsu có hai thái độ trái
ngược nhau. Chúa Giêsu vừa cảm động, xót thương người cùi, vừa xua đuổi anh, và
ngược đãi anh. Đoạn này khiến ta phải suy nghĩ về lòng nhân hậu của Chúa Giêsu,
lòng nhân hậu vừa nhạy cảm lại vừa cương quyết.
1) Chúa Giêsu dễ cảm xúc, ‘Động
lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay sờ đến người ấy mà phán bảo: Ta muốn, ngươi hãy
lành bịnh’. Chúa Giêsu đã xúc cảm
cách rất nhân loại. Lòng từ bi vô biên của Chúa ‘Giêsu-làm-người’ không phải
chỉ là một sự hảo tâm, tuy hiệu nghiệm nhưng xa vời. Trong sự mầu nhiệm Nhập
thể, Thiên Chúa đã truyền thông lòng từ bi vô biên của Người bằng sự rung cảm
của một con tim thật sự nhân loại, trái tim của Chúa Giêsu. Lòng từ bi đó trở
thành một sự cảm xúc rất nhân loại, nó biến thành lòng xót thương khi đứng
trước sự đau khổ, nghĩa là thành khả năng có thể ‘cùng đau khổ’. Chúa Giêsu đau
khổ trước sự đau khổ của người phung cùi khi anh này đến với Người. Hơn nữa, vì
Người thương con bịnh, nên nỗi đau khổ của y làm cho Người khó chịu hơn chính
sự đau khổ của Người. Khi người ta yêu ai thực sự, nếu người này đau khổ, người
ta muốn mang lấy sự đau khổ cho kẻ ấy để giải thoát cho y. Chúa Giêsu không
chữa cho người phung cùi bằng một hiệu quả của quyền-lực-toàn-năng Người. Người
cúi xuống sát con bịnh đang quỳ dưới chân Người. Người đáp ứng lời van xin của
y bằng một cử chỉ từ bi nhân hậu đi xa đến độ vi phạm cả một giới răn Lề Luật.
Người chạm đến bịnh nhân cùi bằng tay Người. Chỉ một cử chỉ đó cũng đủ gây bối
rối cho bịnh nhân mà một trong những đau khổ lớn lao nhất trong đời họ là cảm
thấy bị loại ra khỏi xã hội loài người, những đồng loại không còn muốn tới gần
họ nữa chứ đừng nói chi đến sự chìa tay ra cho họ. Vì họ là người không ai muốn
sờ mó, đụng chạm tới. Như vậy là lòng từ bi của Chúa không những đã hữu ích cho
họ bằng cách chữa họ lành đã, mà còn nâng họ lên hàng cao, bằng cách phục hồi
danh dự địa vị cho họ, bằng cách trả lại cho họ danh dự con người. Chúng ta ghi
nhớ điểm Chúa Giêsu đụng đến người cùi trước khi y lành đã, và cử chỉ ấy đã
chữa y khỏi căn bịnh. Lòng từ nhân của chúng ta có thực sự động lòng xót
thương, gần gũi sự đau khổ, chấp nhận hoặc phục hồi cho tha nhân nhân phẩm của
họ chăng? Một lòng từ nhân như vậy lắm khi mang trong bản chất nó quyền lực
chữa lành một số bịnh tật.
2) Chúa Giêsu cương quyết. Nhưng rồi ngược đãi y, Chúa
Giêsu liền xua đuổi y mà bảo: Coi chừng đừng nói gì với ai. Chúa Giêsu không
muốn ai tiếp nối những cử chỉ từ bi của mình bằng những tình cảm giả vờ hoặc
thái quá. Trái lại là khác. Người không bao giờ rời mắt khỏi những lợi ích cao
cả của sứ mạng Người. Không bao giờ Người chấp nhận cho một quyền lợi riêng tư
đi ngược lại với quyền lợi tổng quát. Trong trường hợp hiện tại, sự lợi ích của
sứ mạng Người đòi hỏi 1 hành động tiến dần đến mục đích tối hậu là: mọi người
nhận ra Người, Chúa Giêsu, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu thế. Trước các phép
lạ Người làm, khi Người khởi đầu ra đi thi hành sứ mạng, những người tốt có thể
coi Người như một nhân vật được thiên phú một quyền năng phi thường, không hơn
không kém. Nhưng Chúa Giêsu cương quyết muốn rằng các phép lạ Người làm tiên
vàn phải là chữ ký của Lời Người. Trước hết, Người muốn ban Lời Người. Đối với
Người, điều quan hệ, không phải là sự nổi tiếng về quyền năng chữa bệnh của
Người, nhưng là sức mạnh cứu độ của Lời Người. Vậy Lời ấy là nguồn gốc ơn cứu
độ ở chỗ nào? Ở chỗ là Lời ấy kêu gọi con người hãy có lấy một sự tuyên xưng
đức tin. Lòng tin vào Lời và Con Người của Chúa Giêsu mở cửa cho ơn cứu độ. Khi
hắt hủi người cùi được chữa lành vì lòng từ nhân của Người, Chúa Giêsu không
muốn bịnh nhân làm phương hại đến sứ mạng của Người bằng một niềm hân hoan
thiếu kín đáo. Người không muốn sự chữa lành phần xác bao vây trí óc kẻ đương
thời thu hẹp khả năng chữa lành bệnh của quyền năng Người. Người đã đến để loan
báo Nước Thiên Chúa và chính trên sự loan báo ấy, Người muốn tập trung mọi tâm
hồn và con tim, các phép lạ chỉ là một trong những ngôn ngữ của sự loan báo ấy.
Thửa đất thực sự của lòng nhân từ Chúa chính là ơn Cứu chuộc mà chúng ta tiếp
nhận bằng đức tin.
Cứu chữa khỏi bệnh phong hủi trong tâm hồn
(Trích trong ‘Cùng
Đọc Tin Mừng’ - Lm. Trần Ngà)
Thời Chúa Giê-su, người mắc bệnh
phong lâm vào hoàn cảnh vô cùng bi đát và thảm hại. Cuộc sống của họ tồi tệ
ngàn lần hơn cái chết. Thà chết phứt đi còn hơn là phải chịu cái chết dần mòn
trong đau đớn thể xác và khốn khổ về tinh thần. Nỗi đau thương nhất mà người
phong hủi phải gánh chịu là bị cách ly khỏi cha mẹ, bạn trăm năm, con cái,
những người thân yêu và hết thảy mọi người để sống trong sự ghê tởm, ghẻ lạnh
của người đời và kết thúc cuộc đời bằng cái chết cô đơn thảm hại.
Bài trích sách Lêvi được trích
đọc trong phụng vụ hôm nay diễn tả phần nào tình trạng thương tâm đó:
"Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên:
"Ô uế! Ô uế!". Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế. Nó phải ở
riêng ra, cách ly khỏi mọi người. Chỗ ở của nó là một nơi riêng bên ngoài
trại." (Lêvi 13, 45-46)
Tội lỗi cắt lìa chúng ta khỏi
thân mình Chúa Giê-su.
Tội lỗi cũng y như một thứ bệnh
phong hủi trong tâm hồn gây tác hại cho người lỗi phạm không thua kém.
Giáo lý công giáo dạy rằng bí
tích thánh tẩy tháp nhập người tín hữu vào Thân Mình Chúa Giê-su như cành nho
được tháp vào thân nho và cũng như thân nho chuyển thông nhựa sống nuôi cành
thế nào thì Chúa Giê-su cũng chuyển thông sự sống thần linh của Người cho các
tín hữu như thế.
Bí tích thánh tẩy làm cho
"người tín hữu trở thành chi thể trong Thân Thể Chúa Giê-su" (giáo lý
công giáo số 1267), nhờ đó, sự sống vĩnh cửu của Chúa Giê-su được thông ban cho
họ y như sự sống của toàn thân châu lưu trong từng chi thể.
Thế nhưng, khi phạm tội trọng,
người tín hữu tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa Giê-su như cành nho bị chặt phăng
khỏi thân nho, như bàn tay bị cắt lìa cơ thể.
Hậu quả của việc cắt lìa nầy là
họ trở nên như một cành nho khô héo, thành một bàn tay đứt lìa, và vì thế, sự
sống thiêng liêng của Thiên Chúa không còn được thông ban cho họ nữa. Thân phận
của họ lúc nầy còn tệ hơn cả thân phận người phong hủi bị gạt ra khỏi gia đình,
thôn xóm và cách ly với mọi người.
Chúa Giê-su cứu ta khỏi tội và
đưa ta hoà nhập lại với Hội Thánh.
Khi "người bị phong hủi đến
gặp Chúa Giê-su, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có
thể làm cho tôi được sạch." Chúa Giê-su chạnh lòng thương giơ tay đụng vào
anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi!" Lập tức, chứng phong hủi biến
khỏi anh, và anh được sạch." (Mc 1, 40-42)
Làm sao tả hết nỗi mừng vui hoan
hỉ của người phong được Chúa chữa lành. Anh ta reo lên vui sướng và mặc dù Chúa
Giê-su nghiêm cấm anh tiết lộ danh tánh Người đã cứu chữa anh, nhưng niềm hạnh
phúc trào dâng không thể nào kìm nổi đã khiến anh phải cao rao cho mọi người biết
hồng ân anh đã lãnh nhận. (Mc 1, 42)
Từ đây, anh được thoát khỏi chứng
bệnh quái ác và không còn bị cách ly với xã hội loài người, được giã từ nơi cô
tịch để về sum họp với gia đình, làng xóm, được đoàn tụ với bao người thân yêu.
Hôm nay, để cứu chúng ta khỏi
tình trạng "cành lìa cây", "cánh tay bị cắt lìa cơ thể" do
tội lỗi gây ra, Chúa Giê-su lập nên bí tích giải tội để nối kết chúng ta lại
với Thân Mình Người, để cho sự sống thần linh của Người tiếp tục truyền qua cho
chúng ta như sự sống của thân nho chuyển thông cho cành, như sự sống từ thân
mình chuyển qua cho bàn tay.
Ngày qua ngày, Chúa Giê-su vẫn
trông chờ chúng ta ăn năn trở về như người cha chờ đợi đứa con đi hoang, như mẹ
hiền mong ước đứa con lưu lạc trở về. Người vẫn thao thức tìm kiếm chúng ta như
người chủ chiên đi tìm con chiên lạc rất yêu dấu.
Ước gì chúng ta biết thành khẩn
tìm đến với Chúa Giê-su như người mắc bệnh phong trong Tin Mừng hôm nay, khiêm
tốn quỳ xuống trước mặt Người và tha thiết van xin: "Lạy Chúa, xin thanh
tẩy linh hồn con nên trong sạnh. Xin cho con được giao hoà với Chúa để sự sống
của Chúa lại được thông truyền cho chúng con."
Loan báo Tin Mừng
Một người tân tòng mới trở lại
cùng Chúa, ngày kia có anh bạn láng giềng tới chơi và hỏi: Anh biết được những
gì về Đức Kitô? Người tân tòng trả lời: Có, tôi biết nhiều lắm. Người bạn hỏi:
Vậy Ngài sinh ra bao giờ, ở đâu và chết lúc bao nhiêu tuổi. Trước những câu hỏi
này, người tân tòng tỏ ra bối rối vì kiến thức của anh về Đức Kitô còn non yếu.
Cuối cùng người tân tòng bèn thú nhận: Phải, về Đức Kitô thì tôi biết ít lắm,
nhưng có điều này chắc chắn: Trước đây tôi nằm đường nằm chợ, tôi say sưa be
bét, nợ nần ngập đầu ngập cổ. Trước đây, vợ tôi ít khi mỉm cười với tôi. Thấy
bóng tôi là sợ hãi. Nhưng hôm nay, tôi là một người đàn ông tiết độ, hết nợ và
còn dư tiền để tậu một căn nhà mới. Hôm nay, vợ tôi thường tươi cười với tôi.
Đức Kitô đã làm cho tôi tất cả những điều ấy. Đó là niềm tin tưởng và xác tín
của tôi.
Tình cảnh của người tân tòng này
cũng phần nào giống với người phong cùi của đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Anh
không biết nhiều về Đức Kitô, nhưng anh tin chắc Ngài đã chữa lành cho anh và
anh ra đi loan truyền cho mọi người biết điều đó…
Với chúng ta cũng vậy, chúng ta
phải nói cho mọi người biết những gì Đức Kitô đã làm cho mỗi người chúng ta.
Chúng ta hãy lưu ý tới hành động của Chúa Giêsu. Ngài không sợ bị nhơ bẩn, bị ô
uế, trái lại Ngài đã giơ tay ra, đụng tới người phong cùi và bỗng nhiên cơn
bệnh của anh biến mất.
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn còn
giơ tay ra đụng tới chúng ta và chữa lành chứng bệnh phong cùi tâm hồn chúng ta
là tội lỗi. Thực vậy, Ngài đụng đến chúng ta qua Bí tích Giải tội, để chữa lành
những ung nhọt tội lỗi. Ngài đụng đến chúng ta qua Bí tích Thêm sức, để trao
ban Thánh Linh và gia tăng sức sống. Và nhất là Ngài không phải chỉ đụng đến
chúng ta mà còn ngự vào tâm hồn chúng ta qua Bí tích Thánh Thể. Rồi khi chúng
ta đau yếu, Ngài đụng đến chúng ta qua Bí tích Xức dầu để xoa đi những đớn đau
phần hồn cũng như phần xác. Ngài giơ tay ra cho những cô dâu và chú rể để giúp
họ thánh hóa cuộc sống gia đình…
Chính vì thế, chúng ta có thể
mượn lời kinh chúc tụng của Mẹ Maria để cảm tạ hồng ân Thiên Chúa. Ngài là Đấng
toàn năng, đã làm cho tôi muôn việc trọng đại. Là những người cha người mẹ,
chúng ta phải nói cho con cái biết những gì Chúa đã làm cho chúng ta và cho gia
đình chúng ta nữa.
Tất cả chúng ta, những Kitô hữu,
cũng phải nói cho những người tin cũng như không tin, bằng lời nói và bằng đời
sống, những gì Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta.
Có thể chúng ta không biết nhiều
về Đức Kitô, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng Ngài đã làm chuyển biến, đã làm
thay đổi để chúng ta được trở nên tốt lành và thánh thiện hơn.
"Vì loài người chúng tôi"
"Ngài chạnh lòng thương, giơ
tay sờ vào anh ta"
Như bị một ma lực cuốn hút, người
phong cùi cứ rẽ đám đông xấn tới, tiến lại gần Đức Giêsu, mặc cho người ta nạt
nộ quát mắng, ngăn cản anh. Và cũng bất chấp dư luận, Đức Giêsu đã giơ tay ra
đón và sờ vào anh ta. Theo phong tục Do Thái thời Chúa (và bây giờ ở nhiều nơi
vẫn còn như vậy), bệnh nhân phong bị cấm, không được lui tới những xóm thôn,
thị tứ, nơi những "người lành" cư ngụ. Họ bị coi là "kẻ xấu
xa" vì đã bị Thiên Chúa luận phạt ngay ở đời này vì tội lỗi của mình. Họ
bị loại trừ ra khỏi xã hội loài người, sống lang thang vất vưởng như những bóng
ma. Họ là những con ma sống, hay những xác chết còn thở hí hóp. Họ phải la to
lên cảnh báo khi có người tới gần họ. Ai cũng không muốn "dây với người
hủi". Nhưng Đức Giêsu đã giơ tay đón anh ta, sờ vào anh ta. Khi đôi tay
nhân lành chạm vào làn da "sượng sần và tê điếng", lạ thay và cũng
cao cả nhường bao! Làn da vô cảm ấy đã nhẵn nhụi, hồng hào lành lặn trở lại. Ai
nói được hết nỗi vui của anh. Nhưng Đức Giêsu lại bảo anh phải gấp rút đi gặp
các tư tế.
Đây là một thủ tục cần thiết để
người phong có thể hội nhập lại xã hội. Chứng nhận của tư tế sẽ giúp cho gia
đình anh, bạn bè anh, bà con lối xóm vui lòng đón anh trở lại xã hội người. Cứu
người phong khỏi bệnh, Chúa còn trả lại nhân phẩm cho anh, cứu anh khỏi thân
phận bị loại trừ, hất hủi.
Lệnh truyền thứ hai của Chúa đối
với người phong là anh ta không được kể chuyện mình cho ai nghe. Chi tiết này
xem ra mâu thuẫn với việc phải đi bẩm báo các vị tư tế, và ý muốn cho anh hội
nhập xã hội trở lại. Đương sự đã không thể giữ miệng được lâu. "Vừa ra
khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin đó khắp nơi". Anh đã trở
thành người rao giảng Tin Mừng cứu độ, bởi vì anh đã được cứu độ, được giải
phóng. Việc anh loan báo tin vui đã khiến Đức Giêsu không thể công khai vào
thành nào được. Chúa không muốn bị người ta xem Ngài là ông thầy lang mát tay,
Ngài không muốn gây một sự cuồng nhiệt nơi quần chúng. Cho dù làm cho người ta
hiểu đúng Tin Mừng của Chúa không phải là một điều dễ dàng.
Thánh Gioan đã gọi các phép lạ
của Chúa là những "dấu chỉ", Chứng tỏ vương quốc tình yêu, công bình,
hòa bình, hạnh phúc của Thiên Chúa đang đến với lịch sử nhân loại. Qua các phép
lạ, Chúa muốn chứng tỏ vì sao Chúa đến. Chúa đến không phải để làm thầy lang,
người trừ qủi, người giảng thuyết, mà là để chia sẻ thân phận cùng khổ, tuyệt
vọng của con người chúng ta, và để cứu chúng ta khỏi mọi sự dữ. Như chúng ta
vẫn thường tuyên xưng: "Vì loài người chúng tôi và để cứu chuộc chúng tôi,
Người đã từ trời xuống thế".
Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi.
(Suy niệm của Noel
Quesson)
Người phong cùi quỳ xuống cầu xin
Chúa: “Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi”.
Bác sĩ Collins là một người vô
tín, có kiến thức cao, ngày kia, gặp một bác nông dân đi lễ, ông lên tiếng hỏi:
- Bác đi đâu vậy?
- Tôi đi nhà thờ, thờ lạy Chúa.
- Chúa của bác to hay nhỏ?
- Thưa ông, Chúa rất lớn, đến mức
các tầng trời không chứa nổi; nhưng Người cũng rất nhỏ, có thể ngự nơi trái tim
tôi.
Câu nói của bác nông dân đã tóm
gọn đầy đủ niềm tin vào Thiên Chúa: tin vào Chúa quyền năng, có thể làm được mọi
sự. Đồng thời cũng tin rằng Chúa yêu thương ta triệt để, Người làm chủ trái tim
ta. Người phong cùi kể trong Tin Mừng hôm nay đã cho ta thấy một lòng tin như
vậy.
Trong xã hội Do Thái thời Chúa
Giêsu, người phong cùi là loại người đáng ghê tởm nhất. Họ không được ở chung
với cha mẹ anh em trong nhà, không được tiếp xúc với dân làng. Họ phải sống
thành nhóm riêng nơi mồ mả, chốn hoang vu. Mỗi khi thấy ai tới gần, họ phải la
lên: “Ô uế! ô uế!” để người ta biết mà tránh xa họ. Luật Môsê cấm liên hệ với
người phong cùi. Trò chuyện với họ là phạm luật, chưa kể sự đụng chạm tới thân
xác họ. Trong hoàn cảnh cách ly đó, một người phong cùi đã nghe nói về Chúa
Giêsu, anh tin tưởng Chúa có quyền cứu anh. Anh đón đường đến quỳ trước mặt
Chúa và van xin: “Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi”.
Chuyện này xảy ra vào giai đoạn
đầu cuộc sống công khai của Chúa Giêsu. Người ta chỉ mới nghe đồn về Chúa như
một dấu lạ xuất hiện, nhưng người phong cùi này hẳn phải được ơn trên soi sáng,
mới có được một lòng tin đặc biệt như vậy. Anh đón gặp Chúa mà không sợ Ngài
xua đuổi. Anh biểu lộ niềm tin, biết rõ Chúa có thể chữa mình khỏi thứ bệnh nan
y. Anh quỳ gối trước Chúa, tỏ lòng tôn sùng, một thái độ người ta vốn dành cho
thần linh, cho Thượng Đế.
Thấy lòng tin của anh, Chúa xúc động
thương cảm, giơ tay chạm vào người anh và nói: “Ta muốn anh được khỏi”. Chạm
đến người phong cùi, Chúa đã phạm luật, khiến một số người đang dò xét Chúa
phải bực bội vì hành động này. Dĩ nhiên, Chúa muốn thay đổi những lệch lạc
trong luật. Chúa có quyền và đến để làm việc đó. Nhưng ở đây, Chúa muốn tỏ ra
Người đã hài lòng trước lòng tin vững mạnh của người phong cùi. Tình yêu Chúa
đã trao ban rộng rãi và có thể phát sinh những hiệu quả kỳ diệu, khi con người
tin tưởng mở rộng tâm hồn đón nhận.
Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần cho
chúng con, nhờ Người soi sáng, chúng con luôn nhận ra Chúa quyền năng và yêu
thương đang hiện diện trong cuộc sống chúng con. Nếu Ngài muốn, Ngài có thể
chữa lành chúng con và những người anh chị em bệnh nạn đang kêu cầu Chúa. Chúng
con ngợi khen Ngài.
Hãy loan báo tin vui
ĐGM. Arthur Tonne
Người cha của một gia đình ở
Idaho mới trở thành Kitô hữu. Ông nói về Chúa Kitô mỗi lần có dịp. Ngày kia,
người láng giềng vô thần thử ông với một câu hỏi: “Thực sự anh có biết gì về
Đức Kitô không?”. Người đạo mới trả lời: “Có, tôi biết”. Người vô thần hỏi:
“Người sinh ra bao giờ?”. Người đạo mới không biết chắc. Tới câu hỏi khác:
“Người chết lúc Người bao nhiêu tuổi?”. Một lần nữa, người đạo mới của Đức Kitô
không trả lời được. Quả thực câu trả lời của ông quá yếu không xác thực đối với
các câu hỏi của người lối xóm. Cuối cùng người vô thần la lên “Coi, anh chẳng
biết gì về Đức Kitô, phải không?”. Người đạo mới trả lời quả quyết: “Tôi biết
ít lắm. Nhưng tôi biết điều này: hai năm trước đây, tôi nằm đường, nằm chợ, tôi
say sưa, tôi mắc nợ ngập đầu. Hai năm trước đây vợ tôi ít khi mỉm cười. Thấy
bóng tôi các con tôi sợ hãi. Nhưng ngày nay, tôi là một người đàn ông tiết độ.
Tôi sạch nợ và còn đủ tiền để mua một căn nhà mới. Ngày nay, vợ tôi thường tươi
cười, các con tôi chạy lại đón chào tôi. Chúa Kitô đã làm cho tôi tất cả những
điều ấy. Đó là điều tôi biết”.
Rất giống người phong cùi trong
Tin Mừng hôm nay. Anh không biết nhiều về Đức Kitô; nhưng anh biết một điều Đức
Kitô đã chữa lành bệnh. Anh ra đi và loan truyền tin ấy. Mặc dù Đức Giêsu đã
bảo anh: “Đừng nói với ai cả”.
Người phong cùi khỏi bệnh nói với
mọi người. Đó là ý tưởng của ngày hôm nay. Bạn và tôi phải nói cho mọi người
những gì mà Đức Giêsu đã làm cho mỗi người chúng ta. Cử chỉ Chúa làm cho người
phong cùi cảm động và đáng chú ý: “Người giang tay đụng tới anh… và bỗng nhiên
bệnh cùi biến mất”. Đức Giêsu còn giang tay và đụng tới bạn và tôi bằng nhiều
cách.
Ví dụ: Đức Kitô đụng vào chúng ta
bằng bí tích Rửa Tội, và làm chúng ta nên anh chị em của Người. Người đụng vào
chúng ta với dầu Thêm Sức để ban cho chúng ta Thánh Linh Người đã hứa. Trong
phép Giải Tội, Đức Kitô đụng tới chúng ta và chữa chúng ta khỏi phong cùi tội
lỗi. Khi rước lễ, phép lạ hơn mọi phép lạ, Đức Giêsu không chỉ đụng tới chúng
ta, mà còn đến và sống trong tâm hồn chúng ta. Khi Xức Dầu Bệnh Nhân, Người
đụng tới thân thể yếu liệt và linh hồn run sợ của chúng ta, Người chữa lành tất
cả. Người giang tay cho bạn là cô dâu, là chú rể để thánh hóa sự kết hợp hôn
phối của bạn.
Đức Giêsu đặt tay trên tôi trong
nghi lễ truyền chức để ban cho tôi quyền làm cho bạn nhiều việc Người đã làm.
Chúng ta, người công giáo, như người phong cùi khỏi bệnh phải nói cho người
khác những gì mà Đức Kitô đã làm cho chúng ta.
Chúng ta có thể dùng những lời
của Đức Trinh Nữ Maria trong bài ca tán tụng Magnificat: “Chúa là Đấng Toàn
Năng đã làm cho tôi muôn việc lớn lao”.
Việc của tôi, một linh mục là nói
lên những gì Đức Kitô đã làm cho chúng ta. Bạn là cha, là mẹ phải nói cho con
em bạn những gì Đức Kitô đã làm cho bạn và cho chúng. Bạn là giáo lý viên cũng
làm như vậy. Tất cả chúng ta phải nói cho những người tin cũng như không tin
bằng lời nói, bằng sách báo công giáo, những gì Thầy Chí Thánh đã làm cho chúng
ta. Đặc biệt, những gì Người làm trong và qua Thánh Lễ: “Người đổ máu ra cho
mọi người”.
Có thể chúng ta không biết nhiều
về Đức Kitô. Nhưng chúng ta biết Người đã làm một sự thay đổi lớn - chúng ta
được tốt hơn.
Xin Chúa chúc lành cho bạn.
Cử chỉ
So với những cử chỉ lớn lao, thì
những cử chỉ nhỏ bé lại có thể giúp chúng ta thấu hiểu hơn về tính cách của một
con người. Những điều lớn lao chứng tỏ cho chúng ta về sức mạnh nơi một con
người. Còn những điều nhỏ nhoi lại cho chúng ta thấy được bản tính nhân loại
nơi một con người. Chúng ta có được ví dụ rất tốt đẹp này trong bài Tin Mừng
hôm nay. Đó là cử chỉ của Đức Giêsu, qua việc Người đụng chạm vào kẻ bị phong
hủi, trước khi chữa lành cho anh ta. Mặc dù tự thân sự đụng chạm là một điều
nhỏ bé, nhưng trong bối cảnh này, đó là một việc làm lớn lao. Chính những cử
chỉ nhỏ bé giống như vậy, lại khẳng định được nhân cách và giá trị của con
người.
Ngày nay, người ta không còn sợ
hãi bệnh phong hủi như trước đây. nếu người nào bị lây nhiễm căn bệnh này, mà
được điều trị kịp thời, thì họ có thể hoàn toàn khỏi bệnh, và không ai biết
rằng họ đã từng bị mắc bệnh. Trong Kinh Thánh qua các thời kỳ, bệnh phong hủi
là một trong những căn bệnh đáng sợ nhất. Đối với dân chúng thời đó bệnh phong
hủi tương tự như căn bệnh AIDS đối với chúng ta ngày nay.
Người mắc bệnh phong hủi bị cấm
không được sống chung với cộng đồng, để bảo vệ cho cả cộng đồng khỏi bị lây
nhiễm. Những người phong hủi cũng bị loại ra khỏi những sinh hoạt tôn giáo, bởi
vì họ bị coi là những kẻ không tinh sạch theo lễ nghi, và không ai dám liên lạc
với họ. Do đó, họ là những kẻ sống ngoài lề xã hội và tôn giáo. Họ bị mọi người
ruồng rẫy, khinh miệt và người ta tin rằng họ bị chính Thiên Chúa cũng ruồng
rẫy, khinh miệt nữa. Nếu muốn công bố là đã khỏi bệnh, họ phải trải qua một lễ
nghi thanh tẩy, trước khi được chấp nhận trở lại với cộng đồng.
Đức Giêsu biết tất cả những điều
này. Tuy nhiên, Người đã vượt qua những cấm đoán của xã hội và tôn giáo. Đức
Giêsu cho phép người phong hủi lại gần Người. Thế rồi Người đã làm một điều mà
không ai ngờ. Người tiến đến gần, đụng chạm vào người phong hủi, trước khi chữa
lành cho anh. Tại sao Người lại dám làm một điều mà lề luật cấm đoán? Sự đụng
chạm đó cho thấy lòng thương xót lớn lao của Đức Giêsu đối với người sống ngoài
lề xã hội, kẻ tội lỗi và người đau khổ.
Người đụng chạm vào người phong
hủi, để có thể chứng tỏ rằng tất cả mọi sự đều tinh sạch đối với người mà tự
bản thân họ đã tinh sạch. Sự không tinh sạch bên ngoài không hề làm mất đi sự
tinh sạch của tâm hồn. Người đụng chạm vào anh ta, để dạy cho chúng ta rằng
không được khinh miệt bất cứ ai, và coi họ như là những kẻ đáng thương, bởi vì
nỗi đau đớn thể xác của họ. Người đụng chạm vào các thương tích của con người,
không phải để cho các thương tích đó có thể dính chặt vào Người, mà là để Người
có thể trừ khử chúng ta ra khỏi người đang bị đau đớn.
Đối với người phong hủi, cử chỉ
đơn giản đó mang ý nghĩa của cả một thế giới. Nỗi đau khổ tệ hại nhất của người
phong hủi không phải là tự thân căn bệnh, mà là nỗi đau đớn vì bị tất cả mọi
người ruồng rẫy. Khi đụng chạm vào người anh ta, Đức Giêsu đem đến cho anh một
dấu hiệu của sự đón nhận, và sửa đổi nơi anh ý tưởng rằng mình không tinh sạch,
vô giá trị, không là gì cả, chỉ là một con người bỏ đi mà thôi.
Đức Giêsu đã có sự hiểu biết lớn
lao, và có cảm xúc đối với những người đau khổ, Oscar Wilde nói về điều này như
sau;
“Đức Giêsu đã thấu hiểu bệnh
phong hủi của người phong hủi, sự tối tăm của người mù, sự bất hạnh do thói tự
mãn của những kẻ sống theo lạc thú, sự nghèo nàn đến kỳ lạ của những kẻ giàu
có, sự thèm khát có thể dẫn con người đến tình trạng uống cả những giòng nước
bùn lầy”.
Đức Giêsu nhấn mạnh đến khả năng
thương xót của chúng ta. Người thách đố suy nghĩ của chúng ta về lòng yêu mến.
Mỗi người chúng ta đều có khả năng yêu thương lớn lao. Thật đáng tiếc là chúng
ta thường không sử dụng đến khả năng yêu thương đó. Chúng ta có được khả năng
này trong sức mạnh của chúng ta, để tiếp cận được với những người đang phải
chịu đựng nỗi đau đớn của cảnh bị ruồng rẫy. Chúng ta có thể nhen nhúm lại niềm
hy vọng, mang lại niềm say mê vui sống nơi người khác, và rồi từ đó, chúng ta
phản ánh được một cách mờ nhạt về lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.
Khi nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta
nhận ra được cách cư xử, mà một cộng đoàn Kitô hữu nên có, đối với những kẻ tội
lỗi và những người bị xã hội ruồng bỏ. Trong thời đại của chúng ta, ai là những
người phong hủi (sống ngoài lề xã hội)? Chúng ta đã nhận biết được cách cư xử
của Đức Giêsu đối với họ. Vậy chúng ta phải cư xử với họ ra sao? Và theo mức độ
con người, mỗi người chúng ta đều đã được Đức Kitô thanh tẩy trong phép Rửa
tội, và chúng ta cần phải loan truyền tin vui.
Lạc quan
Cho đến thời Chúa Giêsu, luật lệ
Do thái vẫn rất khắt khe đối với những người phong cùi. Những luật lệ này đã có
từ thời ông Môsê được ghi lại trong chương 13 sách Lêvi, qui định rất tỉ mỉ và
rõ ràng những trường hợp người bị cùi và cách đối xử với những người ấy. Nghĩa
là khi có những triệu chứng bệnh ngoài da, người bệnh phải đến gặp tư tế để
khám nghiệm. Nếu là phong cùi thì tư tế sẽ tuyên bố người đó không thanh sạch.
Từ đó họ không được ở chung với người lành, không được ở trong làng, nhưng phải
sống biệt lập trong hoang địa, không được tham gia bất cứ sinh hoạt nào. Họ
không được tới gần người lành, cũng không được để người lành tới gần. Họ phải
mặc áo rách, để tóc bù xù, và khi thấy người lành thì phải hô to: “dơ, dơ” để người ta biết mà tránh xa. Nếu
họ đụng tới người lành hay người lành đụng tới họ thì người ấy trở thành dơ bẩn
và bị khai trừ trong thời gian luật định.
Như vậy, khi đã mắc bệnh cùi là
mặc nhiên bị đẩy vào một cái chết dần mòn khủng khiếp. Chẳng những thế, kẻ mắc
bệnh cùi còn bị xã hội nguyền rủa và xa lánh. Thân xác tiêu hao, tinh thần băng
hoại, đời sống người bệnh không còn gì khác hơn là những tháng ngày rên siết đau
thương trong khốn cùng tuyệt vọng.
Hiểu rõ số phận người cùi như
vậy, chúng ta sẽ hiểu được trường hợp người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay. Một
người cùi đến gần Chúa Giêsu và Chúa đã chữa cho người ấy được lành sạch. Như
thế, người cùi này đã vượt qua các hàng rào mà luật đặt cho người cùi. Và chính
Chúa Giêsu cũng đã vượt qua hàng rào luật định khi Ngài chạm tới người cùi.
Nghĩa là với lòng tin mạnh mẽ người cùi đón đường và đến gần Chúa. Còn Chúa,
thay vì xa lánh như luật cấm, Ngài giơ tay chạm đến người bệnh. Việc Ngài chạm
tới người cùi không làm cho Ngài ra dơ bẩn mà lại làm cho người cùi được lành
sạch. Ngài không phạm luật nhưng Ngài làm cho luật nên hoàn hảo.
Thái độ của người cùi này đáng
cho chúng ta suy nghĩ. Dù với tâm trạng e dè sợ sệt, anh vẫn tin tưởng kêu xin.
Lời cầu xin ấy không phải là một hoài nghi, nhưng diễn tả một niềm tin hoàn
toàn phó thác cho tình thương của Chúa Giêsu giữa cảnh cùng đường tuyệt vọng.
Trước thái độ tin tưởng khiêm tốn của anh, Chúa Giêsu rất hài lòng, Ngài đặt nhẹ
tay trên vai anh và chữa anh lành bệnh bằng một lời đầy âu yếm: “Tôi muốn, anh
hãy được sạch”.
Đặt tay hay đụng chạm đến người
cùi là một cử chỉ mà lề luật không cho phép và cấm ngặt, vì nó sẽ làm cho con
người ra dơ bẩn. Và với quyền năng của mình, không cần đụng chạm vào người cùi,
Chúa Giêsu vẫn có thể chữa lành anh ta. Thế nhưng, tình yêu dâng hiến sẽ nhận
được tình yêu đáp trả. Tâm tình tin yêu của người cùi đã được Chúa Giêsu đáp
lại bằng cử chỉ yêu thương của Ngài.
Câu truyện người cùi trên đây tuy
ngắn gọn, nhưng diễn tả được đậm nét nguyên tắc sống của người Kitô hữu: không
bi quan về cuộc sống. Không bao giờ mất tin tưởng, dầu cuộc đời xem ra như
chẳng còn lối thoát. Và nhất là không bao giờ được quên tình yêu thương săn sóc
của Cha trên trời. Bởi vì chẳng có gì ngăn cản con người tìm đến với tình yêu
Thiên Chúa. Dù cho cuộc sống có tăm tối u buồn, quanh ta chẳng còn người cảm
thông, thì vẫn còn Chúa Giêsu, Ngài luôn chờ đón và sẵn sàng đáp lời chúng ta.
Và chúng ta hãy đến với Ngài để học nơi Ngài cách đáp trả.
Chúng ta đừng bao giờ tự làm cho
mình thành người mắc bệnh cùi và cũng đừng làm cho những người sống chung quanh
mình thành những người cùi. Nghĩa là có những người cư xử như mình bị cùi, khi
tự xây cho mình pháo đài ích kỷ, lập dị… Có những người khác lại đối xử
với anh em như những người cùi, khi làm cho anh em cô đơn hoàn toàn, do lời nói
hay thái độ chia rẽ, phân biệt đối xử… Chẳng hạn có những người, những
tập thể mà chúng ta xa lánh theo kiểu dân Do thái xa lánh người cùi. Hoặc chúng
ta từ chối tiếp xúc, hợp tác với cá nhân này hay tập thể nọ chỉ vì họ không
cùng tín ngưỡng hay không đồng tư tưởng với chúng ta. Nếu sống như vậy là chúng
ta tự làm cho mình mắc bệnh cùi và làm cho anh em trở thành người cùi.
Chúng ta đừng bao giờ sống như
thế, chúng ta đừng bao giờ tự cô lập mình, đừng bao giờ gây chia rẽ; trái lại,
hãy luôn sống cởi mở với mọi người, đối xử với mọi người trong tinh thần yêu
thương và hợp tác.
Lạc quan vui sống là đặc tính cơ
bản của người Kitô hữu. Chúng ta cần phải lạc quan vì nhận thức được phẩm giá
làm người và làm con Chúa của mình. Chúng ta lạc quan vui sống vì biết rằng
mình luôn được Thiên Chúa yêu thương săn sóc. Chúng ta lạc quan vui sống vì
biết rằng đàng sau mọi gian nan thử thách của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện
diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ. Mỗi ngày có những đau khổ,
nhưng cũng lại có niềm vui. Người Kitô chúng ta luôn biết vươn mình trên đau
khổ để đón nhận niềm vui được trao ban từ tấm lòng, từ bàn tay, từ nụ cười của
Thiên Chúa yêu thương. Một cuộc sống như thế phải là điều bình thường cho những
ai biết đặt trọn niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa. Một cuộc sống như thế không
những chỉ là nguồn vui cho riêng mình mà còn mang hạnh phúc đến cho gia đình,
cho xã hội nữa.
Lòng từ ái
Trong Kinh Thánh qua các thời kỳ,
người ta tin rằng căn bệnh phong hủi rất hay lây nhiễm. Vì lý do đó, những
người phong hủi bị bắt buộc phải sống bên ngoài cộng đồng. Người ta biết đến họ
như là những người không thể đụng chạm vào được. Sự hiện hữu của họ quả thật là
lạnh lùng, cô độc. Họ phải sống xa cách với mái nhà, gia đình và bạn bè của họ.
Họ là những con người đã từng hòa mình trong cuộc sống, thế mà hiện nay, họ
không là gì cả. Cuộc đời của họ là một cái chết sống động. Người ta tin rằng họ
bị Thiên Chúa nguyền rủa. Người ta cho rằng họ không chỉ là những kẻ bệnh hoạn,
mà còn không tinh sạch nữa. Người đàn ông đang tiến lại gần Đức Giêsu chính là
loại người đó. Anh ta không được xuất hiện trước công chúng, mà không rung
chuông, hoặc không la to lên báo hiệu, để cho mọi người cảnh giác. Anh ta có
nguy cơ bị xua đuổi bằng những cục đá. Nhưng anh ta quyết định đi gặp một
người, mà anh ta tin rằng sẽ không xua đuổi anh.
Đức Giêsu nhìn thấy người phong
hủi đang lại gần, và cho phép anh ta tiến thẳng đến với Người. Liệu Người có
đụng chạm vào người phong hủi này không? Nếu Người sờ tay vào người phong hủi,
thì Người sẽ nói gì? Nếu Người không sờ tay vào người phong hủi, thì Người sẽ
nói gì? Nhận thấy tình trạng bi đát của anh ta, Đức Giêsu đã động lòng thương,
Người tiến lại gần và sờ vào anh. Đây là một hành động biểu tượng, chắc chắn sẽ
gây sốc cho những người xem. (Người ta nhận thấy ở bắc Ailen, thậm chí ngay cả
một cái bắt tay đơn giản, cũng có thể gây rắc rối). Khi đụng chạm vào người
phong hủi, thì Đức Giêsu đã tự biến mình thành một người không tinh sạch. Hầu
hết mọi người trong chúng ta đều e ngại người đau yếu và người nghèo khổ. Chúng
ta có thể cho người ăn xin một vài đồng lẻ, nhưng chắc chắn chúng ta không hề
có tương quan gì đối với họ. tuy nhiên, chúng ta lại thích được đụng chạm vào.
Chúng ta cảm thấy vinh dự, khi được một nhân vật quan trọng nào đó bắt tay,
hoặc vỗ vào lưng chúng ta.
Chắc hẳn là sự tiếp xúc về mặt
thể lý tạo cho mọi người, đặc biệt là những người đau yếu và bị thương tật, một
cảm giác nồng ấm và vui tươi. Chính khi đụng chạm vào người khác, chúng ta cảm
nhận được một cách chính xác về người đó. Đức Giêsu đã đụng chạm vào những
người phong hủi, tội lỗi, đau yếu và kẻ chết.
Bạn hãy thử tưởng tượng xem người
phong hủi cảm thấy sung sướng đến thế nào, khi Đức Giêsu đụng chạm vào người
anh ta. Trước hết, anh ta cảm thấy mình là một con người. Thân xác của anh ta
đã bị tổn thương sâu xa hơn - do cảm giác rằng mình bị tất cả mọi người, kể ac
Thiên Chúa, xua đuổi và bỏ rơi. Bằng cách đụng chạm vào anh ta, Đức Giêsu đã
chữa lành tinh thần bị tổn thương của anh ta. Thế rồi người phong hủi nói “Thưa
Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.
Đức Giêsu đáp: “Tất nhiên là tôi
muốn”. Và Người đã chữa lành cho anh. Bây giờ, anh được chữa lành cả về thân
xác nữa, hoàn toàn được lành lặn.
Nơi người y bác sĩ, lòng từ ái
hầu như là một điều quan trọng nhất đối với một bệnh nhân. Khi người ta xuất
viện sau một cuộc phẫu thuật hoặc một cơn bệnh, một trong những điều mà người
ta luôn phê bình, đó là về cách cư xử của các bác sỹ và y tá.
Đức Giêsu yêu cầu người phong hủi
im lặng về việc chữa bệnh của Người. Nhưng người này lại loan báo đi khắp mọi
nơi về điều mà Đức Giêsu đã làm cho anh ta. Và anh ta không chỉ nói về sự kiện
Đức Giêsu chữa lành cho anh, nhưng anh ta còn nói về tấm lòng từ ái và sự tôn
trọng thật đáng kinh ngạc, mà Người đã cư xử với anh.
Đức Giêsu đưa bàn tay đầy yêu
thương và chữa lành về phía một người hạ đẳng. Người thách đố chúng ta - những
kẻ đi theo Người - trong việc tiếp cận với những con người mà ngày nay xã hội
ruồng bỏ: các tù nhân, những người nghiện ma túy, những lữ khách, các nạn nhân
Aids…
Những điều mà người ta có thể làm
cho người khác thật đáng kinh ngạc. Người ta có thể nhen nhúm lại niềm hy vọng,
mang đến niềm vui sống, thông truyền cảm hứng cho những kế hoạch tương lai,
phục hồi lòng tự trọng và tự hào. Thậm chí người ta còn có thể phản ánh một
cách lờ mờ về lòng từ ái vô biên của Thiên Chúa nữa.
Phong cùi
Như chúng ta đã biết, bệnh phong
cùi là một chứng bệnh hiểm nghèo, rất khó chữa trị. Nó làm cho người mắc phải,
bị đau đớn nhức nhối, và trở nên hôi thối. Nó gậm nhấm các chi thể, làm cho các
chi thể bị băng hoại, chết dần chết mòn và sau cùng bị rơi rụng.
Hơn thế nữa, nó còn là một chứng
bệnh rất hay lây, vì thế người ta thường cô lập những kẻ mắc phải chứng bệnh
này ở một nơi riêng rẽ, không cho tiếp xúc với thế giới bên ngoài.
Hình ảnh của bệnh phong cùi cũng
chính là hình ảnh tượng trưng cho tội lỗi. Bởi vì tội lỗi làm cho tâm hồn chúng
ta trở nên xấu xa và hôi thối dưới mắt Thiên Chúa. Nó cũng làm cho tâm hồn
chúng ta bị băng hoại và sau cùng giết chết sự sống của Thiên Chúa, sự sống của
ơn sủng trong chúng ta. Đồng thời, tội lỗi còn là như một chứng bệnh truyền
nhiễm, do gương mù gương xấu của chúng ta mà nó sẽ lây lan sang những người
chung quanh.
Thế nhưng có một điều bi đát, đó
là đối với những kẻ mắc phải chứng bệnh phong cùi, thì như tôi vừa nói, người
ta thường để họ sống biệt lập tại một nơi hoang vắng, hay trong những trại
riêng biệt, hầu giới hạn sự lây lan của nó.
Còn tội lỗi thì khác, nó đang ở
giữa chúng ta, trà trộn vào trong chúng ta, thế lực và ảnh hưởng của nó mỗi
ngày một bành trướng, nó tràn ngập khắp nơi, từ thôn quê cho tới tỉnh thành,
không chỗ nào mà không có dấu vết của nó, để rồi con người thời nay đã đánh mất
ý thức về nó. Họ coi phạm tội là một chuyện bình thường, như ăn một chén cơm,
uống một ly nước.
Riêng với chúng ta thì sao? Sau
khi đã nhận biết sự nặng nề và xấu xa của tội lỗi là như thế, chúng ta hãy có
lấy một điều dốc quyết và kiên trì thực hiện điều dốc quyết ấy, đó là thà chết
chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa.
Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện
về vua thánh Louis, ngày kia ngài cùng với một số quan chức đi thăm một trại
cùi. Ngài hỏi một viên đại thần. Nếu ngươi được phép chọn lựa: Một là phạm tội
trọng hai là mắc chứng bệnh phong cùi thì ngươi sẽ chọn đường nào.
Viên đại thần trả lời: kẻ hạ thần
thà phạm một trăm tội trọng chứ chẳng thà mắc phải chứng bệnh ghê tởm ấy.
Thế nhưng nhà vua đã nói với ông
ta: Còn trẫm, thà rằng trẫm mắc phải chứng bệnh ghê tởm gấp trăm lần chứ chẳng
thà phạm một tội trọng mất lòng Chúa.
Cố gắng xa tránh tội đã đành, còn
khi trót phạm tội, chúng ta phải làm gì? Tôi xin thưa, hãy giục lòng thống hối
ăn năn, như vua thánh Đavid ngày xưa: Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã
vấp phạm đến Chúa, rồi sau đó thi hành ngay phương thế mà Chúa Giêsu đã chỉ cho
người phong cùi.
Phương thế ấy như thế nào: Con
hãy đi trình diện cùng tư tế. Phải chăng mỗi khi chúng ta phạm tội, Chúa Giêsu
cũng nhắc nhở chúng ta rằng: Con hãy đi gặp linh mục nơi tòa giải tội.
Bởi vì như chúng ta đã biết, bí
tích Giải tội chính là bí tích của lòng thương xót, nhờ đó mà chúng ta sẽ được
Chúa tha thứ. Và tòa giải tội chính là nơi để chúng ta gặp gỡ và làm hòa cùng
Thiên Chúa.
Có một người khô khan nguội lạnh,
tới gặp một vị linh mục và nói: Thưa cha con tội lỗi nặng nề lắm, chỉ có một
cách là thắt cổ chết quách đi cho rồi. Vị linh mục dẫn người đó tới chân tượng
thánh giá và hỏi:
Ai chịu chết trên đó?
- Thưa, Chúa Giêsu.
Tại sao Ngài lại chịu chết?
- Thưa, để cứu chuộc nhân loại.
Vậy trong nhân loại có con hay
không?
- Thưa, có.
Thế là người đó thêm niềm cậy
trông, giục lòng ăn năn, xưng thú tội lỗi và tìm lại được sự bình an cho tâm
hồn.
Hãy xa tránh tội lỗi để tâm hồn
được bình an, đồng thời hãy ăn năn sám hối để lấy lại được tình nghĩa của Chúa.
Phong cùi
Bệnh phong cùi ngày nay không còn
là một chứng bệnh nan y, nếu được chữa trị theo đúng phương pháp. Số người mắc
bệnh cùi ở Việt Nam vẫn còn nhiều, khoảng 20.000 người. Họ thường phải sống ở
những nơi xa xôi hẻo lánh. Đa số bệnh nhân bị tật nguyền, không thể mưu sinh.
Nói chung, họ luôn thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nhà ở cũng như thiếu tình thương
chăm sóc.
Phần lớn trong họ chưa biết Chúa,
nên trước những đau khổ thân xác và tinh thần, họ dễ rơi vào cảnh tuyệt vọng.
Đã có những tấm lòng nhân hậu, noi gương Chúa Giêsu, cúi xuống trên nỗi bất
hạnh của họ. Chẳng hạn các tu sĩ nam nữ, các giáo dân thiện chí tại những trại
phong cùi, rải rắc trên toàn đất nước.
Thế nhưng, trong bối cảnh của xã
hội Do Thái cách đây hơn 2000 năm, thì phong cùi quả là một chứng bệnh khủng
khiếp. Họ bị đồng hóa với những kẻ bị Thiên Chúa trừng phạt. Kiếp sống của họ
thật đáng thương. Họ phải mặc quần áo tả tơi, tóc tai phải bù xù, râu mép phải
che lại. Họ bị xua đuổi khỏi cộng đoàn, sống tách biệt trong những nơi hoang
vắng và nếu có đi tới đâu, thì phải kêu lớn tiếng: Tôi nhơ bẩn, để người khác
nghe thấy mà tránh cho xa. Người mắc bệnh phong cùi như thế bị coi như là một
người đã chết ngay khi còn đang sống. Họ chỉ là như một thây ma biết di động mà
thôi.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay kể lại
câu chuyện một người phong cùi đến gặp Chúa Giêsu. Anh ta đã làm một điều táo
bạo vượt ra ngoài luật lệ cho phép. Điều duy nhất khiến anh ta có can đảm để
làm như vậy, đó là lòng tin vào Chúa Giêsu, một người mà anh đã được nghe nói
đến. Anh ta không sợ mình làm cho Ngài bị nhơ bẩn, nhưng anh ta hy vọng chính
Ngài sẽ làm cho anh được sạch. Lòng tin này khiến anh quỳ gối xuống trước mặt
Ngài và kêu van:
- Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm
cho tôi nên sạch.
Tất cả ước mơ của anh là được
khỏi bệnh, trở nên lành sạch, được làm một con người bình thường, nối lại những
liên hệ với xã hội. Anh tin là Ngài có thể làm được chuyện lớn lao đó, miễn là
Ngài muốn.
Trước tình cảnh bi đát này Chúa
Giêsu đã động lòng thương, Ngài đã đưa tay ra đúng vào con người anh ta. Và
Ngài trả lại cho anh ta toàn bộ những gì đã mất. Chúa Giêsu không ngại nhơ bẩn,
bởi vì Ngài đã để cho lòng thương xót trào dâng.
Đoạn Tin Mừng trên đòi chúng ta
phải thay đổi thái độ đối với những kẻ bất hạnh. Nếu hiểu phong cùi là chứng
bệnh hiểm nghèo làm cho nên ghê tởm, thì trong xã hội còn biết bao nhiêu thứ
phong cùi khác nữa. Chẳng hạn những người nghiện ma túy, những người trộm cắp
từng vào tù ra khám, những người mắc bệnh Siđa… Chúng ta dễ có thái độ coi
thường và xa tránh. Nhiều khi họ muốn trở nên lành sạch, muốn mọi người quên đi
cái dĩ vãng lầm lỡ của họ và làm lại cuộc đời, nhưng chúng ta lại không tin là
họ có thể thực hiện được điều ấy. Chúng ta phê phán cái bề dầy của dĩ vãng,
chúng ta khinh bỉ và chê trách họ.
Chúa Giêsu đã đưa tay động tới
người phong cùi và chữa lành cho anh ta. Ước mong phép lạ Chúa Giêsu ngày xưa
được kéo dài bằng thái độ yêu thương và chăm sóc của chúng ta.
Sự chấp nhận
Chắc hẳn rằng bệnh phong hủi là
một căn bệnh khủng khiếp, nhưng không khủng khiếp bằng cảm giác không được yêu
thương, không ai mong muốn mình bị ruồng bỏ. Một trong những điều tệ hại nhất
có thể xảy ra cho một con người, đó là bị xua đuổi. Sự xua đuổi gây tổn thương
cho bất cứ cảm xúc hoặc tâm trạng nào khác. Điều này làm tổn hại đến giá trị
bản thân, khiến cho người ta cảm thấy mình vô giá trị. Sự xua đuổi còn làm cho
người ta muốn co rút lại hoặc công khai nổi loạn. Trong một bộ lạc ở Châu Phi,
có một hình phạt chủ yếu là tẩy chay.
Sự xua đuổi gây tác hại đối với
trẻ con, người lớn tuổi, người tật nguyền… Đối với một đứa trẻ, tình trạng bị
cha mẹ bỏ rơi tương đương với cái chết. Người lớn tuổi sợ hãi bị bỏ rơi, còn
hơn là tất cả những bệnh tật của họ. Những vết thương nặng nề nhất gây ra cho
người bị tật nguyền, không phải là do những hạn chế của họ về mặt thể lý hoặc
tâm lý, nhưng là do tình trạng bị bỏ rơi mà họ đã từng trải qua. Những người
làm công việc sáng tạo (các nhà văn, nghệ sĩ v.v…) đều là những người nhạy cảm,
dễ cảm thấy đau khổ, bất chấp những thành công mà họ đã đạt được. về một phương
diện nào đó, mỗi người chúng ta đều đã từng cảm thấy nỗi đau bị khước từ.
Có những cách để tự cô lập mình
khỏi tình trạng bị khước từ - phiêu lưu đôi chút, không muốn (không cần) gì cả,
tránh né các mối quan hệ. Dường như tốt hơn là nên xây dựng những bức tường, và
tránh né các mối quan hệ, hơn là liều mình chịu đau khổ vì bị khước từ. Nhưng
điều này cũng giống như việc cưa chân đi, để khỏi cần phải mang giày.
Người đàn ông tiến lại gần Đức
Giêsu là một người đã bị ruồng bỏ. Vì là một người phong hủi, nên anh ta bị bắt
buộc phải sống bên ngoài cộng đồng. Thậm chí người ta còn không được đụng chạm
vào anh ta. Vào thời kỳ đó, bệnh tật bị coi như một sự trừng phạt vì tội lỗi.
Do đó, người ta coi người phong hủi cũng bị cả Thiên Chúa ruồng bỏ. Nỗi đau khổ
tệ hại nhất của người phong hủi không phải là căn bệnh phong hủi, nhưng chính
là nỗi đau bị tất cả mọi người ruồng bỏ.
Khi chúng ta khước từ người nào,
là chúng ta đang thực sự cư xử với họ giống như những “người phong hủi”, mặc dù
chúng ta không ý thức về điều đó. Chúng ta có thể khước từ một người, theo
những cách thế nhỏ bé nhưng tinh tế - bằng một giọng nói hoặc thậ chí chỉ bằng
một cái nhìn của chúng ta. Nhưng những chuyện khó chịu nhỏ nhặt do bị khước từ,
lại có thể tích lũy thành những hậu quả trầm trọng lâu dài.
Điều thú vị không phải là việc
Đức Kitô chữa lành người phong hủi, nhưng là cách Người chữa lành cho anh ta.
Vì bị tất cả mọi người loại trừ và ruồng bỏ, nên những kẻ phong hủi bắt buộc
phải rung chuông báo hiệu mọi người, mỗi khi người đó ra đường; không một ai
muốn đến gần họ, vì sợ bị lây nhiễm, và bị qui cho là không tinh sạch.
Nhưng Đức Giêsu lại bỏ qua tất cả
điều này. Người đã động lòng thương, khi nhìn thấy hoàn cảnh khó khăn của người
phong hủi. Đức Giêsu cho phép người đó đến gần Người. Thật ra Người đã làm một
điều mà không ai ngờ: Người tiến lại gần và đụng chạm vào anh ta. Bằng cách đó,
Người đem đến cho anh một dấu hiệu đón tiếp, và chấn chỉnh nơi anh ta ý tưởng
rằng mình là người dơ bẩn, không xứng đáng, và không là gì cả, mà chỉ là một
hạng người thừa. Trước khi chữa lành cho thân xác tan nát của anh, Người đã
chữa lành sự nhận thức đầy mặc cảm nơi anh.
Đức Giêsu chấp nhận người phong
hủi đúng theo con người của anh. Sự chấp nhận là một câu trả lời cho sự khước
từ. Đây là một trong những điều thân ái nhất có thể xảy ra cho chúng ta. Khi
chấp nhận, chúng ta có cảm giác rằng con người mình có giá trị.
Mỗi người chúng ta đều khát khao
được chấp nhận con người của mình. Chính sự quí mến và chấp nhận của người
khác, làm cho chúng ta được là con người duy nhất theo đúng bản chất của mình.
Khi chúng ta cho rằng mình làm việc chỉ vì công việc, rằng người khác cũng có
thể làm cùng một công việc đó, thậm chí còn tốt đẹp hơn chúng ta, thì chúng ta
không phải là con người duy nhất. Nhưng khi chúng ta chấp nhận con người của
mình, thì chúng ta có khả năng nhận ra được đầy đủ tiềm năng nơi bản thân mình.
Đây là cách Đức Giêsu chấp nhận
người phong hủi, và chấp nhận chúng ta. Và đến lượt mình, đây cũng là cách thế
mà chúng ta phải học hỏi, để biết chấp nhận người khác, và tiếp cận với những
người đang phải chịu đựng nỗi đau khổ tình trạng bị khước từ. Đến lượt mình,
chúng ta phải có thể nhen nhúm lại niềm hy vọng, mang lại niềm say mê vui sống
nơi người khác, và rồi từ đó, chúng ta phản ánh được một cách mờ nhạt về lòng
thương xót vô biên của Thiên Chúa.
Đức Giêsu chữa người bị phong cùi
JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. So với những người Do Thái
thường tình, cách đối xử của Đức Giê-su đối với những người cùi hủi có gì khác
lạ? Ta có thể rút ra bài học gì về cách xử sự với những người xấu số, bị người
đời khinh ghét, ghê tởm?
2. Đức Giê-su có phân biệt đối xử
dựa trên giàu nghèo, sang hèn không? Sự phân biệt đối xử như thế chứng tỏ một
tình trạng tâm linh thế nào?
3. Tại sao Đức Giê-su lại yêu cầu
người cùi được Ngài chữa lành đừng nói gì về việc Ngài đã làm cho anh ta?
4. Làm được một việc lành mà lại
muốn khoe cho người khác biết thì ta được lợi gì về mặt tâm linh? Thiên Chúa
đánh giá việc làm của con người dựa trên cái gì?
Suy tư gợi ý:
1. Thái độ của Đức Giê-su đối với
những người bệnh cùi: yêu thương và tôn trọng người xấu số
Bệnh cùi là một bệnh rất dễ lây
truyền, mà ở vào thời Đức Giê-su, lại là một bệnh nan y không có thuốc chữa. Nếu
không có biện pháp cách ly những người bệnh cùi khỏi những người không bệnh,
thì thật là nguy hiểm cho xã hội. Vì thế, luật Môsê (x. Lv 13,1-14,57) chủ
trương buộc những người lãnh đạo trong dân phải cô lập họ ở một nơi nhất định,
thường là hẻo lánh, đồng thời tuyên bố những người nhiễm bệnh này là người ô
uế, để mọi người tránh xa họ. Ai tiếp xúc với họ thì cũng trở thành ô uế. Nhưng
người cùi nhiều khi lại không chịu ở nơi qui định cho họ, mà lại hay đi lang
thang để xin ăn, hoặc tìm cách gặp thân nhân của mình. Vì thế, để buộc họ phải
tránh xa mình, một số dân chúng đã ném đá họ khi gặp họ trên đường đi. Do đó,
người bị bệnh cùi phải sống một cuộc sống hết sức cô đơn, khốn khổ, thiếu thốn,
và đầy mặc cảm vì bị mọi người ghê tởm, xa lánh.
Nhưng theo Đức Giê-su, dù thân
hình họ xấu xa gớm ghiếc, họ vẫn là con cái Thiên Chúa, là con cháu của
Áp-ra-ham, là đồng bào ruột thịt, nên họ vẫn là anh chị em với mình. Vì thế,
mình cần phải yêu thương họ, phải đối xử với họ bằng tình thương. Vả lại, không
vì hình thể gớm ghiếc bên ngoài mà giá trị con người của họ bị suy giảm trước
mặt Thiên Chúa. Đối với Đức Giê-su, người biết nhìn vào chiều sâu của tâm hồn
con người, thì họ không đáng gớm ghiếc và xa lánh cho bằng những người cùi hủi
về mặt tâm linh. Cùi hủi tâm linh là tình trạng của những con người sống không
biết đến tình nghĩa, sống ích kỷ, chỉ nghĩ tới hạnh phúc hay đau khổ của một
mình mình hay của gia đình mình, không hề nghĩ đến hạnh phúc hay đau khổ của
người khác, hay của những gia đình khác. Họ sẵn sàng có những hành động bỉ ổi
để đè nén hay áp chế người khác, và cách hành động của họ thường là «ném đá dấu
tay», «khẩu Phật tâm xà». Càng là người trí thức, càng có địa vị cao trong tôn
giáo và xã hội, sự cùi hủi này càng được ngụy trang một cách tinh vi, khéo léo
bằng những lời nói, hành động vị tha, bằng vẻ đạo đức bên ngoài (x. Mt 23). Đức
Giê-su càng tỏ ra an ủi vỗ những người cùi hủi thể chất bao nhiêu, Ngài càng
không tiếc lời khiển trách những người cùi hủi tâm linh bấy nhiêu, thậm chí đến
«cạn tàu ráo máng» (x. Mt 23).
Khi người cùi hủi đến cầu cứu Đức
Giê-su, Ngài không hề tỏ ra ghê tởm hay xúc phạm đến anh. Trái lại, Ngài «chạnh
lòng thương và giơ tay đụng vào» người anh và nói: «Tôi muốn anh được sạch!» Ta
đừng vội nghĩ rằng Ngài là Thiên Chúa nên Ngài không sợ lây nhiễm, hay có lây
nhiễm thì Ngài sẽ dùng phép lạ để tự chữa. Tôi nghĩ rằng Ngài là «người» thật
sự, đúng nghĩa một con người, nghĩa là có thể bị lây nhiễm như bao người khác.
Và nếu bị lây nhiễm, không hẳn Ngài sẽ dùng quyền phép Thiên Chúa để tự chữa
cho mình, cũng như Ngài đã không lạm dụng quyền năng Thiên Chúa để biến đá
thành bánh mà ăn khi đói (x. Mt 4,2-4), hay để trốn thoát khi bị bắt (Mt
26,47-56), v.v... Tốt hơn, nên nghĩ rằng Ngài đối xử với anh ta bằng một tình
yêu chân thành nhất, bằng sự tôn trọng đúng nghĩa nhất của một con người đối
với một con người, bất chấp phải trả giá đắt. Và đó là điều ta nên noi gương Ngài
khi đối xử với mọi người, nhất là với những người xấu số, bị xã hội coi thường,
khinh bỉ. Đạo đức của ta có hay không, ít hay nhiều hệ tại điều này. Sự phân
biệt đối xử căn cứ trên giàu nghèo, sang hèn chứng tỏ một tâm hồn nghèo nàn về
đạo đức và tâm linh.
2. Thái độ của Đức Giê-su: không
muốn ai biết về mình
Bài Tin Mừng cho thấy, sau khi
chữa lành căn bệnh nan y như thế, Ngài nói với người được chữa lành: «Đừng nói
gì với ai cả». Đó là một thái độ thường hằng của Ngài sau khi làm được một điều
gì đáng khen ngợi, thậm chí đến kinh ngạc: Ngài không muốn được người khác biết
đến (x. Mt 8,4; 16,20; 17,9; Mc 1,34; 1,44; Lc 4,41), trì phi vì ích lợi cho họ
(chẳng hạn để họ được cứu rỗi). Ngài đã áp dụng đúng điều Ngài khuyên mọi
người: «Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương
cho thiên hạ thấy. Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm» (Mt
6,1.3).
Thử đặt mình vào địa vị của Ngài
khi làm xong một việc mà không ai làm được, ta sẽ cảm thấy ta muốn được nổi
tiếng, được mọi người ca tụng hay khen ngợi, hầu đi tới đâu ta cũng được khâm
phục, kính trọng và được đối xử một cách đặc biệt. Ta cũng mong có những đặc
quyền đặc lợi vì những việc phi thường đã làm được. Khi viết được một bài báo
hay, giảng được một bài mà ta đoán được nhiều người tâm đắc, làm được một việc
tốt, ta mong chờ những lời khen ngợi. Nếu không được khen, ta cảm thấy như bị
hụt hẫng, lòng không thỏa mãn. Ta muốn «cái tôi» của ta được phình to lên, to
hơn những người khác.
Xét trên bình diện tự nhiên, đó
là một khuynh hướng rất thường tình, rất phổ quát, khá lành mạnh, nó tạo nên
động lực để ta cố gắng, nỗ lực hết mình. Tuy nhiên, nếu để khuynh hướng tự
nhiên này ảnh hưởng quá đáng trên tất cả mọi việc làm, đến nỗi nó trở thành
động lực duy nhất thúc đẩy ta hành động tốt, thì ta trở nên một con người rất
tầm thường, dù ta có làm được những việc phi thường. Lúc đó, ta làm mọi sự chỉ
là để được khen, được nổi tiếng, một mục đích hoàn toàn vị kỷ, chứ không còn vì
yêu thương, vì ích lợi cho người khác nữa.
Còn xét trên bình diện siêu
nhiên, khuynh hướng này có thể trở thành một mầm nguy hại cho sự phát triển tâm
linh, đạo đức. Theo định luật của tâm linh, muốn cho tâm linh lớn lên, phát
triển, thì «cái tôi» phải nhỏ đi, nghĩa là phải sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình,
quên mình. Đời sống tâm linh càng cao, thì động lực thúc đẩy ta hành động càng
phải vị tha, càng phải «vô kỷ, vô công, vô danh » (=không làm vì mình, làm xong
không cậy công, không mong được người khác biết mình đã làm).
3. Cách Thiên Chúa đánh giá việc
làm của con người
Sự thánh thiện của một người được
đánh giá theo mức độ vị tha, quên mình khi hành động. Động lực thúc đẩy hành
động của một người thánh thiện chính là tình yêu đối với Thiên Chúa và tha
nhân. Càng thánh thiện thì động lực thúc đẩy càng phải thuần túy là tình yêu
hơn, và càng ít tính chất vị kỷ đi. Chính tình yêu làm cho hành động - dù nhỏ
hay lớn - trở nên có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Thánh Phao-lô viết: «Giả như
tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu,
hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có tình yêu, thì
tôi cũng chẳng là gì cả. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí,
hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không vì yêu thương, thì cũng
chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,2-3). Như thế, những việc có vẻ đầy tình thương
như «đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí», nếu ta làm chỉ vì mong được tiếng là
đạo đức, là thương người, hay để được một lợi ích nào đó cho bản thân ta, chứ
hoàn toàn không vì yêu thương, thì chẳng có giá trị gì trước mặt Thiên Chúa. Nó
chẳng phải là một việc đạo đức, mặc dù có vẻ rất đạo đức.
Câu nói trên của thánh Phao-lô
cho thấy: một việc làm dù rất nhỏ như quét nhà, giặt giũ, nấu bếp của một người
vợ hay người con trong nhà, nếu được làm với tâm tình yêu mến Thiên Chúa, nhằm
làm cho những người thân yêu của mình tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn, thì có thể có
giá trị rất lớn trước mặt Thiên Chúa. Những việc làm nhỏ bé được làm với tình
yêu ấy rất có thể giá trị trước Thiên Chúa hơn cả những việc làm hết sức lớn
lao của những bậc vị vọng trong xã hội cũng như Giáo Hội, nếu những người này
làm chỉ vì muốn được danh tiếng, được thăng quan tiến chức, chứ không phải vì
yêu thương.
Cứ xem cách đánh giá của Đức
Giê-su khi quan sát những người bỏ tiền vào thùng dâng cúng cho đền thờ thì
thấy rõ cách định giá trị của Thiên Chúa đối với các việc làm của con người:
«Bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết» (x. Mt 12,41-44). Cách Ngài
đánh giá khác hẳn với cách của con người. Ngài dựa trên tấm lòng, động lực thúc
đẩy hành động, chứ không dựa trên hiện vật hay kết quả của hành động. Cùng một
việc làm, nhưng động lực tình yêu càng lớn, thì giá trị công việc càng cao. Chỉ
có Thiên Chúa mới có thể đánh giá chính xác giá trị của một hành động, vì chỉ
Ngài mới biết rõ động lực thúc đẩy của hành động ấy là gì.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giê-su luôn luôn tự
đồng hóa Ngài với tha nhân của con, nhất là với những người bé mọn, đau khổ
nhất (x. Mt 25,40.45; Lc 9,48). Xin cho con biết yêu thương và cư xử với những
người bị thế gian coi thường ấy như với chính Cha và Đức Giêsu vậy
Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
CHỮA NGƯỜI PHUNG HỦI
Trình thuật khởi đầu một cách đầy
bất ngờ, chẳng xác nhận thời gian lẫn nơi chốn (c. 40a). Đặc biệt động từ “đến”
được dùng ở thì hiện tại lịch sử. Chắc chắn Maccô muốn nêu bật giá trị “hiện
thực” của biến cố này cho bản văn của ông. Thêm vào đó, ngay nơi bản văn cũng
đưa ra cho độc giả một vài vấn nạn. Tại sao Chúa Giêsu lại đuổi thẳng thừng anh
chàng vừa được Ngài chữa lành? (c. 43). Tại sao anh chàng phung hủi vừa được
chữa lành lại dám bất tuân không giữ lệnh Chúa truyền cho anh ta phải giữ kín
miệng? (c. 45). Các nghịch lý này hẳn sẽ tác hại cho sự mạch lạc của bản tường
trình có tính trực tiếp như thế nếu chúng không được giải thích đầy đủ trong
nhãn quan của một sự cố được đọc lại dưới ánh sáng đức tin. Chúng ta sẽ thấy rõ
điều này.
Người bệnh tiến đến gần Chúa
Giêsu, khiêm tốn, tin cậy van xin: anh ta quỳ gối xuống trước mặt Chúa, nài xin
Chúa chữa lành nếu Chúa muốn (c. 40b). Muốn hiểu được lời thỉnh cầu này, chúng
ta phải biết rằng vào lúc bấy giờ, người phung hủi là kẻ hoàn toàn bị “khai
trừ” khỏi xã hội. Mắc phải
một chứng bệnh nặng nề và ô nhiễm như thế, kẻ ấy phải sống ngoài lề cộng đoàn
của mình. Ngay từ thời xa xưa trong quá khứ, người ta đã đề ra những biện pháp
phòng ngừa kỹ lưỡng nhất để tránh mọi sự đụng chạm thể xác giữa những người
khỏe mạnh và loại người mắc bệnh đáng tởm này. Bức chân dung được luật Môsê vẽ
ra về loại bệnh nhân này tố cáo sự khai trừ mãnh liệt của Lề Luật như sau: “Một
khi mắc chứng bệnh này, kẻ phong hủi phải mặc quần áo tả tơi, tóc tai xõa
xuống, râu mép để dài và phải la lớn: “Ô uế, ô uế!”. Bao lâu còn mắc bệnh thì
kẻ ấy vẫn phải sống tách biệt, phải ra ngoài đồng vắng mà ở” (Lv 13,45-46). Thực thế, trong
Kinh Thánh, bệnh hủi không những chỉ là thứ bệnh gây kinh hãi, gặm nhấm và làm
biến dạng hình hài bệnh nhân (đến nỗi thấy kẻ ấy người ta phải che mặt), nó còn
là thứ bệnh mang chiều kích tôn giáo. Kẻ mắc bệnh này bị xem như đã phạm một
trọng tội nên bị Chúa trừng phạt. Một số giáo sĩ đương thời Chúa Giêsu còn dám
phóng đại cho rằng bệnh hủi dùng để trừng phạt bảy mối tội đầu như: vu khống,
giết người, làm chứng gian, ham trụy lạc, kiêu căng, trộm cắp và tham lam. Từ
thời xửa thời xưa, người phong hủi bị mọi người kể như là một xác chết biết di
động. Bị phung hủi là lập tức bị khai trừ, và bị ruồng bỏ như một thây ma đầy
“ô uế”, nghĩa là không thể thông giao với Thiên Chúa cũng như với loài người.
Chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa lành được thứ bệnh này. Ngài đã dùng nó như
hình phạt thì chỉ Ngài mới có thể giải thoát bệnh nhân khỏi hình phạt đó (xem
Cuộc đời Myria, em gái Môsê trong Ds 12,1-16).
Thế mà người ta trông thấy Chúa
Giêsu đã phản ứng như thế nào trước lời van xin của kẻ phung hủi bị khai trừ
khỏi xã hội và cộng đoàn (c.41). Cử chỉ của Chúa Giêsu thật đơn sơ nhưng tràn
đầy ý nghĩa: Ngài dám đưa tay chạm đến kẻ mà không ai dám sờ đến. Và lời Ngài
mang uy lực lời nói của Thiên Chúa: Ngài nói và sự việc xảy ra đúng theo lời
Ngài (c. 42).
Khi tường thuật lại sự cố này,
hẳn Maccô đã chủ ý mang lại cho nó trọn vẹn một trong số các dấu chỉ giúp người
ta nhận ra việc khánh thành thời đại Đấng Mêsia (x. Mt 11,1-5, câu trả lời của
Chúa Giêsu cho các sứ giả của Gioan Tẩy Giả). Như vậy, Đấng Mêsia, Đấng hồi
phục trọn vẹn sức khỏe thể lý và thiêng liêng cho con người, hiện đang có mặt ở
đây. Tuy nhiên, một lần nữa, người ta lại ngạc nhiên về tiến trình gặp gỡ giữa
Chúa Giêsu và bệnh nhân được chữa lành (c. 43-44a). Hành vi của vị đạo sư quả
là cứng cỏi. Ngài đuổi anh chàng trước đó bị mắc bệnh phung hủi: động từ trong
tiếng Hy Lạp ở đây có nghĩa là “xua đuổi, trục xuất”. Chính Maccô đã dùng động
từ này để chỉ việc trục xuất ma quỷ (1,34-39’ 3,15-22; 6,13 v.v…). Sự thô bạo
của Chúa Giêsu đi kèm theo mệnh lệnh nghiêm khắc truyền giữ kín miệng, nghĩa là
truyền anh ta phải giữ “Bí mật của Đấng Thiên Sai”. Vị Đạo Sư không muốn người
ta hiểu sai ý nghĩa sứ mệnh của Ngài. Ngài không phải là gã phù thủy mà họ mong
ước đến để tiêu hủy mọi sự dữ trên trái đất. Họ chỉ có thể thực sự hiểu được
bản thể và sứ mệnh sâu sắc của Ngài dưới ánh sáng cuộc tử nạn và Phục Sinh của
Ngài.
Trình thuật tiếp tục với lời Chúa
Giêsu yêu cầu người trước đây bị phung hủi: “Hãy đi trình diện tư tế…” (c. 44b). Khi sai anh ta đến
trình diện thầy tư tế, Chúa Giêsu muốn bảo đảm cho anh ta được tái hội nhập vào
cộng đoàn tôn giáo. Chính thầy tư tế là người chính thức được đặc cách để chuẩn
nhận việc anh ta được lành bệnh (Lv 14,1-9 và tiếp theo). Chu toàn nghi thức
như thế trước các vị đại diện dân chúng không khác nào đưa ra “bằng chứng” cho
dân Do Thái biết rằng Chúa Giêsu đã hoàn tất niềm mong đợi lâu dài về Đấng
Mêsia. Từ đó họ phải kết luận ra rằng thời gian cứu độ đã đến.
Tuy nhiên đây quả là điều làm
chúng ta ngạc nhiên: Anh chàng phung hủi đã vi phạm lệnh Chúa truyền phải nín
lặng về trường hợp khỏi bệnh của anh ta (c. 45a); Anh ta vẫn cứ “công bố” tin này ra; đây chính là động từ
được dùng để diễn tả việc công bố Phúc âm. Rõ ràng ở đây Maccô đã “ nhảy qua”
thời đại Chúa Giêsu để đặt các độc giả của ông vào “hiện thực tính”. Người từng
bị phung hủi trước kia giờ đã trở thành một loại thừa sai loan báo Tin Mừng.
Khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại thì “Bí mật Mêsia” không cần giữ kín nữa.
Giờ đây, sau khi được các biến cố cứu độ soi sáng, theo gương anh chàng phung
hủi được Chúa Giêsu chữa lành, các độc giả được mời gọi loan báo sứ điệp giải
phóng vui mừng của Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, khi kết thúc trình
thuật này, Maccô đã trở về lại với thời đại Chúa Giêsu. Vì hành vi cứu độ này
cũng như vì bị dân chúng đồn ầm lên, vị Đạo Sư bó buộc phải lẩn trốn đám đông
đang từ khắp nơi tuôn đến với Ngài (c. 45b). Lúc khởi đầu câu chuyện là một
bệnh nhân đơn độc bạo Gioan tiến đến gần Chúa Giêsu. Vào đoạn kết là một đoàn
người đông đúc tuôn đến gần vị lương y. Đối với đám đông này, cũng như đối với
độc giả, câu hỏi được nêu lên như sau: “Người này là ai mà có thể đem lại vị
trí cũ cho những kẻ bị khai trừ, giúp họ thông hiệp với Thiên Chúa và với cộng
đồng anh em bè bạn của họ?”.
Chú giải của Noel Quesson
Có người bị phong hủi đến gặp gỡ
Đức Giêsu... và dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người.
Theo lối hành văn Sêmít cổ xưa,
mà người ta gọi là “gom kết" lại, thì trang Tin Mừng của Mác-cô trên đây
được đóng khung trong hai câu giống nhau. Ở đầu trình thuật ông diễn tả một
bước chân của cá nhân. Kết thúc trình thuật, ta thấy nhiều người đến từ khắp
nơi.
Đức Giêsu, là chính Thiên Chúa
đến gặp gỡ con người. Nhưng con người, cũng phải đến gặp gỡ Thiên Chúa. Lạy
Chúa, xin dẫn con đến gặp gỡ Chúa.
Anh ta quỳ xuống van xin rằng:
"Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch".
Đừng quên chúng ta mới ở chương
đầu của Tin Mừng Maccô. Con người đó thật là mạnh dạn, hay anh ta đã có một
lòng tin phi thường. Anh ta làm một cử chỉ: thưa gửi vài lời. Đó là những gì mà
người ta thường chỉ có thể làm và nói với một mình Thiên Chúa.
Thực tế vào thời đó, bệnh phong
hủi vẫn còn là một thứ bệnh không thể chữa trị được. Việc chữa lành người phong
hủi là một thứ kỳ công giống như việc phục sinh một người chết. Đó là một trong
những "dấu chỉ" của thời Thiên Sai (Mt 11,25; Lc 7,18-22). Thái độ
khiêm tốn phủ phục của người phong hủi biểu lộ lòng tin của anh nơi Đức Giêsu.
Đúng vậy, có những tình huống mà cách cầu cứu duy nhất là "kêu xin"
Thiên Chúa, Đấng làm chủ tất cả, ngay cả những gì con người không thể thực hiện
được: "Thưa Ngài, Ngài muốn là Ngài chữa tôi được khỏi bệnh”. Đó là một
lời nguyện xin cần được lặp đi lặp lại.
Động lòng thương trước người đó.
Ở đây bản thảo Hy Lạp giữ hai từ:
"splagknisteis" có nghĩa là động lòng thương, xốn xao lòng dạ, cảm
động đến tận tâm can, và "orgisteis" có nghĩa là "nổi
giận". Thiếu gì dịp Maccô đã sử dụng rất chính xác từ "nổi giận"
nhưng ở đây thật là khó giải thích: Trường hợp một kinh sư, khó chịu trước kiểu
nói trên, có lẽ ông ta đã làm giảm nhẹ ý nghĩa. Nhưng vì cả hai "câu
dịch" đều có trong bản thảo, nên suy nghĩ về hai ý nghĩa, tưởng là không
vô ích. Tại sao Thánh Thần, Đấng linh hứng Kinh thánh, lại không có thể đi đến
mức đó, nghĩa là có thể sử dụng những sai lầm của những người sao chép Kinh
thánh để nói với ta? Dù sao, qua hai từ trên, chúng ta cũng nhận thấy một
"phản ứng rất nhân bản"! Việc nhập thể của Thiên Chúa thật là
"hiện thực", đi tới tình trạng chấp nhận cả những tình cảm của con
người tầm thường như thế: xót thương, giận hờn. Lạy Chúa. Xin tạ ơn Chúa vì đã
muốn cảm nghiệm những cảm xúc của chúng con và đã bầy tỏ cách công khai những
diễn biến tình cảm đó. Nổi giận ... "Thực ra điều đó ý nghĩa gì? Riêng
tôi, tôi thấy ở đó phản ứng tự nhiên của Thiên Chúa trước nỗi đau khổ của con
người". Đức Giêsu nhìn thấy tận mắt một khuôn mặt đáng thương bị các vết
thương mâng mủ làm biến dạng. Và Người không thể chịu nổi điều đó, Người nổi
giận. Đừng quên rằng, Đức Giêsu là Chính "Thiên Chúa hiện hình cụ
thể". Qua thái độ biểu lộ tính khí trên, Đức Giêsu muốn nói với ta rằng,
Thiên Chúa lên án định mệnh khắc nghiệt của con người, luôn bị bệnh tật tác hại
trên thân xác. Phẫn nộ, đó cũng là phẫn nộ của biết bao người, nhưng trước
"vấn đề sự dữ", họ chỉ biết chống đối mãnh liệt nhất đến nỗi phủ nhận
sự hiện diện của Thiên Chúa.
“Động lòng thương". Kiểu nói này ta có thể hiểu
ngay. Thực vậy, Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa vô cảm,
dửng dưng, nhưng là một Thiên Chúa dễ bị thương tổn một Thiên Chúa cùng chịu
khổ với nhưng người đau khổ, một Thiên Chúa mang trên mình những thương tích
của chúng ta (Is 53,5). Đấng "làm cho Thiên Chúa hiện diện cụ thể” nói cho ta biết tấm lòng trìu mến
của Thiên Chúa đối với bệnh nhân. Vậy khi nào chúng ta mới chấp nhận thế giới
này, như thực trạng hiện nay của nó, không thể "hoàn hảo" được? Chỉ
có mình Thiên Chúa là Thiên Chúa. Chỉ có mình Thiên Chúa là hoàn hảo. Thế gian
không phải là "Chúa”. Thế gian không thể hoàn hảo. Thiên Chúa đã không thể
làm khác hơn là tạo dựng một thế gian "không phải là Chúa nếu không Người
đã không làm được điều gì cả, và Người có thể sẽ muôn đời cô đơn. Do đó, Người
đã quyết định tạo dựng con người, được ghi dấu ấn "hữu hạn", rõ ràng
“không phải là Chúa". Và như thế, con người phải gánh chịu những rủi ro về
tình trạng sức khỏe suy sụp, với khả năng nguy hiểm trở thành phong hủi, điên
khùng, khi các nhiễm thể hoạt động lệch lạc. Cần phải có can đảm nhìn thẳng vào
"thế gian này". Nhưng, nếu Thiên Chúa tạo thành một tạo vật mang dấu
tích hạn hẹp và bất toàn, thì Người chỉ tạo dựng nó trong chương trình là một
ngày kia sẽ ban cho nó sự sống thần thiêng của Người.
Đối với Thiên Chúa, con người
chưa hoàn hảo, vì chưa được sống lại, chưa được thần hóa. Và sự dữ tác hại con
người; đã làm cho Người "nổi giận", đã khơi dậy "lòng thương
xót" của Người. Do đó, Đức Giêsu chữa lành một số người bệnh, như là một
"dấu chỉ" báo hiệu ngày cánh chung, lúc đó mọi sự "sẽ được hoàn
tất" (Rm 8,18).
Đức Giêsu giơ tay đụng vào anh ta
Chúng ta lại có dịp suy nghĩ đến
"bàn tay". Ở đây, đối với một người phong hủi, một người "không
ai được sờ động đến", thì cử chỉ của Đức Gìẽsu phải mang một ý nghĩa đặc
biệt vì không ai được sờ chạm, ôm ấp, vuốt ve họ bao giờ cả. Luật đã cấm như
thế. Ngay cả, khi một ai đó tiến lại sát kề họ, họ cũng phải kêu to lên để người
khác lánh xa: "Nhơ! Nhơ!": Thế mà ở đây, Đức Giêsu lại dám phá đổ một
điều cấm kỵ nguy hiểm đó: Người đụng chạm đến người phong hủi.
Người bảo: "Tôi muốn, tôi
cho anh được khỏi bệnh".
Đức Giêsu cứu chữa, nhờ một
"cử chỉ" và "bằng một lời phát biểu: Đó là nguyên lý để cử hành
mỗi bí tích. Chúng ta là những tạo vật có thể xác, và chúng ta cần đến những cử
chỉ trên thân xác. Khi chịu phép rửa, nước đổ trên trán chúng ta, thì một lời
cũng được đọc lên nói rõ ý nghĩa của cử chỉ đó. Trong Bí Tích Thánh Thể, khi
bánh ban sự sống chạm đến tay và liên hệ đến thân xác ta; thì đồng thời cũng có
một lời đọc nêu lên ý nghĩa: “Mình Thánh Đức Kitô".
Tôi cũng có thể dành một chút
thời gian để suy gẫm về lời phát biểu: "Tôi muốn!”. Ở đây, một lần nữa,
người dịch đã làm giảm nhẹ ý nghĩa bản văn chính thức bằng tiếng Hy Lạp của
Maccô (thật là đáng tiếc!). Người phong hủi đã không nói: "Nếu Ngài muốn
điều đó", nhưng là nếu Ngài muốn". Và Đức Giêsu cũng không đáp lại:
"Tôi muốn điều đó", mà là "Tôi muốn". Điểm quan trọng muốn
đề cao ở đây, không phải là đại danh từ "điều đó", những quyền năng
thuộc nguyên ý muốn của Đức Giêsu, nghĩa không nhấn mạnh đến điều mong muốn.
Ngay tức khắc, chứng phong hủi
biến đi, và anh ta được khỏi bệnh
Câu nói trên phản lại bối cảnh
văn hóa của thời đại, là Maccô lúc đó đang viết Tin Mừng. Đối với một người Do
Thái, bệnh phong hủi là một "hình phạt của Thiên Chúa", Đấng đã phạt
Mytiam, chị của Môsê (Ds 12,9).
Gêhadi, đầy tớ của Êlisê (2V
5,27), Ôdia, ông vua đầy tham vọng (2Sb 26,16). Bệnh phong hủi là chứng bệnh
gây sợ hãi, đến nỗi có người kinh sợ dù chỉ nhìn thấy một vết loang lổ trên
tường. Vì thế, sách Lê vi đã dành cả hai chương nói về bệnh này. Chứng bệnh làm
cho mặt và tay chân người bệnh thối rữa, chứng tỏ sự khủng khiếp của nó. Người
ta coi đó như sức tác hại của ma quỷ. Nói đúng ra, người bị phong hủi không
được sống thông hiệp với kẻ khác, bị loại ra khỏi cộng đoàn (Lv 13,1-6). Trong
chứng bệnh làm ung thối con người như thế, người ta coi đó là "biểu
tượng" của tội lỗi. Như thế, ai mà không bị phong hủi! Và ai sẽ cứu chữa
ta khỏi chứng bệnh ác độc đó? Thưa, đó là nhờ sự “tiếp cận" và
"lời" của Đức Giêsu. Lạy Chúa Giêsu Kitô, nhờ Mình Chúa xin cứu chữa
tâm hồn con người hôm nay. Hiện nay, vẫn còn hàng triệu người trong các nước
thuộc thế giới thứ ba mắc bệnh phong hủi.
Và giũa chúng ta trong những xã
hội tân tiến, vẫn cần tìm kiếm những bàn tay và những tấm lòng để thực hiện tác
động "chữa lành" của Đức Giêsu đối với biết bao người nghèo khó: Đó
là những người không có vẻ đẹp và ngoại hình lôi cuốn cái nhìn của kẻ khác, đó
là những kẻ bị gạt ra khỏi xã hội chúng ta, những trẻ em khuyết tật, những
người mắc bệnh nan y.
Người nghiêm giọng đuổi anh ta đi
ngay.
Đó là câu dịch chính xác theo
đúng bản văn của Maccô (nhưng ta cũng thấy có kiểu dịch làm giảm nhẹ ý nghĩa:
"Người cho anh ta ra về với lời cảnh giác nghiêm trọng"). Nếu tôn
trọng bản văn, thì Chúa Giêsu được giới thiệu cho ta ở đây, không phải là hạng
người "nhu mì", mà các bức ảnh thuộc thế kỷ trước đã trình bày cho
ta, nhưng là một con người đầy cương nghị.
Coi chừng, không được nói gì với
ai cả.
Như Đức Giêsu đã truyền cho quỷ
phải im lặng, Người cũng đòi buộc kẻ được ơn lạ phải im hơi lặng tiếng, kiểu
nói rất mạnh: "không gì hết", "không với một ai cả".
Đó là “bí mật Thiên Sai" nổi
tiếng, đã được Maccô lặp đi lặp lại tới 10 lần trong Tin Mừng của ông. Do đó,
hầu như Đức Giêsu tránh làm phép lạ, vì thường bị người ta hiểu lầm! Người Do
Thái (và cả chúng ta nữa!) dễ mong đợi một Đấng Mêsia theo kiểu trần gian. Từng
đám đông tuôn đến với hy vọng rằng, Đức Giêsu có thể mang lại cho họ hạnh phúc
đời này, Người có thể giải quyết những vấn đề thuộc sức khỏe, hay khôi phục nền
độc lập có tính chính trị. Đúng vậy, đối với Đức Giêsu, làm phép lạ thật là
nguy hiểm! Điều đó có thể làm hỏng sứ vụ của Người, hay có thể làm cho người ta
hoàn toàn hiểu sai ý nghĩa. Các phép lạ có thể làm cho nhiều người tưởng rằng,
Nước Thiên Chúa chỉ bao gồm một thứ hạnh phúc tầm thường. Đúng ra, công cuộc
cứu độ thực sự việc cứu rỗi triệt để, mà Đức Giêsu trình bày, chỉ có thể được
hiểu tường tận dưới ánh sáng tử nạn và phục sinh của Chúa. Cần phải chờ đợi đến
lúc đó để không còn lầm lẫn nữa về bản chất của công cuộc "giải
phóng" con người, mà Đức Giêsu chủ động thực hiện! Còn những việc chữa
bệnh chỉ là cách loan báo sự sống lại .
Nhưng lo đi trình diện tư tế, và
vì anh đã được khỏi bệnh, thì hãy dâng của lễ như ông Môsê đã truyền để làm
chứng cho người ta.
Đức Giêsu truyền cho người được
ơn lạ phải im lặng, không được lộ chuyện với dân chúng, đồng thời Người cũng
trao cho anh trách nhiệm phải đến gặp các tư tế. Đây là việc rất cần thiết, để
có thể tái hội nhập vào xã hội. Nhưng hơn nữa, Đức Giêsu còn muốn mở mắt các tư
tế ở Giêrusalem là những người sẽ kình chống Người kịch liệt. Cho họ dấu chỉ
thiên sai qua việc chữa lành người phong hủi, để họ sẽ không có lý do nào biện
minh khi họ kết án Người. (Ga 15,22).
Nhưng vừa ra khỏi đó, anh ta đã
vội công bố và tung tin ấy ra; đến nỗi Đức Giêsu không thể công khai vào thành
nào được, mà phải ở lại những nơi vắng vẻ ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi
tuôn đến với Người.
Đối với Maccô. “Lời" được
công bố trên đây là một thuật ngữ, được ông sử dụng tới 10 lần khác nhau trong
Tin Mừng: đó là Phúc Âm, là Tin Mừng. Dù bị Đức Giêsu ngăn cấm, nhưng ta thấy
người được cứu chữa, khi đến lượt mình lại trở nên "kẻ cứu độ" người
khác. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có công bố Lời Chúa không? Một lần nữa, ta
chiêm ngắm tình yêu Đức Giêsu dành cho bầu khí cô tịch, cho những "nơi
hoang vắng". Người thực sự là hình ảnh của Thiên Chúa, một Thiên Chúa kín
mật, một Thiên Chúa không gây ồn ào, một "Thiên Chúa ẩn giấu”.
Một Vị Thiên Chúa Vượt Trên Lề Luật, phong tục...
Mc 1,40-45
An Phong, OP
Tin mừng hôm nay thuật lại việc
Chúa Giêsu chữa lành cho một người phong cùi. Người đã bộc lộ dung mạo của một
vị Thiên Chúa vượt lên trên tất cả mọi phong tục, tập quán, lề luật, định chế
xã hội… Bởi một lẽ duy nhất là vị Thiên Chúa của Tin mừng là vị Thiên Chúa dám
nghĩ, dám làm, dám sống.
Sách Lê vi, chương 13, câu 45-46
có viết : “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu ria và
kêu lên : ‘Ô uế ! Ô uế !’. Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế : nó phải
ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại”. Theo sách Talmud -
Babilon, họ đi vào nhà nào là mang ô uế vào nhà đó. Bất cứ ai chạm đến họ đều
bị coi là ô uế. Họ là những người bị Chúa phạt, họ không được phép lên Đền thờ
Giêrusalem, và nếu cóđược tham dự lễ nghi phụng vụ, họ phải ở
trong một căn phòng đặc biệt dành riêng cho họ. Họ bị đối xử như người đã chết.
Người phong cùi trong Tin mừng
hôm nay đã dám “đến gặp Chúa Giêsu, quì xuống, van xin…”. Đức Giêsu “chạnh lòng
thương, giơ tay đụng vào anh…”. Cả hai hành vi, người cùi đến gặp Chúa và Chúa
đưa tay chạm đến họ, đều là những hành vi “liều mạng”, vượt trên mọi thể chế,
phong tục… bình thường.
* Người phong cùi hẳn là biết rõ
việc mình làm. Anh biết thân phận mình, biết những qui định ngặt nghèo là không
được đến gần người khác. Anh chẳng màng đến những qui định này. Hẳn là anh
không ghê tởm con người mình và cũng không sợ phán quyết khắc nghiệt của Đức
Giêsu. Anh biết Người là Đấng nhân từ và bao dung. Nếu ghê tởm chính mình, hẳn
là anh đã trốn biệt. Nếu sợ phán quyết khắc nghiệt, hẳn là anh đã không dám đến
gần Đức Giêsu và van xin Người chữa lành. Anh đã liều và đã đạt được điều mình
mong muốn.
* Đức Giêsu, một Rabbi Do Thái
chắc chắn là biết rõ điều luật “cấm không được đến gần người cùi trong khoảng
cách một sải tay”. Nhưng Người đã không màng đến những qui định như thế. Người
tự do và thoải mái hành động vì hạnh phúc con người. Người đã phá đổ những qui
định phi nhân bản - loại trừ một con người đau khổ. Đức Giêsu thực là hình ảnh
một vị Thiên Chúa cúi mình xuống với nỗi khổ đau của con người. Người đã cúi
mình thật sâu (kenosis) trong biến cố làm người và trong cái chết trên thập
giá. Người cúi xuống để nâng con người lên, miễn là con người nhận ra chính
mình và cầu xin ơn cứu độ.
Ngày nay, căn bệnh cùi thể lý đã
bị tiến bộ y khoa đẩy lui, nhưng vẫn còn đó những bệnh cùi tâm linh, như tệ nạn
xã hội : si đa, xì ke, ma túy, mọi hình thức vô nhân… và thường bị những người
chung quanh khinh bỉ. Cùng với Đức Giêsu, người kitô hữu được kêu gọi thể hiện
sự thông cảm, quan tâm đối với những người bất hạnh. Cùng với Đức Giêsu, người
kitô hữu được kêu gọi để dám vượt qua những định chế, tập tục vô nhân.
Lạy Chúa Giêsu,
xin dạy cho chúng con
biết cúi mình xuống với những mảnh đời đau khổ, bất hạnh
để cảm thông và chia sẻ,
vì chính chúng con cũng đã được Chúa cảm thông và chia sẻ.
xin dạy cho chúng con
biết cúi mình xuống với những mảnh đời đau khổ, bất hạnh
để cảm thông và chia sẻ,
vì chính chúng con cũng đã được Chúa cảm thông và chia sẻ.
Xin cho chúng con
dám vượt qua con người của mình, như người phong hủi,
để đến và khẩn cầu với Chúa.
dám vượt qua con người của mình, như người phong hủi,
để đến và khẩn cầu với Chúa.
Mùa Tình Yêu
Mc 1:40-45
Như Hạ, OP
Mùa tình yêu đã đến (ngày 14-2).
Những bó hoa thơm ngát đưa hương tình yêu vượt qua mọi biên giới. Tình yêu đem
con người lại gần nhau. Tình yêu đan chéo cuộc đời. Tình yêu là một sức mạnh
sáng tạo và mạc khải những khung trời huyền nhiệm trong thế giới con người.
Chính sức mạnh tình yêu đã kéo
Con Thiên Chúa đến trần gian, khiến Đức Giêsu có thể đến với những người đau
khổ nhất. Hôm nay Chúa đến với người phong cùi để mạc khải tất cả sức mạnh tình
yêu Thiên Chúa vượt qua mọi trở ngại và phục hồi giá trị đích thực cho con
người.
SỐ PHẬN CON NGƯỜI
Mặc dù khoa học và xã hội đã đi
đến những bước nhảy vọt trong việc phục hồi giá trị cho những người phong cùi,
nhưng ngày nay những người phong cùi vẫn phải sống trong một thế giới riêng.
Bình thường việc đó chỉ có tính cách xã hội, vì sợ lây bệnh. Nhưng ngày xưa
luật Do thái còn muốn đi xa hơn. Những người phong cùi bị mất hẳn tư cách tôn
giáo, bị loại ra khỏi cộng đoàn phượng tự. Đó là một nỗi sỉ nhục lớn lao cho
những người mắc bệnh nan y. Tất cả đều xa lánh. Kể cả thần thánh cũng không
chấp nhận những con người khiếm khuyết và không còn xứng đáng làm phần tử xã
hội Giavê, một xã hội chuyên lo phụng tự. Thiếu lành mạnh thân xác tố cáo một
linh hồn tội lỗi. Khi đã bị các tư tế chứng nhận mắc bệnh, người phong cùi phải
biệt lánh ra một nơi, phải để tóc râu phủ kín người và phải la lên cho mọi
người tránh xa. Họ phải xa lánh mọi người kể cả gia đình và bạn bè. Nói tóm, họ
bị tước hết quyền làm người.
Chính vì thế, Đức Giêsu đã đến
phá vỡ hàng rào ngăn cản người phong cùi với cộng đồng. Phép lạ Người làm không
chỉ nhằm chữa tật bệnh thể xác, nhưng còn trả lại quyền làm người và đưa họ về
với làng xóm, về cuộc sống cộng đồng. Bởi vậy, khác với mọi người tránh xa vì
sợ lây bệnh, Đức Giêsu “giơ tay đụng vào” người phong hủi (Mc 1:41). Hơn nữa
“Người chạnh lòng thương” (c.41) trước lời van xin tha thiết của người bệnh :
“Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (c.40). Quyền lực của Người
không thể kìm nổi trước một đức tin mạnh mẽ như thế. Người nói “Tôi muốn, anh
sạch đi !” (c.41). Điều mơ ước của người phong hủi đã thành sự thật : “Lập tức
chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch” (c.42). Còn niềm vui nào lớn
hơn ?! Anh đã chứng kiến một ân phúc lớn nhất trong đời anh. Thân thể anh
từ nay sạch hết mọi vết thương mưng mủ. Chân tay lành lặn. Da dẻ mịn màng như
tất cả mọi người.
Điểm quan trọng không phải là
thân xác lành mạnh, nhưng là toàn thể cuộc sống của anh. Để được hội nhập vào
cộng đoàn, anh phải tuân theo lời căn dặn của Đức Giêsu : “Hãy đi trình diện tư
tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để
làm chứng cho người ta biết” (c.44). Đó là thủ tục tối thiểu để người phong cùi
trở lại cuộc sống bình thường như mọi người. Từ nay anh sẽ lấy lại tất cả những
tương quan đã mất. Bạn bè, gia đình, thân nhân anh sẽ vui mừng biết chừng nào
khi nhìn thấy anh trở lại với làng xóm ! Anh sẽ chia sẻ quyền lợi và nghĩa vụ
với mọi người. Từ nay không ai có quyền khinh bỉ anh nữa. Anh đã thực sự làm
người và có thể hãnh diện về những đóng góp của mình vào cuộc sống xã hội. Niềm
vui lớn lao như thế làm sao giữ kín mãi trong lòng ? Bởi vậy, mặc dù Đức Giêsu
cấm anh “đừng nói với ai cả” (c.44), “nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao
truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào
được” (c.45).
Tin mừng ấy đã đến với mọi người.
Chính vì biết quên mình và chỉ sống “để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10:31), Đức
Giêsu đã lăn xả vào mọi hoàn cảnh để “cho nhiều người được cứu độ” (1 Cr
10:33). Thánh Phaolô đã theo sát gót Thày chí thánh, đến nỗi ông đã hãnh diện
khuyên nhủ tín hữu Côrintô : “anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức
Kitô” (1 Cr 11:1). Theo Đức Kitô không phải để làm phép lạ, tạo sự kinh ngạc
cho nhiều người. Nhưng theo Đức Kitô để phục hồi quyền con người và trả lại cho
con người những tương quan tốt đẹp nhất trong cộng đồng nhân loại.
GIÁ TRỊ CON NGƯỜI TRONG CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI
Tình yêu đã thúc đẩy Đức Giêsu đến
với con người trong hoàn cảnh cùng cực nhất. Người đã phục hồi thể xác, nhân
phẩm cá nhân và giá trị đích thực của cộng đoàn. Nếu mọi người đều có một thái
độ đến với đồng loại như Người, chắc chắn mọi biên giới giữa người với người đã
sụp đổ từ lâu. Nhưng cho tới nay, giữa con người vẫn còn quá nhiều xa cách về
chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa, chính trị, tôn giáo v.v. Chính vì vậy cần
có một cuộc canh tân mãnh liệt theo tinh thần Đức Giêsu để xóa tan những ngăn
cách tưởng tượng dựa trên giàu nghèo, địa vị. Tất cả đều phải vì con người. Khi
không giúp con người làm người nữa, mọi tương quan đều vô nghĩa.
“Con người được kêu gọi để sống
hiệp thông và sống thành cộng đoàn, cùng hiện hữu với và vì người khác. Dĩ
nhiên, con người không sinh ra cho cộng đoàn hay tập thể đến nỗi phải hi sinh
quyền lợi con người cho cộng đoàn hay tập thể. Trái lại, cộng đoàn hiện hữu vì
con người là những thành phần của cộng đoàn, và mục đích của cộng đoàn hay tập
thể là bảo vệ và cổ xúy quyền làm người.” (Dwyer 1994:733) Khi chỉ còn biết có
tập thể, người ta quên mất nguồn gốc và mục đích của tập thể đó. Xét về mọi
phương diện, cộng đoàn hay tập thể không thể có trước con người. Cộng đoàn hay
tập thể cuối cùng cũng chỉ là một phương tiện giúp con người đạt tới cứu cánh
cuộc đời mà thôi. Chính vì thế Đức Giêsu đã không ngần ngại đến với những người
nghèo khổ, bệnh tật, bị đàn áp và gạt ra ngoài lề xã hội, để trả lại địa vị
đích thực của con người.
Không làm người, không thể xây
dựng giá trị đích thực nhân bản và siêu việt. Khi đã làm người, con người mới
xây dựng những cơ cấu để giúp nhau đạt tới mục đích cuộc sống cách nhanh nhất
và hoàn hảo nhất. Nói khác, “con người được kêu gọi để tham dự vào việc tạo
thành xã hội hầu thăng tiến hạnh phúc các thành phần xã hội.” (Dwyer 1994:734)
Chính vì thế, những luật lệ không còn phù hợp với con người thời đại đều cần
phải xét lại. Mỗi thời đại đều có những nhu cầu và khuynh hướng riêng. Bởi thế
con người được mời gọi không ngừng tham gia vào việc thành hình và cải tổ cơ
chế xã hội để đáp ứng những đòi hỏi thời đại. Không ai có thể phủ nhận quyền
lợi và bổn phận đó của con người.
Tất cả giá trị con người đều tuỳ
thuộc tình yêu. Chính trong tình yêu, các bạn trẻ mới nhận ra giá trị
người yêu. Thiên Chúa cũng mở ra một mùa tình yêu khi sai Con Một đến với những
người nghèo khổ nhất, những người đã bị chính anh em mình chối bỏ. Với sức mạnh
tình yêu, người môn đệ đích thực có thể vượt qua mọi trở ngại để Đức Kitô mạc
khải cho mọi người biết “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:16) Chỉ khi nào “Đức
Kitô là tất cả và ở trong tất cả,” (Cl 3:11) giá trị đích thực con người mới
được thành toàn. Tất cả mọi nỗ lực đều hướng tới niềm hi vọng đó, vì tình yêu
Thiên Chúa đã chứng tỏ tất cả sức mạnh nơi cái chết và sự phục sinh của Đức
Giêsu Kitô.
Nhưng làm sao nhận ra sức mạnh vô
song của tình yêu, nếu không cầu nguyện ? Quả thực, “sức mạnh lời cầu hệ tại
việc chiêm nghiệm hai chân lý nền tảng : tình yêu và lòng trung tín của Thiên
Chúa. Lời cầu nguyện sẽ chiếu toả trong thế giới, biến thành chứng từ cho những
ai không cùng chia sẻ niềm tin với chúng ta. Bởi đó, ca ngợi tình yêu và lòng
trung tín của Thiên Chúa trở thành một chứng từ có thể biến đổi thế giới, một
thế giới bị đe doạ vì kỹ thuật đang che mờ cõi thiêng, lòng tự mãn đang tràn
ngập xã hội.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 5/2/03)
Nếu Ngài muốn, tôi được sạch
Mc 1, 40-45
Fr. Jude Siciliano, OP
Thưa quý vị.
Cứ như sách Lêvi ký qui định thì
người bệnh phong trong Tin mừng hôm nay tuy còn sống nhưng đã chết về mặt tôn
giáo và xã hội (le mort vivant). Ông ta phải để tang chính mình
(porter son propre deuil). Nghe qua thật là thê thảm: “phải mặc áo rách, xoã
tóc, che râu và kêu lớn tiếng; “Ô uế ! Ô uế !… phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là
một nơi bên ngoài trại.” Khi nghe biết Chúa Giêsu có mặt, người bệnh phong vượt
qua hết mọi điều lề luật cấm đoán và liều mình chịu ném đá chết, để chạy đến
xin Chúa Giêsu cứu chữa : “Vừa thấy Người anh liền sấp mặt xuống đất van xin
rằng: Thưa Ngài, nếu Ngài muốn Ngài có thể cho tôi được sạch.” (Lc 5, 12). Chúa
động lòng thương xót cũng liều cứu vớt, giơ tay đụng đến người anh ban cho anh
được thanh sạch tức thời. Đáng lý đây là một Tin vui. Tuy nhiên tình thế hình
như lại vượt ra ngoài tầm tay Chúa Giêsu: “Đến nỗi Ngài không thể vào thành
được, mà phải ở lại nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo
đến với Người.” (1,45)
Ngày nay cũng còn nhiều căn bệnh
khiến người ta khiếp sợ, như HIV-AIDS, ung thư cách loại, Alzheimer, phong cùi
v.v. Những người giàu có mắc bệnh, nếu phát hiện sớm sẽ có phương tiện cứu chữa
được. Người nghèo thì không, đành chịu mang bệnh cho đến chết, tỉ như ở Phi
Châu, Ấn Độ, Việt Nam, Campuchia, Thái Lan… Trong xã hội cũng còn nhiều hình
thức loại trừ, đổ lỗi cho người mắc bệnh : Ăn ở nhơ bẩn, bừa bãi, sì ke, ma
tuý, hút thuốc, uống rượu nhiều quá… Về mặt tinh thần thiên hạ vẫn gán cho
những bệnh nhân ấy hình phạt bởi các tội lỗi họ gây nên. Khoẻ mạnh là do nếp
sống thanh đạm, thánh thiện. Bệnh tật là do bê tha tội lỗi. Như vậy loại trừ là
biện pháp tốt nhất : Xa mặt cách lòng (out of sight, out of mind). Quên đi là
xong hết mọi chuyện.
Thời Chúa Giêsu, tâm lý này còn
nặng nề hơn gấp bội. Dân trí thấp kém, hiểu biết về bệnh tật thô sơ cho nên còn
nhiều định kiến bất di dịch. Nếu bạn mắc bệnh, nhất định bạn đã phạm tội và
đáng chịu hình phạt của hành vi xấu xa đó. Vì thế bệnh tật gắn liền với các
định chế tôn giáo. Xin hãy suy nghĩ những quy định khủng khiếp của tôn giáo
trên người bệnh phong hôm nay khắc rõ. Bất kể bệnh ngoài da nào cũng được gán
nhãn hiệu phong cùi, phải loại trừ khỏi cộng đồng và các buổi cầu nguyện chung
vì sợ lây nhiễm. Tư tế có nhiệm vụ xác định các trường hợp lành bệnh. Hậu quả
là bệnh nhân có tâm lý tự kỷ ám thị, coi như mình đã bị Thiên Chúa loại trừ.
Nhưng thực tế Thiên Chúa có chống
lại họ không, hay chỉ là lề luật loài người ? Một điều ghê gớm nữa là trong
sách Xuất hành (9, 8-12) Thiên Chúa trừng phạt dân Ai cập cứng lòng bằng hình
thức ung nhọt (hình phạt số 6). “Các ông lấy mồ hóng trong lò, rồi đến đứng
trước mặt Pharaô. Ông Môsê tung lên trời và mồ hóng biến thành ung nhọt, mưng
mủ nơi thân thể người ta và thú vật”. Hiện tượng này bây giờ xuất hiện nơi con
cái Israel, như vậy rõ ràng những người phong cùi là tội nhân giống như dân Ai
cập. Làm sao chối cãi ? Cho nên “họ phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu
to : Ô uế ! Ô uế !” Chẳng còn hình phạt nào nặng nề hơn ngoại trừ cái chết,
đúng như từ tiếng Pháp chúng tôi trưng ra ở trên : le mort vivant.
Khi tư tế tuyên bố một người
phong cùi nào đó được lành sạch ông ta không còn phải sống ngoài trại nữa mà đã
được hoà nhập với cộng đồng. Chúa Giêsu hôm nay truyền cho người khỏi bệnh đi
trình diện tư tế và dâng lễ vật theo luật Môsê là với mục tiêu đó. Ngài đã ban
cho ông ân huệ vượt xa sự lành bệnh, đó là nối lại các quan hệ xã hội cũ, không
còn bị loại trừ, sống cô độc nơi hoang vắng, mà được trở về với gia đình và xã
hội. Hay nói cách khác ông ta đã được phục hồi nhân phẩm, được sống lại từ tình
cảnh tưởng như đã qua đời.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu phải liều
“giơ tay đụng vào anh” tức là đụng vào một đối tượng nhơ bẩn. Lề luật cấm người
Do thái làm như vậy, kẻo chính mình cũng bị nhơ. Để bắc được chiếc cầu liên lạc
với người phong cùi, Chúa Giêsu đã sẵn lòng mắc nhơ theo lề luật thanh sạch của
người Do thái. Cũng xin lưu ý đến từ lành bệnh mà thánh Marcô đã dùng. Từ đó là
“anh được sạch”, một thuật ngữ thuộc ngôn từ lề luật. Người được sạch là người
Do thái, không phải dân ngoại. Đây là bài học lớn cho các tín hữu. Chúng ta
cũng phải vươn ra với thế giới bên ngoài, đổ vỡ, nhơ bẩn, lạc loài chung quanh
mình. Không vươn ra với họ, sợ bị nhơ bẩn, thì làm sao có thể cứu vớt đồng loại
? Thực ra, chính qua chúng ta mà Chúa Giêsu đến với các xóm ổ chuột, đĩ điếm,
trộm cướp, nghèo đói, ngu dốt, di dân, kỳ thị… Chúng ta cung cấp tiền bạc để
giúp người khác, nhưng đó không phải là hình thức dấn thân duy nhất mà Chúa đòi
hỏi nơi những kẻ bước theo Ngài.
Chúa Giêsu cương quyết với người
khỏi bệnh, bắt buộc ông phải đi trình diện với tư tế “để làm chứng cho người ta
biết”. Chứng cớ về điều chi ? Nếu như các cấp lãnh đạo đền thờ chính thức công nhận
phép lạ Chúa Giêsu chữa lành người phong cùi, lúc đó họ phải chấp nhận quyền
năng tha tội của Ngài và những hậu quả phát sinh từ quyền năng đó. Quyền bính
đền thờ sẽ công nhận đích thực Ngài được Thiên Chúa sai đến. Tác động của Ngài
nơi dân chúng rất lớn. Người ta sẽ đón tiếp Ngài như vị cứu tinh, giải phóng
dân tộc, chấp nhận sứ điệp Ngài rao giảng và nhanh chóng phổ biến sứ điệp đó.
Bất hạnh thay, điều ngược lại đã
xảy ra, người được lành bệnh không đến với tư tế đền thờ. Tự thân ông rao
truyền trường hợp khỏi bệnh của mình và chư dân đổ xô đến gặp Chúa Giêsu. Ngài
không thể công khai vào thành được mà phải dừng lại ở nơi hoang vắng. Đúng như
số phận người bệnh phong trước kia. Ngài thực sự đã trở thành cùi hủi như sách
Lêvi ký mô tả: “Họ phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại.”
Chúa đã mặc lấy thân phận tội lỗi của nhân loại, để nhân loại dễ dàng lui tới
với người cùng cảnh ngộ. Chương trình của Chúa Giêsu là như thế đó. Còn chúng
ta thì sao ? xin mọi người cật vấn lương tâm và uốn nắn cuộc sống của mình cho
phù hợp với gương sáng của Chúa Giêsu.
Còn một căn tính khác của Chúa
trong bài đọc Phúc âm hôm nay : Cũng như ở nhiều đoạn văn sau này, thánh Marcô
ngầm nói đến “bí mật thiên sai”. Nghĩa là mỗi lần Chúa Giêsu thực hiện một phép
lạ, Ngài đều nghiêm cấm kẻ thụ ơn phổ biến tin tức đó cho quảng đại quần chúng.
Tại sao như vậy ? Có phải Ngài sợ quyền bính đền thờ ? Không đúng. Chúa Giêsu
trong Tin mừng thánh Marcô không chỉ là chủ thể làm phép lạ, Ngài còn hơn thế
nhiều. Và Ngài muốn chúng ta ý thức rõ ràng về điều đó. Nếu chúng ta chỉ hiểu
Chúa Giêsu theo chiều hướng ấy, thì khi không cầu khẩn được phép lạ không được
ơn mình xin thì chắc chắn lòng tin của chúng ta vào Chúa Giêsu sẽ sút giảm hẳn.
Chúng ta sẽ dễ dàng thất vọng về
Ngài. Căn cước đầy đủ của Ngài chỉ có thể nắm bắt được từ trên cây thánh giá:
“Khi các ông giương Con Người lên, các ông sẽ biết tôi là ai” (Ga 8,28). Tương
tự như thế tất cả những công việc Chúa làm, những lời giảng dạy chỉ có ý nghĩa
khi liên hệ với cây thập tự của Ngài. Đó là bí mật thiên sai của Phúc âm theo
thánh Marcô. Chúa Giêsu không phải là giải pháp dễ dãi cho các vấn đề của chúng
ta. Đám đông thời Ngài đã muốn biến Ngài thành như vậy, nên họ đổ xô tìm kiếm
sau khi Ngài chữa lành người phong cùi: “Nếu như Ngài cho người cùi hủi được
sạch tức thời, thì Ngài cũng có thể cứu vớt tôi.” Ngày nay chúng ta cũng có
khuynh hướng đặt câu hỏi tương tự : “Tại sao Ngài không cứu chữa thân nhân của
tôi. Ngài đã chữa lành
người cùi hủi kia mà ?”
Cho nên thánh Marcô đã chỉ cho
chúng ta hiểu rằng: Môn đệ đích thực của Chúa Giêsu không được kỳ vọng vào giải
pháp tức thời, các phép lạ cứu chữa, mà phải tin cậy vào lượng từ bi của Ngài.
Ngài là Đấng Cứu Thế chứ không phải thầy lang, bác sĩ hay kẻ làm phù phép. Ngài
không vô cảm trước các đau khổ của chúng ta. Ngài không ngồi trên cao tít tắp
nhìn xuống nhân gian để cổ vũ chúng ta trong cuộc sống. Ngài giơ tay đụng đến
người phong cùi, cảm thương ông ta. Ngài cũng hằng quan tâm đến số phận mỗi
người, nhất là những ai bị đẩy ra ngoài lề xã hội.
Gần đây, tôi ngồi suy gẫm bài Tin
mừng hôm nay với một nhóm thanh niên nam nữ. Họ nhất trí không thích từ “thương
xót” (pity). Nói rằng nó mang tính kẻ cả, từ trên cao nhìn xuống kẻ hèn hạ. Họ
chẳng cần ai thương xót. Tự thân, tự lập là hơn hết, cứng rắn trong tình cảm và
kinh tế. Điều đó rất tốt, rất hoan nghênh nếu hiểu theo nghĩa phổ thông. Nhưng
trong Phúc âm nó có nghĩa khác. Đó là một cảm xúc mạnh mẽ phát xuất từ tình yêu
chân thật và tính dịu dàng của Thiên Chúa, giống như cha mẹ thương xót đứa con
bệnh tật hiểm nghèo. Nó không mang tính chất khinh bỉ ai, hạ thấp ai, mà là
phản ứng tự nhiên của lòng yêu mến. Nó thúc đẩy người ta dính líu vào hoàn cảnh
đau thương của người khác, tìm những giải pháp tốt nhất để cứu giúp nạn nhân ra
khỏi hoàn cảnh khó khăn. Thiên Chúa thương xót nhân loại là một từ chính xác,
bởi Ngài có đủ quyền năng để giải cứu chúng ta. Trong ngôn ngữ Tây phương từ
này là compassion, gồm hai chữ com (cum) và passion. Tiếng Latinh cum là cùng, với.
Passion là đam mê (nghĩa tốt). Do đó compassion của Thánh kinh luôn luôn ám chỉ
sự thúc đẩy người ta thi hành bác ái với cảm xúc cao độ - passion.
Cuộc sống người tín hữu hàng ngày
phải đối mặt với màu nhiệm đau khổ. Tại sao Chúa Giêsu không hành động cứu giúp
mau lẹ, dứt khoát và rõ ràng ? Tại sao Ngài cứ để nạn nhân quằn quại trong tủi
nhục, đớn đau, khắc khoải ? tại sao Ngài lại chọn chia sẻ với nhân loại thân
phận bất lực, hy sinh và cái chết ? Liệu Ngài có hành động với chúng ta, qua
chúng ta và trong chúng ta để giúp đỡ những kẻ bất hạnh trên thế giới ? Mầu
nhiệm vẫn tỏ hiện nguyên hình khi chúng ta thành công chính vào lúc thất bại,
mạnh mẽ chính vào lúc yếu đuối, vẻ vang chính vào lúc nhục nhã nhất, như Ngài
đã cảm nghiệm trên thánh giá. Đó không phải là chương trình hành động mà chúng
ta ưa thích. Khi viết những dòng này tôi cũng chẳng ham. Dầu sao, chúng ta nên
tin tưởng vào chương trình đó và khi tham dự thánh lễ này, rước thánh thể Chúa
vào lòng, chúng ta sẽ được khả năng bước thêm một bước, ẵm lấy Ngài và đường
lối của Ngài. Amen.
Hãy Cao Rao Tình Thương Của Chúa
(Mc 1, 40-45)
Fr. Jude Siciliano, OP
Thưa quí vị,
Sách Lêvi mô tả việc đối phó với
bệnh truyền nhiễm phong cùi rất nghiêm khắc: “Tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô
uế. Họ phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: Ô uế! Ô uế! Người ấy phải
ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại.” Trên thực tế người có bệnh
truyền nhiễm phải hành xử như người có đại tang, đại tang chính mình trong khi
còn sống. Có thân xác nổi phong ghẻ lở đã khổ lắm rồi. Lúc này nếu tư tế tuyên
bố bất lợi thì là hình phạt ghê gớm, ghê gớm hơn cái chết. Thân xác hàng ngày
tiêu hao mòn mỏi vì bệnh tật gặm nhấm, ăn mòn. Tinh thần phải cách ly khỏi mọi
niềm an ủi, nâng đỡ. Sống ngoài doanh trại, không được đến gần thành phố, làng
mạc và những người lành lặn. Còn nỗi cô đơn nào lớn hơn ? Nỗi nhục nhã quả là
tột điểm.
Ngày nay với thuốc chữa trị tân
tiến mà người ta còn phải khiếp sợ căn bệnh này như một đại hoạ, thì vào thời
Chúa Giêsu, thuốc thang còn lạc hậu thì tưởng tượng nỗi kinh hoàng gớm ghê biết
mấy. Chúng ta phải ghi nhớ điều này để suy gẫm phần thứ hai của đề tài Phúc âm
hôm nay. Thời Chúa Giêsu, tình cảm gia đình là căn bản để xác định căn cước của
một người. Nó rất chặt chẽ đến nỗi một người tách khỏi gia đình, họ hàng, làng
xóm là mất luôn căn cước, trở thành kẻ vô lại. Ngoài ra những người mắc bệnh
cùi còn phải chịu hình phạt ghê gớm nữa là không được dự phần vào các sinh hoạt
tôn giáo, điểm tựa tinh thần của mọi người dân Israel, bị đẩy ra khỏi cộng đồng
tuyển dân, không được gần gũi ai. Cho nên mô tả họ là những người đã chết không
phải là quá đáng.
Một điểm khác không kém phần tệ
hại và bất công đó là trình độ y tế còn quá thô sơ cho nên nhiều bệnh ngoài da
được xếp chung là phong cùi cả. Ví dụ mụn nhọt, lở loét, sởi, đậu, dị ứng, ngứa
sẩn, vẩy chàm vv. Những bệnh này không có vi trùng Hansen phá hoại, nhưng vì
tính chất bề ngoài làm méo mó cơ thể, nên cộng đồng sợ hãi, cho cách ly tất cả,
kẻo lây nhiễm sang các phần tử khác. Vì vậy có những trường hợp khỏi bệnh. Và
người ta phải thành lập tiến trình xét nghiệm và tuyên bố “thanh sạch”. Tiến
trình này mất nhiều thời gian. Các người có thẩm quyền lại là các tư tế chứ
không phải thầy lang. Cho nên sự lầm lẫn không thể tránh khỏi. Khi được tuyên
bố khỏi bệnh, đương sự được trở về với cộng đồng và tôn giáo. Vào thời các tín
hữu tiên khởi, tục lệ này vẫn còn phổ thông. Bởi vẫn sợ các hậu quả của nó. Với
trình độ vệ sinh thời ấy, sự lây nhiễm rất dễ dàng.
Cho nên bệnh phong cùi trở thành
biểu tượng Kinh thánh về tội lỗi. Sự tàn phá của nó luôn đè nặng lên cá nhân
tín hữu và cộng đoàn. Giống như phong cùi, tội lỗi tấn công các cộng đoàn tiên
khởi, gây chia rẽ, gương xấu và diệt vong. Ngày nay sự khủng khiếp bớt phần
nặng nề vì số các tín hữu trong cộng dân cư khá đông đúc. Thời ấy số này còn ít
ỏi nên tội lỗi gây ra những tai hoạ đau đớn hơn. Tuy nhiên bản chất phá hoại
của nó lúc nào cũng vậy, cho cá nhân và cho toàn thể Hội thánh. Chỉ hoàn cảnh
là khác nhau mà thôi. Chúng ta nên suy nghĩ và tránh tội kẻo làm thiệt hại đời
sống thánh thiện của cộng đoàn. Ăn ở vô tâm vô tính là không xứng hợp với đường
lối môn đệ Đức Giêsu. Tội thầm kín đến mấy rồi cũng biết tới. Lịch sử đã chứng
minh sự thật đó. Chúa Giêsu đã đề cập đến khía cạnh này trong bài giảng trên
núi.
Bệnh phong cùi làm sói mòn da
thịt con người. Tội lỗi cũng sói mòn lương tâm tín hữu. Tiếp xúc với người khôn
ngoan, ắt bạn sẽ trở nên khôn ngoan, với người công chính, ắt bạn sẽ trở nên
công chính, với người tội lỗi, không chóng thì chày, bạn sẽ trở nên điêu ngoa,
gian giảo. Đó là nguyên lý thường tình. Ngôn ngữ Pháp có câu: “Bạn hãy nói cho
tôi biết bạn năng lui tới với hạng người nào, tôi sẽ nói cho bạn hay bạn là
ai.” Xin hãy nghĩ đến ích kỷ, bạo lực, duy vật chất, dâm ô, bất lương. Những
căn bệnh đó chắc chắn làm soi mòn đời sống thiêng liêng của con người. Dĩ nhiên
chúng có tính truyền nhiễm và lây lan ra cả cộng đồng. Người ta đã khám phá ra
rằng, bệnh liệt kháng, bệnh tiêm la, lậu, lao đều do các nguyên nhân kể trên
gây nên. Nó làm cho cả cộng đồng các quốc gia trở nên ô uế.
Làm thế nào tránh khỏi các tai
nạn ấy ? Các chính phủ trên thế giới đang cố gắng loại trừ và khắc phục các hậu
quả. Nhưng không thành công nhiều, bởi chỉ là chữa cháy bên ngoài. Điều cần
thiết là chỉnh đốn từ bên trong. Chúng ta cần có bàn tay Thiên Chúa trợ giúp.
Không có ơn Chúa người ta chẳng thể thành công trong bất kỳ tình huống nào.
Giống như trường hợp người phong cùi hôm nay, chúng ta cũng cần bàn tay Chúa
làm cho sạch. Đúng hơn cả nhân loại đều cần Chúa để được thanh sạch về phần
linh hồn. Sự thật này là căn bản. Kiêu căng từ chối là một tai hoạ khủng khiếp.
Mỗi lần chúng ta đến thánh đường tham dự bàn tiệc Mình Máu Thánh Chúa Kitô thì
Thiên Chúa muốn chúng ta nên thanh sạch như vậy. Khi người phong cùi được chữa
lành. Chúa Giêsu cấm ông ta không được loan tin ấy ra cho dân chúng.
Phúc âm thánh Marcô kể: “Nhưng
Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay và bảo anh: coi chừng đừng nói gì với ai
cả, nhưng hãy trình diện với tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng
những gì ông Môsê đã truyền để làm chứng cho người ta biết.” Nghĩa Chúa muốn
anh ta theo đúng tiến trình của lề luật qui định. Nhưng vì quá vui mừng, anh ta
không thể giữ im lặng được mà lập tức công khai hoá ơn lành vừa nhận được, đến
nỗi Chúa không thể vào thành nào được vì dân chúng quá hồ hởi về trường hợp của
anh. Như vậy là anh bất chấp cả lề luật. Đây là một thiệt thòi lớn, bởi anh cần
tư tế xét nghiệm và tuyên bố “được sạch” để có thể hội nhập với xã hội và tham
dự các cuộc thờ phượng tại đền thánh. Chúa muốn người phong cùi theo đúng lễ
nghi sách vở, ngõ hầu các tư tế biết rõ sự thật và quyền năng của Ngài. Và có
lẽ họ sẽ chuẩn nhận công việc của Ngài ? Ngược lại, vì quá vui mừng anh tung
tin khỏi bệnh và toàn thể phép lạ khiến Người phải ở lại ngoài thành.
Thánh Marcô kể tiếp: “Nhưng vừa
đi khỏi, anh bắt đầu rao truyền và tung tin đó khắp nơi.” Trước một biến cố quá
vĩ đại, một cuộc thay đổi đến tận gốc rễ. Một sự sống lại từ cõi chết, cá nhân,
tôn giáo, xã hội, như vậy liệu có ai đủ kiên nhẫn đi theo tiến trình “lề luật”
? Chúng ta chẳng thể trách cứ người phong cùi này ? Ngược lại nên bắt chước ông
ta mà cao rao ơn huệ của Thiên Chúa qua tay Đức Giêsu. Con người một vài phút
trước còn phải đội tang chính mình, che râu, bịt miệng, mặc áo rách, kêu lớn
tiếng ô uế ô uế và không được tới gần người khác, thì nay phút chốc được chữa
lành, da thịt tươi tắn như con trẻ, tự do tiếp xúc với mọi người, mọi tầng lớp
xã hội. Thử hỏi không vui mừng sao được ? Thử hỏi không “phá” luật sao được ?
Từ mà thánh Marcô dùng ở đây là: Công chúng hoá và loan truyền tin vui. Tương
tự như chúng ta công bố và loan truyền Lời hôm nay. Các độc giả lúc ấy nghe đọc
tại các cuộc hội họp liên tưởng ngay đến việc cử hành Bí tích rửa tội. Lời hằng
sống cũng được đọc to lên cho mọi người nghe cùng với ơn tha tội cho đương sự.
Tức lành sạch hết mọi tội khiên, được khỏi ngay tức khắc bệnh phong cùi thiêng
liêng.
Cho nên tất cả mọi tín hữu cũng
phải nhẩy mừng như cùi hủi trong Phúc âm. Có lẽ phải vui mừng hơn nữa vì căn
bệnh phong cùi thiêng liêng còn khốc liệt hơn bệnh phần xác nhiều lần. Tại sao
chúng ta thờ ơ ? Tại sao chúng ta khinh thường ? Có lẽ việc Chúa chữa lành
chúng ta về phần linh hồn không khả giác như phần xác ? Nhưng đó chẳng phải lý
do của đức tin. Nếu chúng ta có lòng tin mạnh mẽ thì quả thật công việc của Chúa
trên các tín hữu còn huy hoàng nhiều hơn bội phần. Vậy thì để xứng đáng với đức
tin của mình, chúng ta cũng phải can đảm công khai hoá các ơn Chúa ban cho
mình. Tại sao chúng ta xấu hổ ? Tại sao chúng ta dấu kín những ơn vĩ đại Chúa
ban ?
Xin hãy mạnh dạn chia sẻ nó với
láng giềng, người thân cận, kẻo phí uổng các cơ hội để cao rao Danh thánh Chúa.
Chúa Giêsu không sợ lây nhiễm ô uế. Ngài giơ tay đụng vào anh và anh được lành
mạnh. Vào trường hợp những người Do thái khác, họ không dám làm như vậy. Bởi lẽ
vì lề luật và sợ bị lây nhiễm, cử chỉ của Chúa cũng là “phá” luật. Nhưng do
lòng thương xót của Ngài trên tội nhân. Chính Ngài đã nói ra điều đó: “Ta muốn
anh hãy được sạch”. Hành động này Chúa đáp trả sự tôn kinh mà anh cùi đã bày tỏ
trước tôn nhan Ngài: “Khi ấy có người phong cùi đến gặp Đức Giêsu, anh ta quì
xuống van xin Ngài rằng.” Thánh Matthêu nói: “Anh ta phủ phục trước mặt Ngài”.
Thánh Luca nói mạnh hơn: “Anh ta sấp mặt xuống đất.”
Cả ba thánh sử đều mô tả lòng
khiêm tốn của người cùi, như thể thờ phượng Ngài là Thiên Chúa. Chẳng lẽ Thiên
Chúa lại xua đuổi anh ta vì sợ lây nhiễm theo lề luật ? Chúa đã giơ tay đụng
vào thân thể anh và làm cho được nên thanh sạch. Trường hợp các tư tế, linh
mục, họ xua đuổi thẳng thừng như chúng ta thường gặp. Cho nên chúng ta noi
gương lòng nhân lành của Chúa mà cư xử với đồng loại. Và cũng đặt hoàn cảnh
mình vào trường hợp người cùi mà chia sẻ đức tin, niềm vui với đồng loại. Thực
ra, không phải một mà là nhiều lần chúng ta được Chúa chữa lành bệnh cùi tội
lỗi, tội hận thù, đố kỵ, ghen ghét, dâm ô, chia rẽ, tham lam, hà tiện. Tất cả
đều là phong cùi cuả linh hồn. Chúa đã chữa lành chúng ta, nên đừng để lỡ cơ
hội mà công bố chú ý của mình tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Kitô. Chúng ta
không muốn người ta gọi mình là “quá khích”.
Chúng ta chẳng có bụng dạ xua
đuổi thiên hạ. Nhưng chúng ta đưa ra những thoái thác: Tôi chưa được huấn luyện
thần học. Người phong cùi không có ý nghĩ như vậy. Tuy nhiên trước tôn nhan
Chúa Giêsu anh ta cảm nghiệm điều ghê gớm đã xảy ra nơi thân xác mình. Nó lật
ngược lại toàn bộ cuộc đời anh ta. Anh ta nói với người khác về kinh nghiệm bản
thân, không suy đoán, không bày đặt, không nói dối. Vậy thì Phúc âm hôm nay
cũng đòi hỏi chúng ta có bấy nhiêu thôi nơi bản thân mình. Không cầu khoa trương,
bịa đặt, tâng bốc. Ngần ấy cũng đủ để thiên hạ nhận ra ơn lành của Thiên Chúa
trong cuộc đời mỗi người. Nó vượt xa biển rộng, trời cao. Chúng ta chẳng phải
đứng trên bụng giảng, bệ cao mới gọi là nhà giảng thuyết Phúc âm. Thiên Chúa
chỉ đòi hỏi chúng ta hành động theo Tin mừng trong hoàn cảnh riêng biệt của
mình, lợi dụng mọi cơ hội để cao rao Danh Thánh Chúa. Đó cũng là phương cách
công bố Tin mừng hữu hiệu.
Còn một phương pháp khác cao rao
Danh Thánh Chúa, như thánh Phaolô đề nghị trong bài đọc 2: “Anh em hãy bắt
chước tôi, như tôi bắt chước Chúa Kitô.” Chúng ta công khai hoá và gieo rắc
khắp nơi đức tin của mình bằng hành động. Nếu như cuộc sống phản ánh điều chúng
ta tin, thì đó là công bố cách rõ ràng nhất Tin mừng Chúa Giêsu. Thánh Phaolô
trong một đoạn văn ngắn đưa ra nguyên tắc sống đẹp lòng Thiên Chúa và vui lòng
mọi người khi viết: “Thưa anh em, dù ăn, dù uống hay làm bất cứ việc gì, anh em
hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa, anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai,
dù là người Do thái hay người ngoại hoặc cho hội thánh của Thiên Chúa”.
Nghĩa là chúng ta phải có ý hướng
trong sạch, tránh mọi bệnh cùi hủi trong cuộc sống hằng ngày, đừng gây gương
xấu cho người khác nhưng hãy xây dựng cho nhau bằng những công việc lành thánh.
Tư tưởng này là chủ yếu trong những lời khuyên của thánh Phaolô: Chúng ta hãy
có tâm tình Chúa Kitô trong linh hồn mình. Thánh nhân khuyên nhủ các tín hữu
tiên khởi trong hầu hết các lá thơ. Như vậy cùi hủi và lây nhiễm không còn khả
năng chui vào đời sống các tín hữu và phá hoại Giáo hội. Than ôi chúng ta lười
đọc và suy gẫm tư tưởng của vị thánh, thành ra căn bệnh kinh niên vẫn tồn tại
trong các giáo xứ, các cộng đoàn.
Ước gì Phúc âm mở mắt linh hồn
mọi người xem thấy sự ghê tởm của cùi hủi thiêng liêng ngõ hầu xin Chúa cứu
chữa cho lành sạch. Nhiều ngõ ngách trong tính nết người ta xem chừng không ai
chạm tới được, thì hôm nay xin Chúa tới để chữa lành, như Người đã đụng “tới”
anh phong cùi trong Phúc âm. Phải chăng bài Phúc âm là tiêu biểu của mỗi tâm
hồn ? Lòng thương cảm của Chúa thúc đẩy Ngài chữa lành chúng ta trong Bí tích
rửa tội. Nó là bảo chứng vững chắc nhất Ngài sẽ tha thứ và tẩy rửa chúng ta khi
trở lại với Ngài. Hơn nữa, giống như người phong cùi hôm nay, điều chi Chúa
thực hiện nơi mình, hay chuyển sang cho tha nhân, đừng ích kỷ, ỷ lại, đừng sợ
hãi vươn tới những kẻ có nhu cầu cần đến lòng thương xót, thông cảm và tha thứ
của Chúa Giêsu. Amen.
Xin Thầy hãy chữa chúng tôi nên sạch
Mc 1: 40-45
Lm. Jude Siciliano, OP (Chuyển
ngữ FX Trọng Yên, OP)
Anh chị em thân mến,
Theo sách Lêvi trình bày thì
cách người ta đối xử với người phong cùi rất khắc nghiệt. Tuy nhiên,
không vì vậy mà chúng ta coi thường người Israёl. Vì ít kiến thức về
bệnh này nên khi thấy vết lở trên người bệnh nhân thì họ cho là phong
cùi, mà xã hội thời bấy giờ rất sợ lây nhiễm bệnh phong cùi. Do vậy để
cho an toàn, họ đã cách ly người cùi ở một nơi riêng, cách biệt khỏi
cộng đồng xã hội. Những chuẩn đoán thường dựa trên những dấu hiệu gần giống
với căn bệnh này như vết thương lở lói hay da bị sần sùi vì ghẻ liền bị gán cho
là bệnh cùi. (Sách Lêvi mô tả vết lở là dấu hiệu của bệnh phong cùi)
Theo sách Lêvi, các tư tế Lêvi
được hướng dẫn chẩn đoán các triệu chứng để nhận ra có phải bệnh cùi hay
không và quyết định người bị bệnh ngoài da đó có nên cách ly khỏi cộng
đồng hay không. Bị bệnh cùi đã là một đau đớn rồi, nhưng khi bị cách ly
phải ra ở riêng thì, như đối với người dân Địa Trung Hải, việc bị loại trừ
khỏi cộng đồng coi như là một bản án tử hình. Con người sống phải cần đến
cộng đồng. Thật thế, trong một thế giới đầy tranh chấp, nơi mà sự hỗ trợ
của cộng đồng rất cần thiết để tồn tại, sự mất đi cộng đồng của bạn có thể
mang ý nghĩa là cái chết.
Trong xã hội người Israёl, Thiên
Chúa được thờ phượng trong cộng đoàn. Nếu một người bị đẩy ra khỏi cộng đoàn là
người đó bị đẩy ra khỏi Thiên Chúa. Thêm vào đó lại có nhiều người nghĩ, bệnh
cùi là hình phạt do tội lỗi. Vì thế, người cùi thời ấy phải mặc áo trùm kín và
đi đến đâu phải la lên: "Ô uế! Ô uế!". Điều này có không khác gì
người đó la lên là "Tôi là kẻ có tội, tôi là kẻ có tội". Bởi thế
người cùi nếu lành bệnh, được coi như một người đã chết nay sống lại. Người cùi
cần được Thiên Chúa chạm tay đến họ, và người đó được Chúa Giêsu chữa cho lành
qua bàn tay nhân từ của Ngài.
Cộng đoàn luôn muốn tất cả các
thành viên cộng tác vào công việc chung. Vì vậy người cùi được lành bệnh thì
được nhập trở lại cộng đoàn ngay. Khi Chúa Giêsu chữa người cùi lành, thì người
đó được phục hồi lại vị trí của mình và trở về với cộng đoàn. Đối với bạn bè
hàng xóm và gia đình anh ta thì người đó được chữa lành về phần thể xác cũng
như về tinh thần. Hết bệnh là hết tội, vì tội là gốc của bệnh cùi. “Chúa Giêsu
chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi
!".
Việc Chúa chữa người cùi, chứng
tỏ Ngài có thể tha tội. Nhưng, Chúa Giêsu không muốn việc đó chỉ là việc riêng
giữa Ngài và người cùi mà thôi. Vì vậy Ngài bảo người cùi đi trình diện thầy tư
tế. (Xem chương 14: 2-3 sách Lêvi: 2Nó sẽ được đưa đến với tư tế; 3 tư tế sẽ
ra khỏi trại v.v....."). nhưng hơn thế nữa, Ngài còn muốn các tư tế và
cộng đoàn cũng dự phần vào việc Ngài chữa người cùi để cho họ hiểu là Con Người
đã đến để giúp họ khỏi tội và được hưởng thành quả của việc ấy.
Hậu quả của tội là vết phong lở. Trong cộng đoàn chúng ta, ai là
người chưa chịu hậu quả của tội lỗi trong đời sống cá nhân và đời sống chung
của cộng đoàn? Hậu quả của lòng ích kỷ làm chúng ta cắt lìa bản thân ra khỏi
gia đình, khỏi bạn hữu. Và khi có sự dối lừa, tài sản bị mất mát; tranh
giành ghen tị giữa anh em, sự bênh vực thiên vị của cha mẹ đối với con
cái ; cãi vả giữa vợ chồng không muốn ai can thiệp, khi người ta chỉ chú
trọng đến tiền bạc. Ở trường, hoc sinh chỉ lo gian lận, lừa đảo, đó là những
bệnh hoạn do tội lỗi gây ra. Bệnh cùi là bệnh có thể chữa được. Nhưng tội lỗi
và những hệ quả của nó khó lòng chữa hết hẳn được.
Đến đây chúng ta nghe Phúc âm
thánh Mác-cô : khi thánh Gioan Tiền Hô hứa với dân chúng "Có Đấng
quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi... Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong
Thánh Thần". Và trong đoạn Phúc âm hôm nay, lời hứa của thánh Gioan đã ứng
nghiệm. Dân chúng đáng lẽ đã nhận được dấu chỉ của những lời hứa là "nếu
ông ấy chữa được phong cùi thì ông ta phải có quyền phép tha tội ". Chúa
Nhật tuần sau, Phúc âm sẽ nhắc đến sự liên quan giữa tội với bệnh tật và Chúa
Giêsu có quyền chữa cả hai thứ.
Thánh Mác-cô cho chúng ta biết
là : mỗi người nghe Phúc âm đều được hưởng lòng thương xót của Chúa Giêsu
và Ngài muốn chữa chúng ta. Lời Ngài nói với người cùi là lời nói với xã hội
tội lỗi và với chúng ta. Nơi Bàn tiệc thánh hôm nay, chúng ta như người ăn xin
kêu van tới Chúa Giêsu : "Nếu Ngài muốn, xin Ngài cho chúng con được lành
bệnh". Và chúng ta đừng quên là Phụng vụ hôm nay áp dụng Phúc âm vào thế
giới và cả với chúng ta. Hãy đem những dữ kiện nói đến lòng thương xót Chúa
trong việc, chữa sạch, tha thứ, ân phúc, sự cứu rỗi, chữa lành bệnh v.v... Như
kinh nguyện đọc trên của lễ bánh và rượu: "Lạy Chúa, chúng con dâng của lễ
này trước tôn nhan Chúa. Xin cho của lễ rửa sạch tâm hồn và hoán cải chúng con
và cho chúng con được hưởng hạnh phúc trường sinh. Chúng con cầu xin nhờ
…."
Đây, chúng ta kêu van đến Thiên
Chúa, xin Ngài chữa lành chúng ta qua Chúa Giêsu. Chúa Giêsu mau lẹ trả lời cho
người cùi: Tôi muốn, anh sạch đi’’ chính là niềm an ủi cho chúng ta
.
Nhưng bệnh cùi của tội lỗi không
phải là chuyện của riêng ai, nó làm rúng động, làm ảnh hưởng đến xã hội và thế
giới loài người. Điều này rất dễ thấy : Vừa rồi, tôi đi máy bay nên không
thể đem máy vi tính theo để tìm đọc đề tài nói về ảnh hưởng của tội lỗi trên
thế giới. Nhưng tôi nhận được một tờ báo, mà ngay ở trang đầu đã nói về những
ảnh hưởng của tội lỗi. Đó là những tin nói về nền kinh tế đang khủng hoảng:
Một ngân hàng lớn cắt giảm hằng trăm triệu dollar đầu tư vào ông Madoff khi
phát hiện ông ta chiếm đoạt gần 50 tỷ dollar của dân chúng. Nhưng ngân hàng đó
không hề cho những người đầu tư khác biết chuyện ấy, và có lẽ các trương mục của
họ cũng “rỗng tuếch”.
Rồi lại thêm tin tức về thị
trường chứng khoán sụp đổ nhiều tỷ đô la. Một số lớn các tổ chức tài chính,
một số tên nổi bật nhất trong các doanh nghiệp trên thế giới được thu thập một
ước tính khoảng 18,4 tỷ đồng tiền thưởng trong năm ngoái. Lại có tin người ta
tự đốt nhà để khai gian tiền bảo hiểm. Năm bị can, bị cáo là các thanh thiếu
niên đã giết chết một người đàn ông La tinh và tấn công những người khác trên
Long Island. Tin người ta chém giết nhau vì phân biệt chủng tộc, tin những vụ
chém giết khác trong các lao tù. Trên trang thể thao thì lại có tin dùng thuốc
kích thích để nâng cao khả năng trong thi đấu thể thao v.v....
Tin tức về chiến tranh ở
Afghanistan, bên Châu Phi, ở vùng Gaza với người Do Thái, tin nạn đói, tin khí
hậu thay đổi quá độ v.v... Đây là những tin về hậu quả của tội lỗi trên thế
giới chúng ta đang sống. Biết bao giờ chúng ta mới ý thức được đời sống cộng
đoàn nhân loại, hay chúng ta cứ để bệnh cùi kéo mãi trên chiếc xe loài người
chúng ta sao?
Những người có bệnh nghiêm trọng
hoặc bị tật nguyền trong một thời gian dài, họ cảm thấy bị xa rời cộng đoàn,
làm như họ là những người cùi. Xã hội hầu như quên hẳn những người ấy, và chỉ
lo riêng cho mình thôi. Nhưng trong giáo đoàn chúng ta, sẽ không quên những anh
chị em yếu đuối hay bị tật nguyền. Chúng ta có những người tình nguyện đem
Mình Thánh Chúa đến cho họ, đến những nhà dưỡng lão và những lao tù. Những
người tình nguyện thay mặt chúng ta và qua họ, Chúa Giêsu nhắc chúng ta nhớ họ
là phần tử của giáo đoàn chúng ta.
Vậy chúng ta là ai ? Chúng ta là một cộng đoàn gồm
những phần tử luôn cần được chữa lành, và chúng ta đưa tay ra kêu van cùng Chúa
Giêsu : "Nếu Thầy muốn, xin Thầy hãy chữa chúng con lành". Và
Ngài sẽ trả lời với một giọng đầy tình thương xót là "lẽ cố nhiên Thầy
muốn, Thầy muốn các con được lành ".
Người mắc bệnh phong
(Mc 1, 40-45)
Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Có một hòn đảo nằm chơi vơi giữa
biển Thái Bình Dương mênh mông, trên đảo chỉ toàn là những người phong : cụt
tay, đứt chân, mắt đui, mày lở, răng rụng…Một hôm, đức giám mục phụ trách quần
đảo này gióng tiếng kêu gọi các linh mục ở Âu châu hãy tình nguyện hy sinh sang
đó phục vụ. Một linh mục trẻ, đẹp trai, thông minh, khỏe mạnh đã hăng hái đáp
lời, đó là cha Đa-Miêng, sau này được tặng thêm biệt danh “Tông đồ người
phong”.
Khi đặt chân đến hòn đảo này, cha
Đa-Miêng đã được tiếp đón và giới thiệu như sau : chiều hôm đó, trong ngôi nhà
thờ rất đông người phong, đức giám mục đứng trên bàn thờ quay xuống giới thiệu
với mọi người : “Các con thân mến, các con hằng mong ước có một linh mục đến ở
cùng các con, yêu thương săn sóc các con, thì đây cha Đa-Miêng, một linh mục
người Bỉ sẽ sống chung với các con từ nay cho đến chết, các con có sung sướng
không ?”. Cả nhà thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đa-Miêng đứng cạnh đức giám
mục chẳng hiểu họ nói gì. Rồi họ từ từ bước lên cung thánh, dáng điệu chất phác
đơn sơ. Cha Đa-Miêng thấy họ đến gần mình thì sởn tóc gáy và nổi da gà, trông
họ như những thây ma còn sống, như những quái thai mất hẳn dáng người. Họ làm
gì đây ? Họ tiến đến bên cha, người thì sờ vào mặt, người thì sờ vào tay, người
thì sờ vào áo cha…Cha hỏi đức giám mục : “Thưa đức cha, họ làm gì vậy ?”. Đức
cha trả lời: “Họ nói họ không thể tưởng tượng được một người ở phương xa, chẳng
bà con huyết thống gì với họ, trẻ trung, đẹp trai, không bệnh tật như họ, tự
nhiên lại đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này, họ không tin mắt mình nên
họ đến sờ mó vào người cha, xem cha có bị phong như họ không, và họ nói với
nhau : “Không, cha đẹp quá, cha không bệnh tật gì cả, cha thương chúng ta quá”.
Sống với những người phong ở đây
được một thời gian, dần dần cha Đa-Miêng hòa đồng được với họ, nói tiếng của
họ, cha không còn cảm thấy tởm gớm họ như những ngày đầu mới đến, nói đúng hơn,
cha đã quá yêu Chúa Giêsu bị bỏ rơi trong họ, nên chẳng còn thấy ghê sợ gớm tởm
nữa. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh phong, thân mình lở loét, nhức
nhối, mặt mày sần sùi, đen đủi, trông rất dễ sợ. Một số báo ở Bỉ đăng hình cha
và kể lại sự hy sinh vĩ đại của cha. Thân mẫu của cha, mắt mờ không đọc được,
nhìn vào bức hình bà cũng chẳng nhận ra nổi đứa con yêu, bà hỏi đứa cháu :
“Hình ai đây mà trông ghê sợ vậy ?”, cô cháu trả lời : “Một người phong bên đảo
Môlôkai của cha Đa-Miêng đấy”. Qua mắt được bà cố, nhưng họ lại nhìn nhau và
không ai bảo ai, tất cả đều xót xa rơi lệ. Cha Đa-Miêng đã sống với người phong
trên hòn đảo này cho đến chết, tình yêu Chúa đã giúp cha hy sinh suốt đời vì
họ.
Phong, hủi hay cùi cũng là một
thứ bệnh. Đã có lần nào anh chị em gặp một người phong cỡ nặng chưa ? mời anh
chị em vào trại phong Di Linh, Quy Hòa, Bến Sắn...anh chị em sẽ thấy một người
phong nặng, không còn hình tượng gì là con người nữa, tứ chi rụng hết, mặt mũi
sần sùi, thân mình lở loét. Có người đến đây không chịu nổi sự dơ bẩn đã té xỉu
vì hôi thối nặng mùi. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng sợ mắc phải chứng bệnh
như thế, chúng ta sẽ tránh xa và gìn giữ vệ sinh cẩn thận kẻo mắc thứ bệnh này.
Cũng vậy, bệnh phong đối với xã
hội Do Thái thời Chúa Giêsu bị kể là dơ bẩn, một loại không thánh nữa, bị cô
lập riêng ra một nơi, không được ở chung với dân làng, ngay cả cha mẹ thân nhân
cũng không được chứa người đó trong nhà. Một người phong thời Chúa Giêsu là một
nạn nhân thật sự bị ruồng bỏ, đi đâu người đó cũng phải lắc chuông hoặc kêu lên
“dơ, dơ” để mọi người biết mà tránh xa.. Đau khổ nhất là bị cộng đồng Do Thái
giáo gạt ra ngoài như một loại dứt phép thông công, cho nên, người mắc bệnh
phong hết sức đau khổ về tinh thần cũng như thể xác, về của ăn họ chỉ sống nhờ của
bố thí.
Nhưng trong câu chuyện Tin Mừng
kể lại, chúng ta thấy người phong này đã đi vào xóm làng, chạy theo Chúa Giêsu
và xin Ngài cứu chữa. Làm như thế là người này đã vi phạm luật lệ thời đó và có
thể bị ném đá chết. Nhưng niềm tin vào Chúa đã khiến anh không sợ hãi để liều
mình như thế. Thực vậy, anh đến với Chúa với một niềm tin tuyệt đối, anh khiêm
nhường quỳ xuống van xin : “Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi
được sạch”. Chúng ta hãy để ý câu anh nói “Nếu Ngài muốn”, anh nói như thế không
phải là anh hồ nghi gì quyền năng của Chúa, mà ngược lại, anh hoàn toàn tùy
thuộc vào Chúa. Nói rõ hơn, anh biết rằng Chúa có thể và Chúa có quyền làm cho
anh khỏi bệnh, nhưng điều đó còn tùy ý Chúa, tùy lòng thương xót của Chúa. Đây
cũng là gương mẫu nhắc nhở chúng ta mỗi khi cầu xin Chúa điều gì : xin vâng,
xin tùy ý Chúa, xin tùy lòng thương xót của Chúa.
Đàng khác, người Do Thái hết sức
khinh bỉ những người phong, đến nỗi bất cứ ai giao tiếp cách nào với họ, như
nói chuyện với họ thôi, cũng bị kể là dơ bẩn và không nên thánh được. Thế mà
Chúa Giêsu đã nói chuyện và đụng chạm đến người phong này để chữa lành anh ta
thì đủ nói lên lòng thương xót của Chúa như thế nào. Có những phép lạ Chúa chỉ
phán một lời hay chỉ làm một cử chỉ nào đó, ở đây Chúa dùng cả hai : Chúa vừa
nói “Tôi muốn, anh sạch đi” vừa cầm tay bệnh nhân để nói lên tình thương của
Ngài đối với anh ta.
Đây cũng là điều nhắc nhở chúng
ta : những người phong là những người đáng thương, chúng ta đừng bao giờ sợ hãi
mà xa tránh, nhưng hãy thật lòng thăm hỏi và cố gắng chia sẻ, giúp đỡ tùy theo
điều kiện và hoàn cảnh của chúng ta.
Lời Chúa Và Thánh Thể
Ngài đặt tay và anh được lành mạnh
Mc 1, 40 - 45
Căn bệnh đáng sợ nhất đối với dân
Dothái ngày xưa, chính là bệnh phong cùi. Nó như căn bệnh đại dịch truyền
nhiễm, reo rắc biết bao khiếp sợ. Số phận của người bị bệnh cùi thật đáng
thương. Ngay khi phát hiện các dấu hiệu của bệnh, người bệnh bị cách ly khỏi
đời sống xã hội và bị ép buộc phải trốn tránh xã hội. Điều này có nghĩa là
người bệnh phải thốt ra lời từ biệt gia đình, bỏ lại sau lưng tất cả cuộc sống,
nghề nghiệp và mọi người thân thương quen biết. Tâm trạng âu lo hoảng loạn và
nỗi đau lòng khổ tâm khi đối mặt với sự cô đơn, bị người thân hắt hủi, bị xã
hội bỏ rơi. Họ không chút hy vọng nào được hưởng tình thương yêu, cảm thông,
chia sẻ của người thân. Tệ hơn nữa, họ bị liệt vào hạng người ô uế, bị Thiên
Chúa chúc dữ. Họ không được coi như là một con người. Họ phải sống một cuộc đời
vất vưởng, tủi nhục, đau khổ và họ sống mà coi như đã chết.
Đó là nỗi bất hạnh lớn nhất của
người mắc bệnh phong cùi, ai cũng xa lánh, kể cả bà con thân thuộc. Người ta ai
cũng sợ bệnh cùi, dù khoa học ngày nay có chữa trị được, nhưng ấn tượng hoang
mang về chứng bệnh truyền nhiễm vẫn còn để lại trong đầu óc chúng con rất mạnh
mẽ. Do đó mà nhiều khi, chúng con thường e dè, sợ sệt khi tiếp xúc với người
mắc chứng bệnh nan y, dù rằng họ đã lành bệnh. Đó cũng là nỗi bất hạnh của
người cùi, không được loài người chấp nhận họ sống chung. Ngoài việc phải chiến
đấu với bệnh huỷ hoại thân thể, người phong cùi còn phải chịu một hình phạt
thấm thía hơn về tinh thần : đó là bị người khác xa tránh.
Ngày nay điều đáng lo ngại hơn cả
là bệnh cùi trong tâm hồn, không ai biết và không ai thấy. Vì người bệnh dáng
vẻ bên ngoài bình thường, đôi khi còn đàng hoàng, đạo mạo, áo quần tươm tất và
lời lẽ đạo đức, nhưng trong tâm hồn thì chứa đày những tham lam, ích kỷ. Họ đi
đến đâu là có sự chia rẽ, tranh chấp và ghen ghét... Đó là thứ bệnh cùi thiêng
liêng. Nếu bệnh cùi thể xác khiến người ta bị cô lập về phương diện thể lý, thì
bệnh cùi thiêng liêng khiến người ta bị cô lập về đời sống đạo hạnh, làm sứt mẻ
tình thân hữu với người khác và làm xa cách Chúa, hay mất ơn nghĩa với Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể !
Trước lòng tin tưởng trọn vẹn của
bệnh nhân, Chúa đã tỏ lòng thương yêu khi mời gọi từng người trong chúng con
đến lãnh bí tích Hoà giải, để được Chúa chữa lành. Chúa đã vượt qua luật đạo cũ
khi đụng đến người cùi. Ngày nay Chúa vẫn đụng chạm đến chúng con khi chúng con
lãnh bí tích Thánh Thể. Hơn nữa, khi Chúa ngự vào tâm hồn chúng con, Chúa muốn
đụng đến cội rễ sâu xa của mọi đau khổ, tức là những gì do tội lỗi gây ra. Chúa
không chỉ muốn chữa lành chúng con về phần xác, mà còn muốn nhổ tận gốc những
tàn dư của tội lỗi, những ích kỷ, tham lam ra khỏi chỗ thâm sâu nhất của tâm
hồn và phục hồi nhân phẩm làm con cái Chúa, như xưa Chúa đã đưa người cùi trở
lại với cuộc sống bình thường.
Xin Chúa giúp chúng con biết học
cùng Chúa mà biết “chạnh lòng” trước nỗi thống khổ của anh em đồng loại và mau
mắn giúp đỡ họ. Xin Chúa ban cho chúng con một tinh thần sáng suốt, một trái
tim rộng mở để chúng con biết đón nhận và chia sẻ với mọi người, nhất là những
người khổ đau, bệnh tật... để mọi người được yêu thương và được kính trọng.
Amen
Thiên Chúa giàu lòng thương xót
(Mc 1, 40 - 45)
Đaminh Phạm Thanh Cao, OP
Kính thưa cộng đoàn,
Hằng ngày khi nhìn lên Thánh giá,
mỗi người không khỏi tự vấn: tại sao chúng ta lại tôn thờ một Giêsu chết treo
tất tưởi trên cây gỗ giá! ? Điều mà người Do Thái coi là ô nhục và dân ngoại
cho là điên rồ (1Cr 1,23). Thánh Phaolô trả lời cho chúng ta câu hỏi này khi
chia sẻ với tín hữu Ga-lát: Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập
giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh
với tôi, và tôi với thế gian. (Gl 6,14). Đó là niềm vinh dự của thánh nhân và
cũng là của chúng ta. Vì đó là cách Thiên Chúa bày tỏ lòng thương xót và tình
yêu của Người cách tột cùng - vì bên kia sự chết là sự sống vinh quang.
Nếu nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nói:
cứu độ là như sen ngụp lặn dưới bùn lầy nhơ nhớp, hút lấy tất cả những gì của
bùn lầy để dâng cho đời đoá sen tươi thắm thì đây còn hơn thế. Chính Đức Giêsu
đã mang lấy toàn bộ tội lụy và nhuốc nhơ của chúng ta vào mình mà đưa lên cây
thập giá và cho nở hoa vinh quang. Vinh quang này biến đổi chúng ta thành một
con người hoàn toàn mới - con người trong mối hiệp thông với Thiên Chúa và với
nhau. Mối thông hiệp bị phá vỡ do nguyên tội nay được kết nối lại.
Cuộc kết nối này được tiên báo
nhiều lần trong Cựu Ước và nhiều việc làm thi thố lòng thương xót của Đức
Giêsu. Trình thuật chữa lành người phong hủi hôm nay là một trong những hình
ảnh báo trước:
Thứ nhất: Đức Giêsu - Thiên Chúa
- không đứng từ đàng xa dùng quyền năng của Người mà chữa anh nhưng đã chạnh
lòng thương, cúi xuống, đụng tới anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi”. Tức thì
anh được sạch. Được chữa lành, anh được trở lại mối thân tình với Thiên Chúa,
vì vào thời đó, dân Do Thái cho rằng: bệnh tật, nhất là phong hủi được coi như
án phạt của Chúa trên kẻ có tội.
Thứ hai: việc người truyền anh
trình diện với tư tế để anh được chứng thực khỏi bệnh đồng nghĩa với việc anh
được hội nhập trở lại cộng đồng. Vì vào thời Đức Giêsu người phong hủi phải
sống tách biệt khỏi cộng đồng.
Như thế không phải là hình ảnh
báo trước cuộc kết nối trọn hảo chính Đức Giêsu sẽ thực hiện nhờ cuộc khổ nạn
và phục sinh của Người! Nhưng để có thể được kết nối trở lại thì chúng ta cần
có thái độ nào. Chính người phong hủi là tấm gương sống động cho mỗi người.
Chính anh đã bước ra khỏi bản thân để đến với Đức Giêsu và xin Người: “Nếu Ngài
muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. (Mc 1, 40). Anh xin điều Đức Giêsu -
Thiên Chúa muốn mà không phải theo ý anh; trong khi, thường chúng ta hay xin
theo ý của ta và than trách Người khi không được như ý. Anh tin tưởng và phó
thác một cách đơn thành cho tình thương và lòng thương xót của Đức Giêsu. Chính
vì thế, Đức Giêsu đã thực hiện khoản luật trên hết mọi khoản luật - luật yêu
thương - khi người cúi xuống, đụng tới và chữa lành anh. Điều Người không thể
thực hiện tại quê hương của mình khi dân chúng chỉ xin theo ý họ và không tin
(Mc 6, 1-6; Mt 13, 54-58; Lc 4, 16-30).
Thật vậy, Thiên Chúa như người
cha giàu lòng thương xót trong dụ ngôn người con hoang đàng. Người luôn chờ
mong và sẵn sàng mở rộng vòng tay yêu thương và tha thứ khi người con biết nhìn
nhận bản thân, tin tưởng và mở lòng ra với cha mình.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể ! Đâu đó
vẫn còn tình trạng phân biệt kỳ thị chủng tộc, tôn giáo. Đâu đó vẫn còn hàng
rào ngăn cách đối với những người HIV, lao; những người khuyết tật; những người
tù tội; những người cơ nhỡ… Đó là thứ phong hủi thời đại mới. Thứ bệnh nhiều
khi chính mình mắc phải mà chẳng hay. Xin thêm đức tin cho chúng con. Xin cho
con biết phó thác, tin tưởng nơi Người, để Người ra tay chữa lành chứng phong
hủi trong tâm hồn con. Xin cho con là cánh tay nối dài của tình yêu thương của
Chúa trong thời đại hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể !
Cây Thánh giá gồm hai thanh:
thanh dọc nối Trời và Đất, thanh ngang nối người với người. Xin cho con mang
trọn thập giá đời mình không phải riêng thanh ngang hay thanh dọc vì Chúa dạy
con : Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo tôi.
(Mc 8, 34). Xin dùng con để con trở thành mối dây hiệp thông nơi mình sinh sống
để Tình Chúa Tình Người mãi nở hoa. Amen
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét